Võ Minh Tập (St)
Biển Đông là một
biển nửa kín, là một phần của Thái Bình Dương với diện tích vào khoảng
3.500.000 km2, là hình thể biển lớn nhất sau 5 đại dương. Đây là một khu vực có
vị trí rất quan trọng cả về tài nguyên biển và đường hàng hải quốc tế. Tuy
nhiên, đây cũng là một trong những nơi có nguy cơ xảy ra nhiều xung đột, có thể
coi là một “điểm nóng” về an ninh và ổn định của khu vực châu Á – Thái Bình
Dương. Ở khu vực này, các tuyên bố chủ quyền của nhiều quốc gia chồng lấn lên
nhau, bao gồm tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam,
Philippines, Malaysia và Brunei khiến cho tình hình rất phức tạp. Trong lịch sử
đã có nhiều đụng độ giữa các quốc gia, thậm chí là cả bằng quân sự, xảy ra.
Trong khu vực, đã
có nhiều nỗ lực nhằm giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông hoặc chí ít là xây
dựng lòng tin giữa các bên nhằm kiềm chế xung đột tiềm tàng, ngăn chặn đụng độ
quân sự làm phức tạp thêm tình hình, chủ yếu thông qua thương lượng, đàm phán.
Điển hình như việc ký kết Tuyên bố ứng xử các bên ở Biển Đông năm 2002 giữa
Trung Quốc và ASEAN. Tuy nhiên kết quả vẫn chưa được như mong đợi, căng thẳng
vẫn thường xuyên xảy ra.
Trong khu vực đến nay cũng đã có một vài hội thảo, hội
nghị có nội dung liên quan đến Biển Đông như các Hội thảo về quản lý xung
đột ở Biển Đông do Indonesia chủ trì từ những năm 1990 đến nay, hay các
hội thảo tại Malaysia, Singapore, mới đây nhất là Hội thảo “Biển Đông:
Hướng tới một cơ chế quản lý hợp tác” do Trường Nghiên cứu quốc tế S. Rajaratnam,
Đại học Công nghệ Nanyang tổ chức tại Singapore năm 2007.
Hội thảo khoa học
quốc tế lần thứ nhất “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển ở khu vực”
đồng tổ chức bởi Học viện Ngoại giao Việt Nam và Hội Luật gia Việt Nam tại Hà
Nội trong 2 ngày 26 – 27 tháng 11 năm 2009 cũng là một trong số những hội thảo
quốc tế nhằm tăng cường hợp tác ở khu vực và xây dựng lòng tin giữa các quốc
gia. Tham dự hội thảo có 53 học giả quốc tế hàng đầu về Biển Đông từ 22 nước
và vùng lãnh thổ (Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Indonesia, Singapore,
Đài Loan, Mỹ, Úc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Pháp, Anh, Đức, Nauy,
Thụy Điển,..) cùng với hơn 100 đại biểu Việt Nam. Ngoài ra, hội thảo cũng có
sự tham dự của các nhà ngoại giao đến từ Đại sứ quán nhiều nước tại Hà Nội.
Mục tiêu của hội thảo là hình thành mạng lưới các nhà nghiên cứu về Biển Đông
từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau như khoa học pháp lý, chính trị, quan hệ
quốc tế,… Hội thảo cũng nhằm tạo diễn đàn để các nhà nghiên cứu chia sẻ, thảo
luận những quan điểm của mình, đồng thời tăng cường tình hữu nghị giữa các học
giả nghiên cứu về Biển Đông. Ở mức độ cao hơn, hội thảo kiến nghị những giải
pháp, từ góc độ học thuật, đối với những tranh chấp hiện nay ở khu vực Biển
Đông.
Nội dung của hội thảo tập trung vào 3 cụm vấn đề
chính: (1) Tầm quan trọng của Biển Đông trong khu vực cũng như trên toàn cầu
trong bối cảnh tổng thể của môi trường quốc tế. (2) Những diễn biến gần đây ở
Biển Đông và những hệ lụy đối với hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực. (3)
Những phương thức và phương tiện để duy trì hòa bình, ổn định và tăng cường hợp
tác ở Biển Đông.
Cuốn kỷ yếu Hội
thảo khoa học quốc tế lần thứ nhất “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển
trong khu vực” này tập hợp những tham luận của các học giả tham dự hội nghị.
Bám sát vào nội dung của thảo luận, hầu hết tham luận của các nhà nghiên cứu
được giới thiệu trong cuốn kỷ yếu này tập trung phân tích:
-
Ý nghĩa toàn cầu và khu vực của Biển Đông trong bối
cảnh môi trường quốc tế có nhiều thay đổi.
· Những diễn biến
gần đây ở Biển Đông – hệ lụy đối với hòa bình, ổn định và hợp tác khu vực.
· Khuôn khổ hợp
tác ở Biển Đông.
· Kinh nghiệm và
triển vọng trong hợp tác ở Biển Đông.
Ba tham luận
đầu tiên tập trung phân tích tầm quan trọng của biển Đông trên toàn cầu trong
bối cảnh môi trường quốc tế có nhiều thay đổi.
Học
giả-tướng về hưu-Vinod Saighal người Ấn Độ tập trung tìm hiểu mô hình phát triển (hay mô hình
tìm kiếm quyền lực) của Trung Quốc. Tác giả đưa ra ba mô hình phát triển mà nước
này có thể theo đuổi đồng thời phân tích những hành vi của nước này với tư cách
“người khổng lồ của khu vực”. Cuối cùng, tác giả đề xuất một vài cách giải
quyết vấn đề ở Biển Đông như phi quân sự hóa khu vực Biển Đông và hợp tác cùng
khai thác tài nguyên.
Giáo sư
người Anh Geoffrey Till nhấn
mạnh tầm quan trọng của Biển Đông về năng lượng, về hàng hải. Ông cũng phân
tích tình hình phức tạp ở khu vực khi nhiều bên liên quan ngày càng gia tăng
sức mạnh hải quân của mình. GS. Geoffrey đưa ra một số kiến nghị để xử lý tranh
chấp, bao gồm việc các bên tuyên bố yêu sách của mình, từ bỏ sử dụng vũ lực, tự
kiềm chế và gia tăng nỗ lực mở ra các hợp tác chuyên ngành. Mặc dù cho rằng,
đến nay chưa có biện pháp nào khả thi, tác giả khẳng định không nên “tuyệt vọng”
vì nhu cầu hợp tác để giữ ổn định ở Biển Đông sẽ tăng lên khi thương mại trong
khu vực ngày càng gia tăng.
Trong tham luận
của mình, chuyên gia phân tích chính sách biển người Mỹ, TS. Mark J.
Valencia, cho rằng những diễn biến ở Biển Đông hiện nay cho thấy tình
hình đã có nhiều biến chuyển nhưng cũng dấy lên nhiều lo ngại. Từ đó tác giả
cũng đưa ra một số bước đi có thể triển khai ngay như xây dựng hệ thống cảnh
báo để tránh xung đột hay chính thức hóa Bộ Quy tắc ứng xử mang tính ràng
buộc pháp lý đối với các bên tại Biển Đông.
Phần thứ hai
gồm bốn tham luận bàn về ý nghĩa của Biển Đông từ cấp độ khu vực.
GS. Tề
Quốc Hưng (Ji Guo Xing) của
Trường Đại học Thượng Hải, Trung Quốc thì cho rằng, các tuyến vận tải biển ở
Biển Đông nối Đông Bắc Á với Đông Nam Á và Trung Đông là đường vận tải huyết
mạch của khu vực; an ninh hàng hải ở Biển Đông cũng là một bộ phận quan trọng
trong an ninh Châu Á. Những tranh chấp ở Biển Đông bao gồm ba lĩnh vực chính:
chủ quyền đảo, phân định vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và tranh chấp
giữa tự do hàng hải và mở rộng quyền tài phán đối với lãnh hải, eo biển, vùng
nước quần đảo, vùng đặc quyền kinh tế. Theo tác giả, thông thường có 3 cách để
đạt được giải pháp công bằng và hợp lý: đàm phán nhân nhượng, phân xử của Tòa
án Quốc tế và gác tranh chấp, thúc đẩy phát triển chung. Trong khi ủng hộ biện
pháp thứ ba, tác giả cho rằng, không nên loại trừ hai cách kia.
TS. Trần
Công Trục, nguyên Trưởng Ban
Biên giới Chính phủ của Việt Nam, khái quát tình trạng tranh chấp ở Biển Đông
bao gồm hai loại tranh chấp: tranh chấp chủ quyền và tranh chấp ranh giới các
vùng biển, thềm lục địa chồng lấn. Tác giả cho rằng, cần thống nhất một số khái
niệm và cách giải thích của luật quốc tế cũng như phạm vi yêu sách của các bên;
phương châm giải quyết là: “dễ giải quyết trước, khó giải quyết sau”, phương
pháp là thông qua diễn đàn song phương, đa phương chính thức và không chính
thức với sự tham gia của các tổ chức khu vực và quốc tế.
GS. Tống
Yến Huy (Song Yann-huei),
người Đài Loan, thì tập trung nghiên cứu các cách giải thích và áp dụng điều
121 (đặc biệt là khoản 3) Công ước Luật Biển đối với 5 đảo trong tranh chấp ở
Biển Đông. Trong phần cuối của tham luận, tác giả cũng đưa ra một số đề xuất
sửa đổi điều 121 và một số biện pháp về chính sách để giải quyết thắc mắc xung
quanh điều khoản này.
