NGUYỄN XUÂN PHƯỚC
(30-4-2011)
Ai yêu nước mà giam người yêu nước
Ai lấy ngục tù để giết chết tự do
Ai rước ngoại nhân bằng vạn tiếng hoan hô
Ai nô lệ mà tưởng mình tự chủ.
(không nhớ tên tác giả –
gặp trong trại tị nạn Thái Lan)
ĐỂ GIỚI THIỆU
Không có một logic nào có thể giải thích được những nghịch lý lịch sử
Việt Nam của thế kỷ thứ 20. Chỉ có sự nhận thức về những nghịch lý lịch
sử mới có thể hiểu được dòng lịch sử kỳ lạ nhất trong chiều dài 5,000
năm lịch sử của dân tộc.
Lòng yêu nước không đóng khung trong một đảng phái hay trào lưu lịch
sử nào mà nó biến thiên không chừng. Yêu nước biến thành tay sai và tay
sai biến thành yêu nước. Nhưng tay sai vẫn có thể vĩnh viễn là tay sai,
và yêu nước vẫn mãi mãi là yêu nước. Và thêm vào đó, xuất hiện thành
phần yêu nước giả, thành phần cơ hội, yêu nước ở hình thức, vong thân ở
nội dung. Trong tay sai có yêu nước, trong yêu nước có tay sai, trong
yêu nước có cơ hội v.v..
ĐI TÌM HỒN SỬ
Thế kỷ thứ 20 là trang sử phức tạp nhất trong dòng lịch sử Việt
Nam. Tính phức tạp của thế kỷ 20 bắt nguồn từ những biến động lịch sử
liên tục suốt 500 năm qua.
Cuối thế kỷ 15, địa lý Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông (hình trái: đền thờ)
được mở rộng đến kinh đô Đồ Bàn. Cuộc nam chinh của Lê Thánh Tông đã
chấm dứt hoạ xâm lăng của Chiêm Thành và đồng thời sát nhập Chiêm Thành
vào lãnh thổ Đại Việt. Lê Thánh Tông tiếp tục phát triển công nghệ quốc
phòng được xây dựng từ cuối đời nhà Trần, khuyếch trương dưới thời nhà
Hồ và được Lê Thái Tổ khai dụng để trở thành sức mạnh quân sự trong công
cuộc kháng chiến chống quân Minh. Nông nghiệp và công nghệ quốc phòng
trở thành nền tảng kinh tế cho việc phát triển quốc gia. Sức mạnh kinh
tế và quân sự của Đại Việt đã ảnh hường đến tận Thái Lan, Miến Điện, bán
đảo Malacca.[1]
Nhưng sau Lê Thánh Tông, nhà Lê suy sụp. Đất nước bắt đầu một chuỗi
nội chiến khốc liệt. Từ biến động cung đình đưa Mạc Đăng Dung lên ngôi,
đến cuộc chiến tranh Lê-Mạc, sự thành lập chính quyền vua Lê chúa Trịnh,
đến chiến tranh Trịnh Nguyễn, cuộc nam tiến của chúa Nguyễn mở rộng địa
lý Đại Việt đến Cà Mau, đến thời kỳ Tây Sơn diệt Trịnh Nguyễn, đến thời
kỳ Quang Trung đại thắng quân Thanh, đến giai đoạn anh em Tây Sơn đánh
nhau, rồi chiến tranh Tây Sơn-Nguyễn Ánh, đến thời kỳ Gia Long thống
nhất giang sơn, rồi đât nước bị Pháp thuộc, đến công cuộc kháng chiến
chống Pháp, phong trào cần vương, phong trào văn thân, sự hình thành các
đảng phái cách mạng, đến thời kỳ độc lập, quốc-cộng phân tranh, thời kỳ
Cộng Sản thống nhất đất nước, công cuộc cải tạo xã hội với đấu tranh
giai cấp để cộng sản hóa đất nước, rồi đổi mới, đến sự hình thành phong
trào dân chủ …
Năm trăm năm thoáng qua như một chớp mắt.
Năm
trăm năm lịch sử đó đổ dồn về thế kỷ 20 với một đất nước tan hoang, một
dân tộc ly tán. Một đất nước bị mất chủ quyền về tay người Pháp. Một
triều đình nhà Nguyễn hấp hối trong đại vận suy vong của dân tộc
Việt. Một Việt Nam độc lập ra đời giữa các thế lực quốc tế. Lòng yêu
nước, tinh thần nô lệ, ý thức độc lập, tinh thần dân tộc, chủ nghĩa Mác
Lê, cuộc cách mạng vô sản, nghĩa vụ quốc tế, nền chính trị độc tài, khát
vọng độc lập, tự do dân chủ, quấn quyện vào nhau đầy nghịch lý để làm
nên một Việt Nam thế kỷ 20.