Học giả Nazery Khalid đến từ Malaysia cũng
khẳng định tầm quan trọng của Biển Đông đối với khu vực: là tuyến giao thông
huyết mạch của các nền kinh tế Đông Á, có hệ sinh học đa dạng phong phú và có
các khu vực đánh bắt cá dồi dào. Đây cũng được cho là khu vực có trữ lượng lớn
dầu mỏ và khí đốt. Tác giả cũng cảnh báo về mối đe dọa tới an ninh, sự ổn định
và thịnh vượng của khu vực, đồng thời ủng hộ mạnh mẽ việc sử dụng thương mại và
phát triển kinh tế nhằm khuyến khích hợp tác giữa các quốc gia để xoa dịu những
căng thẳng trong khu vực.
Phần thứ ba
được chia thành hai phiên với 10 tham luận của các nhà nghiên cứu phân tích
những diễn biến gần đây ở Biển Đông và những hệ lụy của nó đối với việc hợp
tác trong khu vực.
Tướng về
hưu Daniel Schaeffer, cựu tùy
viên Quân sự Pháp tại Việt Nam, Thái Lan và Trung Quốc điểm lại một số mốc quan
trọng trong lịch sử tranh chấp ở Biển Đông có ảnh hưởng đến tình hình khu vực.
Sau đó tác giả phân tích những diễn biến gây bất lợi và có lợi cho việc thúc
đẩy hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực.
TS. Trần
Trường Thủy, Học viện Ngoại giao
Việt Nam, tập trung phân tích Tuyên bố ứng xử các bên ở Biển Đông ký giữa
Trung Quốc và ASEAN năm 2002 (DOC): quá trình hình thành, các nội dung cơ
bản của DOC, các nhân tố ảnh hưởng đến việc thỏa hiệp và hợp tác giữa ASEAN
và Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
Trung Quốc là một
nước lớn ở khu vực, các bước đi của nước này ảnh hưởng cơ bản tới tình hình
Biển Đông. Trong tham luận của mình, GS. Carlyle A. Thayer người
Úc phân tích các sự kiện gần đây: Trung Quốc tăng cường căn cứ hải quân Tam
Á, quấy rối tàu Mỹ qua vụ Impeccable vào tháng 3 năm 2009, đơn phương ban
hành và thực thi lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông; cho rằng, chính sách của
Trung Quốc đối với Biển Đông đang phát triển theo hướng “cứng” lên.
GS. Lý
Kim Ninh (Li Jin Ming) từ Đại
học Hạ Môn, Trung Quốc đưa ra bốn thay đổi lớn ở Biển Đông liên quan đến vấn đề
an ninh bao gồm: một số nước Đông Nam Á nộp báo cáo về ranh giới ngoài thềm
lục địa lên Liên hợp quốc, Philippines thông qua đạo luật Đường cơ sở quần
đảo; nhiều công ty dầu mỏ quốc tế tham gia khai thác dầu mỏ tại Biển Đông; các
quốc gia ven biển Đông sử dụng quân đội để tăng cường khả năng khống chế vùng
biển mà mình khẳng định chủ quyền và; sự can dự của các nước lớn ngoài khu vực
đối với tranh chấp này. Từ đó, tác giả đề xuất ba kiến nghị nhằm tăng cường hợp
tác tại khu vực này: sử dụng phương pháp hòa bình, thông qua đàm phán ngoại
giao; thiết lập cơ chế tăng cường lòng tin giữa các quốc gia; coi trọng hợp tác
đánh bắt cá tại Biển Đông.
Còn GS.
Rommel C. Banlaoi (Philippines) thì cho rằng những căng thẳng an ninh
liên quan tới các đảo tranh chấp ở biển Đông ngày càng gia tăng, những nhân tố
gây bất ổn định ngày càng nhiều. Tác giả khẳng định các tranh chấp tại Biển
Đông tiếp tục là nhân tố gây bất ổn định cho an ninh của khu vực Châu Á Thái
Bình Dương. Chính vì thế, cần phải tăng cường tính minh bạch và thúc đẩy việc
xây dựng lòng tin giữa các bên có yêu sách.
Cũng nói về những
diễn biến gần đây ở Biển Đông, TS. Ian Storey từ Viện Nghiên
cứu Đông Nam Á, Singapore tập trung tìm hiểu trên 3 khía cạnh: nguyên nhân sâu
xa của những căng thẳng đang leo thang, đặc biệt là vai trò của Trung Quốc;
phản ứng nước đôi của ASEAN đối với tình hình Biển Đông và những hạn chế của
các cơ chế quản lý tranh chấp đã được thiết lập giữa ASEAN và Trung Quốc; những
hệ lụy đối với sự ổn định của khu vực.
GS. Ba
Hamzah, Đại học Tổng hợp Malaya,
Kuala Lumpur, Malaysia khẳng định mặc dù có nhiều thay đổi trong tình hình ở
Biển Đông nhưng sẽ không có thay đổi lớn nào trong thế cân bằng về địa chính
trị ở khu vực này trong tương lai gần và Trung Quốc vẫn ở vị trí trung tâm
trong tương quan địa chính trị khu vực. Tác giả cho rằng, Trung Quốc đang tìm
cách để biến Biển Đông thành “ao nhà” của mình và rằng, các nước cũng không nên
lo ngại về nền hòa bình dưới sự thống trị của Trung Quốc (!).
GS. Leszek
Buzynski đến từ trường Đại học
Quốc tế Nhật Bản cho rằng việc tranh giành các đảo hay đưa ra các tuyên bố xung
đột và sự thiếu vắng các nỗ lực để tiến tới một giải pháp cho thấy rằng xung
đột luôn có thể xảy ra. Theo tác giả, có 5 giải pháp nhằm giải quyết vấn đề
này: (i) đàm phán đa phương; (ii) giải pháp pháp lý; (iii) một chế độ hợp tác
quản lý chung áp dụng cho Biển Đông; (iv) hội thảo các kênh để tăng cường hiểu
biết và tìm kiếm giải pháp khả thi; (v) hợp tác phát triển năng lượng.
Với tiêu đề bài
tham luận: Liệu có thể giải quyết được các tranh chấp ở Biển Đông không? GS.
Stein Tonnesson thuộc Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Na Uy cho rằng
còn rất lâu các tranh chấp ở biển Đông mới có thể giải quyết được. Khác với một
số nhà nghiên cứu ủng hộ hợp tác khai thác chung, ông cho rằng cùng thăm dò có
thể rất nguy hiểm vì nếu tìm được dầu khí thì xung đột sẽ càng leo thang. Theo
tác giả, tốt hơn hết là tích cực áp dụng luật biển để làm cơ sở phân định lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa. Tác giả khẳng định Trung Quốc là
nhân tố chính quyết định việc giải quyết vấn đề Biển Đông.
Bà Lý
Kiến Vỹ (Li Jianwei), Viện Nghiên cứu biển Nam Trung Hoa, Trung
Quốc, cho rằng ở Biển Đông đã có nhiều nỗ lực hợp tác trong các lĩnh vực chuyên
ngành nhưng mức độ hợp tác tại khu vực còn kém xa mức độ hội nhập kinh tế. Tham
luận của học giả này ủng hộ việc xây dựng một tổ chức tiểu khu vực nhằm điều
phối hoạt động hợp tác chung tại Biển Đông, kiềm chế việc xảy ra xung đột
và tăng cường hợp tác hiệu quả.
Phần thứ tư
bao gồm bốn tham luận phân tích khuôn khổ hợp tác ở biển Đông.
GS. Ian
Townsend-Gault thuộc Đại học
British Columbia, Vancouver, Canada tập trung nghiên cứu các quy định của luật
quốc tế cũng như thực tiễn quốc gia trong các lĩnh vực hợp tác trên biển. Tham
luận không tập trung nhiều vào động cơ để đến một thỏa thuận pháp lý giữa các
quốc gia mà đi vào phân tích đóng góp của những thỏa thuận đó đối với sự phát
triển của luật quốc tế nói chung và đối với tình trạng bế tắc về pháp lý ở Biển
Đông nói riêng.
TS. Lee
Lai To thuộc Khoa Chính trị học,
Đại học Quốc gia Singapore nghiên cứu vai trò của Trung Quốc trong việc
thúc đẩy hợp tác phát triển chung khu vực Trường Sa. Trong tham luận
của mình, ông xem xét các nỗ lực hoặc sáng kiến của Trung Quốc nhằm xử lý xung
đột Biển Đông. Từ đó, ông cho rằng Trung Quốc có thể đi đầu trong việc
thúc đẩy hợp tác. Học giả này cũng đưa ra một số gợi ý Trung Quốc nên
làm gì để giảm căng thẳng và gìn giữ hòa bình và ổn định ở Biển Đông, đó là
tích cực đưa ý tưởng phát triển chung thành hiện thực.
Cũng bàn về hợp
tác ở Biển Đông từ góc độ an ninh, GS. Liu Nan Lai (Liu Nam
Lai) từ Trung tâm Nghiên cứu Luật pháp Quốc tế, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc
cho rằng những nguyên nhân phát sinh ảnh hưởng đến tình hình an ninh ở Biển
Đông rất đa dạng. Theo tác giả, vì sự ổn định và an ninh ở Biển Đông, các quốc
gia liên quan cần thiết lập quan hệ hợp tác, đồng tâm hiệp sức cùng cố gắng.
Hợp tác chỉ có thể thành công khi các bên đều có thiện chí. Đồng thời, cũng cần
phải có một cơ chế hợp tác mà các bên đều có thể chấp nhận được, và cơ chế này
chỉ có thể là luật pháp quốc tế.
TS.
Lokshin M. Grigory từ Viện
nghiên cứu Viễn Đông, Viện Hàn lâm Khoa học Nga cho rằng Thái Bình Dương đang
trở thành “Địa Trung Hải của tương lai” và sự ổn định ở khu vực này có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc duy trì hòa bình và ổn định không chỉ của khu vực mà
còn cả trên thế giới. Xung đột trên Biển Đông thuộc loại xung đột tương đối mới
và tình hình ngày càng trở nên bất định, khó giải quyết và không thể dự đoán
được. Tác giả cũng khẳng định nhân tố quan trọng nhất của xung đột này là
Trung Quốc. Về quan điểm của Nga đối với vấn đề, TS. Lokshin M. Grigory cho
rằng Nga luôn quan tâm sâu sắc đến việc giữ vững môi trường quốc tế ổn định
trong khu vực nhằm bảo đảm tự do hàng hải và lưu thông trên biển.
Sáu tham luận
ở phần thứ năm bàn về những kinh nghiệm và triển vọng trong vấn đề hợp tác ở
biển Đông.
PGS.TS.
Ramses Amer từ Đại học
Stockholm, Thụy Điển tập trung nghiên cứu cách tiếp cận của Việt Nam và Trung
Quốc đối với tranh chấp lãnh thổ. Trước hết tham luận trình bày tổng quan
cách tiếp cận quản lý các tranh chấp biên giới của Việt Nam và Trung Quốc kể từ
khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1991. Tiếp đó, ông phân tích những bài
học và kinh nghiệm từ các cách tiếp cận này. Từ đó xác định khả năng tác động
đối với tình hình ở Biển Đông.
GS. Hasjim
Djalal, Giám đốc Trung tâm
Nghiên cứu Đông Nam Á của Indonesia xem xét hợp tác ở Biển Đông trên khía cạnh
ngoại giao kênh 2. Theo ông các hội thảo về quản lý các xung đột tiềm
tàng ở Biển Đông do Indonesia chủ trì nhằm: (i) thiết kế các chương trình
hợp tác, trong đó tất cả mọi người đều có thể tham gia, bất kể lúc đầu các
chương trình có thể nhỏ hoặc không quan trọng đến đâu; (ii) thúc đẩy tiến trình
xây dựng lòng tin và (iii) khuyến khích đối thoại giữa các bên nhằm tìm kiếm
giải pháp cho các vấn đề.
Phân tích triển
vọng giải quyết tranh chấp ở Biển Đông, trong tham luận của mình, học giả Hoàng
Việt thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam cho rằng bất
đồng giữa các thành viên ASEAN vẫn luôn tồn tại, vì thế rất khó đạt được một bộ
luật về hành xử trên Biển Đông. Tác giả cũng khẳng định trong tương lai gần,
vấn đề chủ quyền trong tranh chấp Biển Đông vẫn chưa thể giải quyết được.
PGS.TS. Li
Mingjiang, Đại học Công nghệ
Nanyang, Singapore cho rằng rất khó để có thể sớm có một giải pháp cuối cùng
cho tranh chấp ở Biển Đông. Tuy nhiên, triển vọng tình hình an ninh trong khu
vực tiếp tục ổn định hoàn toàn có cơ sở. Do vậy, việc thúc đẩy hợp tác chuyên
ngành ở Biển Đông sẽ góp phần quan trọng vào ổn định trong khu vực và đáp ứng
được lợi ích chung của các bên tranh chấp trong khu vực.
Quan tâm đến vấn
đề hợp tác trong việc trấn áp nạn cướp biển ở biển Đông, GS. Người Hoa là Châu
Khuất Uyên (Zou Keyuan), Đại học Central Lancashire, Vương Quốc
Anh, cho rằng thiết lập cơ chế chống nạn cướp biển ở biển Đông là hoàn toàn có
cơ sở, và đã có một số kênh để có thể xây dựng một cơ chế như vậy bao gồm Hiệp
định Hợp tác khu vực về chống cướp biển và cướp có vũ trang các tàu thuyền ở
châu Á (ReCAAP), Tuyên bố ứng xử các bên tại Biển Đông (DOC) và các thỏa
thuận hợp tác trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống giữa Trung Quốc và ASEAN.
Trong tham luận
của mình, Matthias Fueracker, chuyên gia pháp luật của Tòa án
Quốc tế về Luật Biển trình bày về các thủ tục và khả năng giải quyết tranh chấp
bằng luật biển quốc tế cho những nước muốn tìm kiếm một giải pháp hòa bình
thông qua các cơ quan tài phán quốc tế.
Tóm lại, hầu hết các tham luận đều nhất trí với quan điểm cho
rằng, Biển Đông không chỉ quan trọng đối với khu vực mà ngày càng có ý nghĩa
toàn cầu, diễn biến tình hình ở biển Đông chẳng những ảnh hưởng đến các nước
trực tiếp liên quan trong khu vực mà còn có thể ảnh hưởng rộng hơn nữa đối với
khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và phạm vi toàn cầu.
Về vấn đề hợp tác
khai thác chung, mặc dù được trao đổi khá nhiều nhưng hội thảo vẫn không đi đến
nhận thức thống nhất. Một số học giả cho rằng trước mắt cần giữ nguyên hiện
trạng và tiến hành khai thác chung. Tuy nhiên một số học giả khác lại lập luận
rằng, không nên tiến hành khai thác chung khi mà vẫn chưa đạt được thỏa thuận
nguyên tắc. Vì nếu tìm thấy dầu thì vấn đề sẽ càng phức tạp hơn.
Trước mắt, trong
khi chưa đạt được giải pháp, các bên liên quan cần: (i) không luật hoá (ví dụ
xây dựng luật khẳng định chủ quyền, đặt địa giới hành chính…ở các các vùng đang
tranh chấp; (ii) hạn chế tuyên truyền, kích động chủ nghĩa dân tộc vì làm như
vậy sẽ gây cản trở rất lớn đến các quyết định chính trị, chính phủ không thể
thỏa hiệp được khi đàm phán đi vào giải pháp.
Các bên liên quan
cần giữ yên ổn quan hệ với Trung Quốc, khuyến khích quan hệ Trung-Mỹ ổn định.
Quan hệ Trung – Mỹ là nhân tố then chốt cho hòa bình ổn định ở Biển Đông, các
nước và tổ chức trong khu vực cần góp phần làm cho quan hệ này ôn hòa và ổn
định; do đó cần khuyến khích Trung – Mỹ tăng cường đối thoại quốc phòng; xây
dựng một cơ chế kiểm soát hiệu quả các sự cố trên biển; sớm tổ chức Hội nghị Bộ
trưởng quốc phòng ASEAN với các bên đối tác (ADMM +), hướng ARF vào các vấn đề
an ninh truyền thống;
Hợp tác chuyên
ngành là biện pháp khả thi nhất hiện nay. Các lĩnh vực hợp tác cần và có thể
thúc đẩy là: chống cướp biển, tìm kiếm và cứu nạn, bảo vệ môi trường, chống ô
nhiễm, duy trì đa dạng sinh học, khai thác bền vững tài nguyên, nhất là đánh
bắt cá, an toàn hàng hải…Trước mắt, Trung Quốc cần hợp tác với các bên liên
quan nghiên cứu khoa học về quản lý tài nguyên sinh vật ở Biển Đông để có cơ sở
hợp tác bảo vệ, không đơn phương áp đặt lệnh cấm biển; cần tăng cường hợp tác
về vấn đề ngư dân; các bên liên quan hình thành cơ chế ở cấp quan chức cao cấp
(SOM) trao đổi về UNCLOS để làm sáng tỏ các vấn đề còn tranh cãi.
ASEAN cần phải có
một quan điểm thống nhất về Biển Đông vì vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến 4
nước ASEAN có tranh chấp, mà ảnh hưởng đến an ninh của cả nhóm. Trước mắt,
ASEAN cần tập trung ưu tiên thực thi DOC nhằm giảm căng thẳng, tăng cường
ổn định, xây dựng lòng tin và thúc đẩy hợp tác khu vực.
Để đạt giải
pháp lâu dài cho Biển Đông cần có quyết tâm chính trị. Các học giả cũng đưa
ra một số giải pháp, đề xuất, kiến nghị như mỗi bên liên quan phải từ bỏ một
phần yêu sách của mình, kiềm chế tối đa, làm rõ và công khai hóa yêu sách của
mình.
Đa số học giả
tham dự và dư luận trong nước, khu vực và quốc tế đánh giá cao thành
công của Hội thảo, coi đây là nỗ lực của giới học thuật Việt Nam và quốc
tế đóng góp thiết thực cho an ninh và phát triển ở khu vực.
2. Hội thảo khoa học
quốc tế về Biển đông lần thứ hai (HCM, 11-12/11/2009)với chủ đề:
“Biển
Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực”.
Một số nội dung chính như sau:
Trong ngày
thứ nhất của Hội thảo, các học giả trao đổi về Tầm quan trọng của Biển đông
trong bối cảnh môi trường chiến lược khu vực đang có nhiều thay đổi, và trình
bày đánh giá của mình vễ những diễn biến xung quanh tình hình Biển Đông gần
đây.
Tướng Vinod Saighal (Ấn độ) quan ngại tình hình
khu vực có thể có nhiều biến khi các nước lớn bắt đầu thay đổi chính sách đối
với khu vực. Ông đưa ra một số giả thuyết giải thích cho việc thay đổi cách
tiếp cận của Trung Quốc đối với Biển đông, nhấn mạnh nguyên nhân chính là Trung
Quốc trỗi dạy nhanh chóng, ngày càng tự tin và quyết liệt bảo vệ lợi ích của
mình. Ông cũng cho rằng các động thái này của Trung Quốc đã gây sự chú ý của
thế giới và tác động tới quá trình xây dựng lòng tin trong khu vực.
Học giả Daniel Schaeffer (Pháp) chia sẻ quan điểm
của nhiều học giả khác khi cho rằng việc Trung Quốc chính thức đưa ra đường đứt
khúc 9 đoạn là một phát triển đáng chú ý nhất ở khu vực trong 2 năm qua, cho
rằng Trung Quốc nên công khai và làm rõ yêu sách của mình, đối thoại với các
nước trong khu vực về các khác biệt nảy sinh. Ông Daniel cũng cho rằng, nếu đối
thoại giữa các bên để giải quyết xung đột không có tiến triển, cần tính đưa các
tranh chấp khu vực ra Tòa án Luật biển hoặc Tòa án Công lý quốc tế.
Học giả Bronson Percival cho rằng đường đứt khúc
9 đoạn và đòi hỏi đưa Biển Đồng vào lợi ích cốt lõi của Trung quốc đã làm tăng
nghi ngại của các nước trong khu vực. Ở Mỹ có quan điểm cho rằng Trung Quốc
muốn thử phản ứng của Mỹ ở Biển Đông trong bối cảnh Mỹ đang gặp nhiều khó khăn
nội bộ, song ông cho rằng Mỹ sẽ không nhượng bộ Trung Quốc do Biển Đông liên
quan tới vấn đề có tính nguyên tắc cơ bản là tự do hàng hải, và Biển Đông sẽ là
một vấn đề thường xuyên trong quan hệ Mỹ - Trung. Học giả Bronson Percival cho
rằng lợi ích của Mỹ ở Biển Đông có thể có lúc tăng lên, có lúc giảm đi, nhưng
chính sách của Mỹ về Biển Đông chưa bao giờ thay đổi. Phản ứng gần đây của Mỹ
có mạnh lên thể hiện tình hình Biển Đông có thay đổi, chứ không phải chính sách
của Mỹ có thay đổi.
Nguyên đại sứ Hasjim Djala (Indonesia) cho rằng
trong 20 năm, Indonesia đã nỗ lực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển ở Biển Đông
theo tinh thần mà Trung Quốc kêu gọi, đã tổ chức se-ri Hội thảo về Kiểm soát
xung đột ở Biển Đông hàng năm, đã lập các Nhóm công tác về Hợp tác cùng phát
triển, đã đưa ra nhiều khuyến nghị. Tuy nhiên Trung Quốc chưa bao giờ làm rõ Trung
Quốc muốn hợp tác cùng phát triển ở vùng biển nào, hợp tác cái gì, muốn hợp tác
cùng ai, hợp tác theo cơ chế nào. Đại sứ Hjala cho rằng Trung quốc nên làm rõ
yêu sách của mình ở Biển Đông, nhất là đường đứt khúc 9 đoạn.
Giáo sư Su Hao (Trung Quốc) cho rằng Trung quốc
luôn hành xử có trách nhiệm ở Biển Đông do Trung quốc cần môi trường hòa bình
với các nước xung quanh để phát triển, nếu Trung quốc không hòa bình thì không
thể có không khí hợp tác trong khu vực như hiện nay. Về “lợi ích cốt lõi” ở Biển
Đông, giáo sư Su Hao cho rằng chưa bao giờ Trung Quốc sử dụng thuật ngữ đó
trong các tài liệu chính thức. Về đường đứt khúc 9 đoạn, GS Su Hao cho rằng
Trung Quốc quan niệm vùng nước bên trong đường đứt khúc là vùng nước lịch sử,
trong công ước luật biển quốc tế cũng thừa nhận về các vùng biển lịch sử, như
trường hợp vùng biển giữa Hy Lạp và Thổ nhĩ kỳ. GS Su Hao cho rằng thời gian
qua Trung Quốc không đe dọa ai, chỉ phản ứng trước các diễn biến mới ở khu vực.
Mark. Valencia (Mỹ) cho rằng việc các bên hiểu và
diễn giải luật quốc tế khác nhau là nguyên nhân quan trọng khiến tình hình Biển
Đông nóng lên gần đây. Trong điều kiện đó, các bên đều cần phải kiểm chế. Việc
đàm phán COC là cần thiết nhưng sẽ không đơn giản vì quan điểm của các bên rất
khác nhau về một số vấn đề căn bản. Ví dụ Mỹ phản đối các bên đe dọa sử dụng vũ
lực ở Biển Đông, nhưng lại tập trận hàm ý đe dọa sử dụng vữ lực ở Hoàng Hải.
Giáo sư Leszek Buszynski (Úc) cho rằng Trung Quốc
có nhiều trường phái với quan niệm và lợi ích khác nhau, không đồng nhất trong
quan niệm về lợi ích cốt lõi, lợi ích chiến lược, lợi ích quốc gia, vì vậy
Trung Quốc sử dụng các thuật ngữ này một cách lỏng lẻo, chứ không có định nghĩa
chính thức, rõ ràng. Ông cho rằng Trung Quốc muốn tạo lập khu vực ảnh hưởng
riêng, không để Mỹ can thiệp và hiện diện trong khu vực ảnh hưởng đó, không cho
Mỹ tập trận gần khu vực ảnh hưởng đó. Ông cho rằng một biện pháp để hướng Trung
Quốc vào ứng xử có trách nhiệm hơn là tạo ra một Nhóm hài hòa các nước lớn điều
hành các vấn đề của thế giới, trong đó chia vùng ảnh hưởng cho Trung quốc,
nhưng điều đó có nghĩa là Mỹ phải chấp nhận chia sẻ một số lơi ích như Bắc
Triều Tiên, Biển Đông.
Tiến sỹ Trần Trường Thủy (Học viện Ngoại giao
Việt Nam) phân tích về các phát triển của tình hình Biển Đông từ sau ký kết
tuyên bố ứng xử các bên ở Biển Đông DOC năm 2002, từ đó rút ra kết luận DOC
chưa đủ để kiểm soát và hạn chế căng thẳng tại khu vực. Nguyên nhân chủ yếu là
do điều chỉnh chính sách của Trung Quốc trong khoảng 2-3 năm trở lại đây theo
hướng cứng rắn hơn. Điều nay gây quan ngại, suy giảm lòng tin trong khu vực và
chính hành động của Trung Quốc đã tạo điều kiện cho Mỹ can dự, củng cố vị thế
tại Biển Đông, Đông Á. Sau ARF 17 tại Hà Nội vào tháng 7 năm 2010, Trung
Quốc đã phần nào điều chỉnh chính sách theo hướng "mềm hơn", nhưng
điều này chưa đủ. Điều cần làm hiện nay là hai bên ASEAN và Trung Quốc cần thực
thi đầy đủ DOC và Trung Quốc cần chấp nhận một Bộ Quy tắc ứng xử COC mang tín
pháp lý cao hơn nhằm đảm bảo an ninh khu vực, làm yên lòng các nước nhỏ hơn và
qua đó hạn chế sự can dự của bên thứ ba.
Giáo sư Carlyle A. Thayer (Úc) cho biết Quân đội
nhân dân Trung Quốc (PLA) là nhân tố thúc đẩy Trung Quốc coi Biển đông là lợi
ích cốt lõi. PLA đang tăng cường năng lực hải quân để khẳng định chủ quyền ở
Biển Đông, hạn chế Mỹ tiếp cận vùng biển này. Ông cho rằng cạnh tranh giữa các
nước lớn trong khu vực sẽ gia tăng trong vòng 3-5 năm tới, tuy nhiên cũng có
một số dâu hiệu tích cực khi ASEAN và Trung Quốc nhất trí triển khai DOC và đàm
phán COC. Ông cũng quan sát thấy Mỹ sẵn sàng tạo điều kiện để các bên đàm phán,
nhưng Mỹ sẽ không can dự trực tiếp mà chỉ gián tiếp.
Học giả Fu Kuo Liu (Đài loan) cho rằng môi trường
chiến lược quốc tế và khu vực đã có những biến chuyển cơ bản làm thay đổi hoàn
toàn tình hình Biển Đông. Trung Quốc đã trỗi dạy mạnh hơn bao giờ hết; Mỹ
sau khủng hoảng gặp khó khăn hơn bao giờ hết; Quan hệ Trung – Mỹ cũng phức tạp
và đan xen hơn bao giờ hết. Ở khu vực, quan hệ Trung – Đài cũng có những bước
cải thiện chưa từng có. Ông cho rằng các thảo luận về tranh chấp chủ quyền giữa
ASEAN và Trung Quốc không thể thiếu Đài Loan. Với đà cải thiện quan hệ Trung –
Đài hiện nay, không loại trừ Trung Quốc và Đài loan có thể tiến tới đối thoại
gần gũi hơn về Biển Đông.
Học giả Geoffrey Till (Anh) cho rằng Trung Quốc
và Mỹ đang có quan niệm hoàn toàn khác biệt trong vấn đề tự do hàng hải. Cũng
giống như Anh trước đây, Mỹ là một cường quốc toàn cầu, trong đó lợi ích cơ bản
là tự do hàng hải, gắn liền với vị thế của nước Mỹ, với giá trị của nước Mỹ. Từ
quan niệm đó, Mỹ cho rằng mình có quyền làm chủ biển cả và có quyền dùng vũ lực
bảo đảm quyền đó. Vừa qua, Mỹ có cảm thấy rằng Trung Quốc muốn thách thức quyền
đó của Mỹ, và đã phản ứng.
Các đại biểu tham dự Hội thảo đã trao đổi và
tranh luận nhiều vấn đề liên quan tới các chủ đề thảo luận. Hội thảo diễn ra
trong không khí khoa học, thẳng thắn, chân thành và xây dựng.
Ngày thứ
hai của Hội thảo khoa học quốc tế Biển Đông tại Tp Hồ Chí Minh (12/11), các học
giả tiếp tục trao đổi về kinh nghiệm và bài học từ các hoạt động hợp tác ở Biển
Đông, và các biện pháp thúc đẩy hợp tác nhằm củng cố hòa bình, ổn định ở Biển
Đông.
Đại sứ Hasjim Djalal (Indonesia) cho biết sau 20
năm đưa ra sáng kiến và thúc đẩy các hoạt động hợp tác nhằm kiểm soát xung đột
và tìm kiếm giải pháp ở Biển Đông, ông rút ra một số điều quan trọng sau: Điều
kiện để có thể thúc đẩy hợp tác là các bên không sử dụng vũ lực, phải có quyết
tâm chính trị, không khuấy động dư luận trong nước, cần minh bạch chính sách và
luật pháp. Nguyên tắc thúc đẩy hợp tác là cần cởi mở; bắt đầu từ những việc dễ,
ít nhạy cảm; cần lãnh đạo cấp cao nhưng với tư cách cá nhân, không chính thức,
không thể chế hóa; nhấn mạnh điềm đồng, không xoáy vào những điểm bất đồng; làm
từng bước, bắt đầu từ những vấn đề có tính kỹ thuật; không lùi bước nếu không
có được kết quả ngay; và người đứng ra tổ chức các hoạt động hợp tác có vai trò
và ảnh hưởng quan trọng. Ông kết luận việc kiểm soát xung đột ở Biển Đông có
thể làm được và đã làm được, nhưng nếu dừng các hoạt động này thì xung đột có
thể lại xảy ra. Ông khuyến nghị các trung tâm nghiên cứu về Biên Đông trong khu
vực cần kết nối với nhau và cùng thúc đẩy các hoạt động hợp tác. Ông cho rằng
Trung Quốc, Việt Nam đã tỏ ra rất tích cực trong seri-hội thảo về kiểm soát
xung đột ở Biển Đông, kêu gọi các nước ASEAN chủ động và tích cực hơn.
Học giả Stein Tønnesson(Na Uy) không nhất trí ý
kiến học giả Trung quốc về yêu sách vùng nước lịch sử trong đường đứt khúc 9
đoạn vì vấn đề này trong công ước luật biệt được hiểu rất khác. Ông cho rằng
nếu chưa giải quyết tranh chấp chủ quyền, không nhất thiết phải hợp tác cùng
phát triển vì để hợp tác được cũng phải giải quyết các vấn đề phức tạp không
kém tranh chấp chủ quyền. Ông nhấn mạnh giải pháp nào muốn bền vững cũng cần
coi trọng công cụ pháp lý.
Tham luận của TS. Nguyễn Thị Lan Anh (Học viện
Ngoại giao VN) phân tích về thực tiễn và cơ sở pháp lý quốc tế về phân định
biên giới trên biển để rút ra nhận định rằng trong bất cứ trường
hợp nào các đảo đá ở Biển Đông có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa hay
không theo điều 121 Công ước luật biển 1982 thì các đảo, đá này cũng quá bé,
lại đối diện các bờ biển dài của các quốc gia xung quanh nên bất luận trong
trường hợp nào nếu chiếu theo Công ước luật biển 1982, các tiền lệ án và thực
tiễn phân định biển quốc tế thì phạm vi ảnh hưởng của các vị trí này chỉ liên
quan đến khu vực trong “đường bánh vòng” ở giữa Biển Đông, là khu vực được tạo
thành
bởi các đường ranh giới ngoài của vùng đặc quyền
kinh tế 200 hải lý của các nước ven biển tính từ đường cơ sở gần bờ.
Học giả Ramses Amer (Thụy điển) cho rằng việc
giải quyết các vùng chồng lẫn ở Vịnh Bắc Bộ là tiến bộ rõ ràng trong việc giải
quyết vấn đề biên giới biển trong khu vực. Điều này phần nào thể hiện thiện chí
của Trung Quốc trong việc giải quyết các vấn đề biên giới với các nước láng
giềng. Khi có quyết tâm chính trị, các nước lớn nói chung và Trung Quốc nói riêng
cũng sẵn sàng nhượng bộ để giải quyết vấn đề lâu dài. Với Việt Nam, phân giới
cắm mốc trên bộ cũng là một ví dụ. Ông cho rằng tuy tình hình Biển Đông trong
hai năm gần đây có tăng thẳng nhưng không thể so sánh với mức độ căng thẳng của
những năm 90. Ông cho rằng không chỉ Trung Quốc mà cả các nước ASEAN cũng muốn
giải quyết vấn đề chồng lấn biên giới một cách song phương, thà đưa tranh chấp
ra tòa án quốc tế chứ chưa muốn sử dụng các cơ chế của khu vực. Ông cho rằng
cần tăng cường sử dụng các cơ chế của khu vực, nhất là các cơ chế ASEAN để kiểm
soát xung đột, trong đó vai trò của Trung Quốc là then chốt.
Học giả Ba Hamzah (Malaysia) cho rằng tình hiển
Biển Đông gần đây trở nên phức tạp hơn nhưng vẫn còn trong tầm kiểm soát, không
như tình hình ở nhiều khu vực khác, ví dụ như Trung Đông; tình hình Biển Đông
chính là bức tranh thu nhỏ của cục diện địa chính trị của toàn bộ khu vực. Ông
Hamzah cho rằng quan hệ Trung Quốc – ASEAN không chỉ có vấn đề Biên Đông mà
trải rộng trên nhiều vấn đề khác nhuw kinh tế, thương mại, văn hóa… các bên cần
tránh khuyến khích các nước lớn sử dụng vũ lực để gỉai quyết vấn đề Biển Đông.
Ông cho rằng không thể có lý do gì để biện mình cho việc sử dụng vũ lực để giải
quyết vấn đề chủ quyền ở Biển Đông của bất cứ nước nào trong và ngoài khu vực.
Học giả Yann-huei Song (Đài loan), cho rằng các
bên cần gác vấn đề chủ quyền, thúc đẩy hợp tác trong những vấn đề cấp bách mà
các nước trong khu vực có lợi ích chung, như bảo vệ nguồn tài nguyên sinh học.
Ông cho rằng 80% nguồn san hô ở Biển Đông đang bị đe dọa do các hoạt động đánh
bắt cá mang tính hủy hoại. Ông cho rằng có thể nghiên cứu lập các công viên bảo
tồn sinh học ở các vùng biển này. Nhất trí với quan điểm này, ông Severino
(nguyên Tổng thư ký ASEAN) nhấn mạnh các nước trong khu vực không nên quan niệm
hợp tác cùng phát triển trong vùng biển của mình là đánh mất chủ quyền.
Đại sứ Rodolfo Severino (Philippines,
Nguyên tổng thư ký ASEAN) cho rằng vấn về chủ quyền Biển Đông sẽ khó giải quyết
trong một hai thế hệ tới do nhiều tranh chấp liên quan tới nhiều bên, và quan
trong hơn tất cả các bên đều coi Biển Đông là lợi ích căn bản không thể thỏa
hiệp. Nhưng điều đó không có nghĩa là xung đột ở Biển Đông không thể tránh
được. Theo ông Severino, các bên có thể hợp tác giảm rủi ro và bất đông bằng
cách tuân thủ tốt hơn công ước luật biển 1982; cụ thể hóa DOC như làm rõ thế
nào là kiềm chế, bổ sung các điều khoản về đánh cá, bảo vệ môi trường… Về đường
đứt khúc 9 đoạn, ông Severino cho rằng không phải chỉ riêng Trung Quốc mà Đài
loan cũng nên có giải thích, vì Đài Loan đưa ra đường này lần đầu tiên năm
1947.
Học giả Ian Storey (Singapore) cho rằng DOC
là công cụ quan trọng nhất để kiểm soát xung đột ở khu vực, song việc triển
khai DOC chưa thực sự có kết quả. DOC yêu cầu các bên tự kiểm chế, nhưng điều
khoản này quá chung chung và các bên đã không tuân thủ một cách chặt chẽ.
DOC kêu gọi các bên thực hiện các hoạt động xây dựng lòng tin, nhưng từ năm
2002 tới nay chỉ mới thực hiện được 1 hoạt động chung giữa Trung Quốc, Việt Nam
và Philippines. Theo ông Ian Storey, các bên cần nghiêm túc thực hiện DOC,
ASEAN cần có tiếng nói chung thúc đẩy thực hiện DOC, và Trung Quốc cần làm rõ
bản chất đường đứt khúc 9 đoạn, ASEAN và Trung quốc cần thẳng thắn trao đổi về
Biển Đông trong khuôn khổ ARF và đối thoại ASEAN-Trung Quốc. Ông đề xuất một số
biện pháp xây dựng lòng tin sau trong khuôn khổ DOC: thông báo cho nhau trước
về các cuộc tập trận, thiết lập đường dây nóng trong khu vực, đàm phán Hiệp
định tránh va chạm ở Biển Đông (INCSEA), hợp tác khu vực bảo vệ môi trường và
nghề cá, tuần tra chung chống cướp biển, chống khủng bố và tìm kiếm cứu
nạn ngư dân.
Trong các phần thảo luận của Hội thảo, các học
giả đã nêu nhiều ý kiến, đưa ra nhiều kiến nghị các biện pháp kiểm soát tình
hình, phòng ngừa xung đột đểhướng tới giải pháp cho các tranh chấp về chủ quyền
ở khu vực. Tuy có rất nhiều ý kiến khác nhau, nhìn chung các học giả đều nhất
trí các nước liên quan cần tăng cường kiềm chế, minh bạch yêu sách và chính
sách của mình, nhất là chính sách quốc phòng, cần tăng cường sử dụng các cơ chế
hợp tác khu vực, nhất là DOC, trước hết cần hướng tới các hoạt động hợp tác
chung của khu vực trong các lĩnh vực ít nhạy cảm hơn như bảo tồn môi trường,
bảo vệ nguồn cá, cứu hộ cứu nạn vv.v… Rất nhiều ý kiến kêu gọi Trung quốc làm
rõ bản chất đường đứt khúc 9 đoạn, làm rõ việc coi Biển Đông là lợi ích cốt
lõi, kêu gọi ASEAN và Trung Quốc sớm tiến tới đàm phán về một bộ quy tắc ứng xử
ở Biển Đông.Trong phát biểu đánh giá kết quả 2 ngày Hội thảo, Ông Stein
Tønnesson, Viện nghiên cứu Hòa bình Oslo, nhấn mạnh, Trung Quốc có vai trò then
chốt, cách ứng xử của Trung Quốc có tác động quyết định tới khả năng hợp tác
trong khu vực nhằm kiểm soát và bảo đảm hòa bình và ổn đinh chung.Ông Leszek
Buszynski, Trung Tâm Chiến lược và quốc phòng, Đại học quốc gia Úc cho rằng các
Hội thảo kiểm soát xung đột và thúc đẩy hợp tác khu vực cần tiêp tục được tổ
chức, thậm chí cần tính trao giải Nobel Hòa bình cho các hội thảo này vì đã có
đóng góp thực sự hữu ích đối với hòa bình trên thế giới.
Kết
thúc Hội thảo, Giám đốc Học viện Ngoại giao Dương Văn Quảng kết luận trong hai
ngày thảo luận, các học giả đã nghiêm chỉnh tôn trọng nguyên tắc thảo luận
thẳng thắn, khách quan, trung thực, xây dựng và cầu thị, nhờ đó Hội thảo đã
thành công rất tốt đẹp, đạt được mục tiêu thúc đẩy hiểu biết, tăng cường lòng
tin và tăng cường hợp tác giữa các học giả trong nước, khu vực và thế giới về
các khía cạnh khác nhau liên quan tới Biển Đông nhưng cùng hướng tới cùng một
mục tiêu là xây dựng vùng biển quan trọng này thành một khu vực hòa bình, ổn
định, phát triển lâu dài, đóng góp cho sự thịnh vượng chung của toàn khu vực và
thế giới nói chung./
Biển Đông là một trong
những biển nửa kín thuộc loại lớn nhất thế giới, có vị trí chiến lược
quan trọng và là đầu nút của một loạt tuyến đường hàng hải nhộn nhịp nối liền
Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Hơn nữa, Biển Đông sở hữu một môi trường biển
đa dạng, tài nguyên thủy hải sản phong phú và các nguồn tài nguyên phi sinh vật
khác, đặc biệt là tiềm năng về dầu mỏ và khí đốt.
Hiện nay, có ba vấn đề
chính liên quan đến tranh chấp Biển Đông, đó là chủ quyền lãnh thổ đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và quyền chủ quyền đối với các vùng biển. Năm
quốc gia và một thực thể, bao gồm Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Philippines,
Brunei và Đài Loan đã đưa ra yêu sách đối với toàn bộ hoặc một phần của quần
đảo Trường Sa. Riêng đối với quần đảo Hoàng Sa là đối tượng tranh chấp song
phương của Việt Nam và Trung Quốc. Đồng thời, việc phân định Biển Đông còn phức
tạp thêm bởi các yêu sách chồng lấn về thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế và
“các yêu sách lịch sử” khác của các quốc gia ven biển.
Bên cạnh các tranh chấp
song phương và đa phương khác tại Biển Đông mang tính kỹ thuật và cơ bản đã và
sẽ được giải quyết, tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là
phức tạp và kéo dài nhất. Phức tạp do các vấn đề về chiến lược, pháp lý, kinh
tế và sự chồng chéo về lợi ích, sự đan xen giữa đối nội và đối ngoại của các
nước liên quan. Ngoài các yếu tố về chủ quyền, tinh thần dân tộc, vị trí địa
chiến lược, việc sở hữu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ảnh hưởng đến việc
phân định các vùng biển tại Biển Đông và biên giới trên biển giữa các nước, và
qua đó là các quyền lợi to lớn về mặt kinh tế: năng lượng, thủy hải sản, hàng
hải... Các tranh chấp về lãnh thổ và các vùng biển mang tính lịch sử, đã kéo
dài qua ba thế kỷ, mỗi thời kỳ có các nhân tố và diễn biến mới và hiện nay các
hướng giải quyết vẫn còn để ngỏ.
Sau một thời gian tình
hình bề ngoài của các tranh chấp có vẻ dịu đi, đến nay về thực chất các tranh
chấp lãnh thổ, tài nguyên tại đây vẫn còn hiện hữu và ảnh hưởng đến an ninh và
phát triển của Việt Nam. Tính đến Việt Nam chúng ta cũng là một bên trong tranh
chấp, có những quyền lợi chính đáng và sống còn liên quan đến vùng biển này,
việc nghiên cứu một cách tổng thể, mang tính hệ thống, đa ngành về Biển Đông và
các tranh chấp lãnh thổ liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và
việc phân định vùng biển xung quanh, đặc biệt là các giải pháp khả thi là việc
làm cần thiết và mang tính thực tiễn cao.
Chương trình nghiên cứu
Biển Đông thuộc Học viện Ngoại giao có mục tiêu nghiên cứu khoa học, tập hợp dữ
liệu, vận hành website, trao đổi học thuật và hợp tác nghiên cứu trong nước và
quốc tế một cách tổng thể, hệ thống về các khía cạnh liên quan đến tranh chấp
Biển Đông nhằm rút ra các luận cứ khoa học, đồng thời tăng cường năng lực
nghiên cứu của Việt Nam về các lĩnh vực này.
Trong khuôn khổ Chương
trình nghiên cứu Biển Đông, hội thảo lần này được tổ chức nhằm mục đích tập hợp
trí tuệ các cán bộ lão thành, các nhà nghiên cứu thuộc các cơ quan nhà nước,
các trường đại học, trung tâm khoa học ở Việt nam trao đổi học thuật, tiếp cận
đa ngành về các khía cạnh lịch sử, luật pháp quốc tế và quan hệ quốc tế liên
quan đến tình hình Biển Đông để thống nhất nhận thức, tăng cường hiểu biết, rút
ra các nhận định gợi ý cho việc kiến nghị chính sách.
Các nội dung chính bao gồm:
Các nội dung chính bao gồm:
1. Lịch sử quá trình tranh chấp chủ quyền các
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển tại Biển Đông. Tập trung vào lịch
sử quá trình tranh chấp chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng
biển tại Biển Đông : trước thế chiến 2, từ 1945-1975, từ 1975-1991, từ 1991-nay
và các quá trình đàm phán ngoại giao xung quanh chủ quyền trên biển.
2. Luật pháp quốc tế và các tranh chấp chủ quyền
tại Biển Đông. Sức nặng pháp lý của các yêu sách và luận chứng của các
bên tranh chấp. Sự phát triển của luật pháp quốc tế và việc áp dụng vào các
tranh chấp tại Biển Đông. Công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982. Các tiền lệ
án, tập quán quốc tế liên quan đến việc giải quyết các vấn đề tranh chấp ở Biển
Đông. Khả năng đưa các vấn đề tranh chấp ra trọng tài hoặc tòa án quốc tế và
các hệ quả có thể.
3. Biển Đông và quan hệ quốc tế ở khu vực châu Á
– Thái Bình Dương. Nghiên cứu tranh chấp Biển Đông đặt trong tổng thể quan hệ
quốc tế tại Châu Á-Thái Bình Dương. Lợi ích, lập trường, vai trò và chính
sách của các nước liên quan trong khu vực Đông Nam Á và của các cường quốc
ngoài khu vực đối với các tranh chấp tại Biển Đông.
Hội thảo mang tính mở,
thuần túy khoa học, các đại biểu tham gia phát biểu dưới góc độ cá nhân. Các
kiến nghị chính sách cụ thể xin đề nghị gửi cho ban tổ chức hội thảo./
4. Hội thảo quốc gia lần
thứ hai với chủ đề
"Tranh chấp chủ quyền tại Biển
Đông: Lịch sử, Địa chính trị và Luật pháp quốc tế" do Chương trình Nghiên
cứu Biển Đông, Học viện Ngoại giao, tổ chức vào 26 tháng 4 năm 2011
tại Hà Nội.
Thông cáo báo chí
Hội thảo quốc gia lần thứ hai:
“Tranh chấp chủ quyền tại Biển
Đông: Lịch sử, Địa chính trị và Luật pháp quốc tế”
Hà Nội, ngày 26/4/2011
---
Ngày 26 tháng 4 năm 2011, tại Hà
Nội, Chương trình Nghiên cứu Biển Đông, Học viện Ngoại giao đã tổ chức Hội thảo
Quốc gia lần thứ hai về Biển Đông với chủ đề “Tranh chấp chủ quyền tại
Biển Đông: Lịch sử, Địa chính trị và Luật pháp quốc tế”. Đây là cơ hội
để giới học giả nghiên cứu Biển Đông trong cả nước chia sẻ thông tin, đồng thời
tập hợp rộng rãi các ý kiến, đánh giá, nhận định về các diễn biến gần đâyvà
những hệ lụy ở khu vực Biển Đông.
Về các cơ sở pháp lý và lịch sử chủ quyền của Việt Nam và các bên liên
quan, các đại biểu cho rằng Việt Nam có nhiều bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp
lý để chứng minh chủ quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam đã chiếm
hữu thực sự, hòa bình, và thực thi liên tục chủ quyền của mình ở đây. Một số ý
kiến nêu rõ mặc dù đã tập hợp nhiều bằng chứng, nhưng chúng ta vẫn cần tiếp tục
sưu tầm, hoàn chỉnh các tài liệu gốc, dịch sang các thứ tiếng và quảng bá rộng
rãi các tài liệu, cùng với đó là phải chỉnh sửa và bổ sung các thông tin chưa
chính xác hay còn thiếu. Mặt khác ta cũng không nên chủ quan, mà cần tiếp tục
củng cố, hoàn thiện các lập luận của mình.
Về yêu sách của Philippines, tham luận tại phiên 1 cho rằng Philippines có điểm
mạnh là nước này về mặt địa lý gần quần đảo Trường Sa nhất so với Trung
Quốc, Việt Nam, Malaysia và Brunei. Tuy nhiên hình thức thụ đắc năm 1956 của
Croma là của cá nhân, không phải trên danh nghĩa nhà nước.
Về cơ sở của Trung Quốc, các đại
biểu cho rằng luận điểm của Trung Quốc về chủ quyền tại Biển Đông dựa trên hình
thức thụ đắc lãnh thổ chiếm hữu và hình thức thụ đắc lãnh thổ bằng điều ước
quốc tế. Về hình thức thụ đắc lãnh thổ bằng chiếm hữu, một số ý kiến phát biểu
cho rằng Trung Quốc đã không thỏa mãn yêu cầu chiếm hữu hòa bình, thực sự và
dưới danh nghĩa nhà nước. Các học giả cũng cho rằng hệ thống địa danh của Trung
Quốc không dựa trên yếu tố lịch sử, việc tập hợp các địa danh không kèm văn bản
gốc. Một số công trình nghiên cứu của Trung Quốc khi trích dẫn dựa trên các tư
liệu cổ, thường trích dẫn một cách ngắt đoạn, còn một số khác đúng nguồn thì
lại hiểu sai về nội dung.
Các đại biểu cũng nhất trí rằng, việc nghiên cứu cơ sở pháp lý của các nước
liên quan trong tranh chấp cũng quan trọng và có vai trò tương đương với việc
nghiên cứu cơ sở của ta. Do vậy, cần phải rà soát lịch sử, các tư liệu, bản đồ
của các nước có liên quan.
Về các diễn biến gần đây ở khu vực Biển Đông, các đại biểu cho rằng ở
khu vực Biển Đông gần đây đã có thay đổi trên một số bình diện. Trước hết,
vấn đề Biển Đông từ chỗ chỉ là tranh chấp giữa các nước trong khu vực đã trở
thành một trong những vấn đề quốc tế, được đem ra bàn thảo ở những diễn đàn đa
phương quốc tế như ARF… Thứ hai là thay đổi từ ASEAN. Hiện nay vấn đề
Biển Đông đã trở thành vấn đề khá nổi bật trong chương trình nghị sự của ASEAN,
thể hiện rõ quyết tâm chuyển từ Tuyên bố về Cách ứng xử của các bên trên Biển
Đông (DOC) sang Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC). Thứ ba là lập
trường của Trung Quốc cũng đã có nhiều thay đổi. Hiện nay dường như Trung Quốc
có xu hướng sử dụng Công ước về Luật biển nhiều hơn, có thay đổi trong hành vi
ngoại giao, cũng như có một số điểm mới trên thực địa. Thứ tư, quá trình
đàm phán về vấn đề Biển Đông cũng bắt đầu có nhiều chuyển biến, các nước bắt
đầu đàm phán trực tiếp về COC.
Về vấn đề hợp tác trong khu vực, các đại biểu nhất trí rằng Biển Đông
không chỉ là vấn đề xung đột, tranh chấp, đối đầu mà còn là cơ hội để các nước
tăng cường hợp tác.
Về các kịch bản có thể diễn ra ở Biển Đông trong thời gian tới, các học
giả cho rằng có thể có 4 kịch bản xảy ra: Một là, tình hình khu vực sẽ
tốt hơn hiện nay nếu như các bên, đặc biệt là Trung Quốc, hành xử đúng theo
những gì mình đã nói, đó là “tạo dựngBiển Đông thành một vùng biển hòa bình
và hợp tác”. Hai là, tình hình sẽ cơ bản như hiện nay, quá trình hợp
tác và đấu tranh tiếp tục và đan xen lẫn nhau. Ba là, tình hình xấu hơn
hiện nay tức mặt xung đột, tranh chấp nhiều hơn hợp tác nhưng chưa có xung đột
quy mô lớn. Bốn là, xảy ra xung đột lớn.
Về việc xây dựng một bộ quy tắc ứng xử (COC) ở Biển Đông, các học giả
cho rằng, COC chưa phải là phương tiện để giải quyết các tranh chấp mà sẽ là
một công cụ để xây dựng lòng tin nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định, tin cậy
lẫn nhau và khuyến khích hợp tác sử dụng và quản lý Biển Đông một cách hòa
bình. Do vậy, COC không nên dừng lại ở cam kết của các bên thực hiện các nguyên
tắc khung mà cần phải xác định rõ những hành vi không được phép tiến hành.
Ngoài ra COC cũng cần quy định những điều kiện và cơ chế thích hợp cho phép các
bên tăng cường đối thoại, giảm thiểu căng thẳng. Trước mắt, các bên cần thúc
đẩy thực thi đầy đủ DOC ký giữa Trung Quốc và ASEAN năm 2002.
Hội thảo đã diễn ra trong không khí cởi mở, thẳng thắn, đề cập đến nhiều vấn đề
liên quan đến khu vực Biển Đông hiện nay. Cùng với các Hội thảo Quốc tế, Hội
thảo quốc gia về Biển Đông là một kênh quan trọng để huy động trí thức của cả
nước về vấn đề Biển Đông./.
Hội thảo Biển Đông
ở Mỹ
Trong hai ngày 20 đến 21/6/2011, Hội thảo về an ninh Biển
Đông do Trung tâm nghiên cứu các vấn đề quốc tế và chiến lược của Hoa Kỳ tổ
chức tại Thủ đô nước Mỹ đã tụ họp được nhiều quan chức chính phủ, học giả và
chuyên gia am hiểu về các vấn đề ở Biển Đông, đến từ nhiều nước khác
nhau, như Ấn Độ, Indonesia, Mỹ, Na Uy, Nhật Bản, Philippines, Thái Lan, Trung
Quốc, Việt Nam, Singapore,… Hội thảo đã thảo luận những chủ đề đang thu hút sự
quan tâm ở Việt Nam cũng như trên thế giới, như: lợi ích và lập trường của các
Bên ở Biển Đông, các sự kiện diễn ra mới đây tại Biển Đông, đánh giá hiệu quả
của các cơ chế bảo đảm an ninh Biển Đông hiện hành và những khuyến nghị về
chính sách nhằm tăng cường an ninh ở vùng biển này.
Luận
điểm cơ bản được các đại biểu Trung Quốc trình bày tại Hội thảo là mặc dù Trung
Quốc có đầy đủ bằng chứng để khẳng định chủ quyền đối với Biển Đông, Trung Quốc
chưa được tham gia vào việc khai thác và quản lý các nguồn tài nguyên ở vùng
biển này. Trong khi đó, các nước ven Biển Đông khác, với sự trợ giúp của các
nước ngoài khu vực, đã tiến hành nhiều hành động xâm phạm quyền lợi của Trung
Quốc. Tuy vậy, Trung Quốc sẽ không sử dụng vũ lực để khắc phục tình trạng trên,
mặc dù dư luận người Trung Quốc hết sức bất bình. Giải pháp thích hợp trước mắt
là tạm gác tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ và vùng biển, cùng khai thác tài
nguyên.
Luận
điểm này thực ra không có gì mới lạ. Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm
1982 cũng có quy định về việc cùng khai thác tài nguyên như là một giải pháp
tạm thời trong khi chưa đạt được giải pháp phân định ranh giới vùng đặc quyền
kinh tế hay thềm lục địa chồng lấn giữa các quốc gia ven biển. Giữa Việt Nam và
các nước ASEAN có một số thực tiễn áp dụng giải pháp cùng thăm dò khai thác tài
nguyên trong vùng thềm lục địa chồng lấn trước khi đạt giải pháp phân định ranh
giới. Nhưng điều làm cho đề nghị gác tranh chấp cùng khai thác tài nguyên ở
Biển Đông của Trung Quốc không được các nước trong khu vực hưởng ứng nằm ở
chính sự mập mờ và phi lý của yêu sách chủ quyền đối với Biển Đông của Trung
Quốc.
Tại
Hội thảo, đại biểu Trung Quốc tiếp tục viện dẫn kết hợp cả đường đứt khúc 9
đoạn với tư cách là yêu sách lịch sử và các nguyên tắc xác định vùng biển và
thềm lục địa của Công ước Luật biển 1982 để khẳng định chủ quyền của Trung Quốc
ở Biển Đông. Khi học giả các nước chất vấn về cơ sở pháp lý của đường đứt khúc
9 đoạn, đồng thời đề nghị học giả Trung Quốc làm rõ quan điểm của Trung Quốc về
việc áp dụng Công ước Luật biển 1982 để xác định các vùng biển và thềm lục địa
ở Biển Đông, họ đã không nhận được câu trả lời.
Không
chỉ học giả từ các nước ven Biển Đông, mà cả học giả từ các nước ngoài khu vực
đều cho rằng đường đứt khúc 9 đoạn hoàn toàn không có cơ sở trong Luật biển
quốc tế và nếu Trung Quốc coi đó là ranh giới vùng biển thuộc chủ quyền của
Trung Quốc thì không một nước nào trên thế giới có thể chấp nhận được. Trung
Quốc không thể sử dụng nó để yêu sách quyền đối với tài nguyên ở Biển Đông,
hoặc tạo thành vùng chồng lấn lên vùng biển và thềm lục địa của các nước xung
quanh Biển Đông, làm cơ sở cho yêu sách cùng khai thác tài nguyên.
Để
triển khai bất kỳ biện pháp giải quyết hòa bình tranh chấp ở Biển Đông, trong
đó có thể bao gồm giải pháp gác tranh chấp cùng khai thác, vấn đề then chốt là
phải xác định được khu vực tranh chấp thật sự.
Theo
các học giả quốc tế, khu vực có tranh chấp thật sự chính là hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa và các vùng biển kế cận các cấu trúc địa chất thuộc hai quần
đảo này.
Việc
xác định các vùng biển kế cận các cấu trúc địa chất thuộc hai quần đảo phải dựa
vào các quy định của Luật biển quốc tế, như điều 121 Công ước 1982 về quy chế
pháp lý của các đảo, cũng như các quy định và án lệ quốc tế liên quan đến phân
định ranh giới biển. Một khi các nước hữu quan thống nhất được nguyên tắc xác
định vùng tranh chấp như nêu ở trên, có thể thực hiện khoanh vùng tranh chấp để
triển khai các biện pháp xây dựng lòng tin hoặc giải pháp tạm thời mà các bên
tranh chấp có thể chấp nhận được. Còn tại các khu vực nằm ngoài vùng tranh
chấp, việc xác định và sử dụng vùng biển, thăm dò khai thác và quản lý tài
nguyên đều phải thực hiện theo đúng quy định của Công ước Luật biển 1982.
Những
sáng kiến
Trên
cơ sở chia xẻ cách tiếp cận nêu trên, một số sáng kiến cụ thể đã được giới
thiệu tại Hội thảo. Đại biểu đến từ Học viện Ngoại giao Việt Nam nêu ý tưởng về
việc soạn thảo một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông trong đó quy định cụ thể các
hành vi được phép và không được phép triển khai tại khu vực tranh chấp liên
quan đến hai quần đảo, cũng như cách ứng xử tại các vùng biển khác nằm ngoài
khu vực tranh chấp. Điểm mấu chốt trong đề nghị về Bộ Quy tắc ứng xử này là yêu
cầu tất cả các bên tham gia không đưa ra những yêu sách về vùng biển và thềm
lục địa không dựa trên quy định của Công ước Luật biển 1982; vùng biển liên
quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phải được xác định theo cách áp
dụng thiện chí điều 121 của Công ước; việc soạn thảo Bộ Quy tắc ứng xử có thể
do Trung Quốc và ASEAN cùng tiến hành, hoặc do ASEAN khởi xướng, sau đó mở cho
các nước khác tham gia.
Đại
diện của Ban thư ký ASEAN cho biết các nước ASEAN đã thỏa thuận sẽ soạn thảo
một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông có giá trị cao hơn so với Tuyên bố về cách
ứng xử của các Bên ở Biển Đông năm 2002.
Giáo
sư Carl Thayer đến từ Úc cho rằng có thể ký kết một văn kiện về quy tắc ứng xử
ở Biển Đông có hiệu lực ràng buộc về pháp lý nếu các nước hữu quan thỏa thuận
như vậy, mặc dù đó không phải là thực tiễn phổ biến. Từ đó ông đề nghị các nước
ASEAN xem xét ký kết một Hiệp ước về cách ứng xử ở Biển Đông và mở cho các nước
khác có tham gia sử dụng Biển Đông tham gia.
Đại
biểu đến từ Ủy ban phụ trách các vấn đề biển và đại dương thuộc Bộ Ngoại giao
Philippines giới thiệu Sáng kiến về Khu vực Hòa bình, Tự do, Hữu nghị và Phát
triển. Theo sáng kiến này, sẽ triển khai song hành ở Biển Đông hai chế độ: chế
độ hợp tác cùng phát triển, bao gồm cùng khai thác tài nguyên, cùng bảo tồn đa
dạng sinh học biển,… tại khu vực tranh chấp liên quan đến quần đảo Trường Sa và
chế độ sử dụng, thăm dò, khai thác, quản lý các vùng biển và thềm lục địa không
bị tranh chấp của các nước ven biển theo quy định của Công ước Luật biển 1982.
Đại
biểu Philippines khẳng định để có thể tạm gác tranh chấp, cần phải khoanh vùng
tranh chấp. Căn cứ vào Công ước Luật biển 1982, các vùng biển do các cấu trúc
địa chất thuộc hai quần đảo bị tranh chấp tạo ra có phạm vi rất hạn chế và có
thể xác định được, chẳng hạn là 12 hải lý.
Rõ
ràng đã xuất hiện tín hiệu tích cực của một giải pháp được xây dựng trên nền
tảng của luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Luật biển 1982, có tính đến tình
hình thực tế liên quan đến các tranh chấp lãnh thổ và vùng biển ở Biển Đông và
quyền lợi hợp pháp của các quốc gia ven Biển Đông cũng như các quốc gia có tham
gia sử dụng Biển Đông.
Một
giải pháp như vậy chắc chắn sẽ thu hút được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế,
cho phép phân biệt rõ đâu là khu vực có tranh chấp có thể tạm gác tranh chấp
cùng khai thác hay bảo quản tài nguyên, đâu là khu vực đương nhiên thuộc quyền
tài phán của quốc gia ven biển và các quyền hợp pháp của các quốc gia khác ở
Biển Đông sẽ được bảo vệ như thế nào, trong khi chưa đạt được giải pháp phân
định chủ quyền lãnh thổ và vùng biển tại các quần đảo bị tranh chấp.
Hy
vọng tất cả các nước ven Biển Đông, nhất là các Bên tranh chấp trực tiếp, duy
trì nỗ lực ngoại giao để đạt được một giải pháp như vậy. Và cũng hy vọng không
nước nào lựa chọn phương thức sử dụng sức mạnh đơn phương áp đặt yêu sách của
mình, đẩy các nước khác vào tình thế buộc phải huy động những nguồn lực eo hẹp
của họ vào việc mua sắm vũ khí, trang thiết bị phòng thủ để bảo vệ các quyền
lợi hợp pháp của mình, thay vì có thể dùng các nguồn lực đó cho phát triển kinh
tế, xã hội.