Việt nam bước vào thế kỷ 21 với trái tim rướm máu của hàng bao thế hệ
thao thức cho một Đaị Việt phục hưng, cường thịnh đầy ấp tình tư dân
tộc và tình nhân loại.
Từ giấc mơ Quang Trung đến những thao thức của Bùi Viện, Nguyễn
Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch đến nỗi bất hạnh của Duy Tân, Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học, kéo dài đến Hoàng Minh Chính, Nguyễn
Hộ, Trần Độ, hoà lẫn với thế hệ Trần Văn Bá, Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đan
Quế, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Thanh Giang, Trần
Khuê và cho đến ngày nay với Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công
Nhân, Lê Nguyên Sang, Nguyễn Bắc Truyển, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công
Định, Nguyễn Tiến Trung, Đoàn Huy Chương, Trần Khải Thanh Thủy và gần
đây là Cù Huy Hà Vũ cùng với bao nhiêu người khác.
Hình phải: Hoàng đế Duy Tân
Lòng yêu nước như một sợi chỉ xuyên suốt hàng bao thế hệ để làm nên
lịch sử cho dân tộc. Và chỉ có thể đứng trên chính mạch lịch sử dân tộc
thế hệ chúng ta mới có thể nhận được tín hiệu của sử mệnh, mới nghe được
tiếng réo gọi của hồn sử để tiếp nối sứ mệnh lịch sử của cha ông, và để
cùng đứng lên làm nên một nước Đại Việt mới của thế kỷ 21.
PHAN SÀO NAM-PHAN CHU TRINH VÀ TRUNG TÂM VẬN ĐỘNG LỊCH SỬ THẾ KỶ 20
Sau
khi vua Duy Tân bị bắt đày ra đảo Reunion năm 1916, phong trào chống
Pháp chuyển từ Cần Vương sang một giai đoạn mới. Đó là giai đoạn các sĩ
phu nho gia và các trí thức tân học yêu nước đứng ra chủ động công cuộc
đánh Pháp giành độc lập.
Ở mặt tầng xã hội, quan lại triều đình Huế ở Trung và Bắc kỳ cùng với
lực lượng đốc phủ sứ của chính quyền thuộc địa ở Nam kỳ trở thành công
cụ tay sai phục vụ chế độ thực dân Pháp.
Trong khi đó một cuộc vận động chống Pháp giành đôc lập được thành
hình trong đáy tầng dân tộc. Cuôc vận động nầy chối bỏ giá trị và vai
trò lịch sử mặt tầng của triều đình Huế. Sau hoàng đế Duy Tân, trục tâm
của lịch sử dân tộc đã chuyển dịch từ triều đình Huế sang phong trào
cách mạng chống Pháp. Do đó, cuộc kháng chiến chống Pháp đã trở thành
trung tâm vận động lịch sử mới và đã làm nên lịch sử Việt Nam ở thế kỷ
20. Vì thế, đứng trên sử quan dân tộc, vua Duy Tân là vị vua chính thống
cuối cùng của nhà Nguyễn. Đồng thời tính chính thống lịch sử của triều
đình Huế đã bị thay thế bởi công cuộc vận động chống Pháp giành độc lập
của đáy tầng quốc dân.
Tinh thần chống Pháp giành độc lập của vua Duy Tân được tiếp nối bởi
hai nhà chí sĩ họ Phan: Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Hai nhà ái quốc
lớn, sáng rực ở đầu thế kỷ thứ 20 với chủ trương khác nhau trong công
cuộc giành độc lập cho nước nhà, nhưng thống nhất với nhau trong tình
nghĩa dân tộc Việt, và yểm trợ cho nhau trong công tác cứu nước.
Phan Sào Nam (hình trái) là lãnh tụ tối cao của cách mạng
dân tộc Việt. Việt Nam Quang Phục Hội, là tổ chức cách mạng dân tộc đầu
tiên có tổ chức, có huấn luyện và kỹ thuật hiện đại, xây dựng được tổ
chức trong nước lẫn ngoài nước. Việt Nam Quang Phục Hội với Trần Cao Vân
và Thái Phiên là tổ chức đứng đàng sau cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân.
Phan Chu Trinh (hình phải) là
cha đẻ của phong trào dân chủ và dân quyền tại Việt Nam. Ông đã gieo
những hạt giống dân chủ đầu tiên tại Á Châu trước gót giày xâm lược của
Tây Phương. Ông là một trong những học giả Á Châu đầu tiên chủ trương
đấu tranh giành độc lập bằng con đường bất bạo động. Mãi những thập kỷ
sau tại Ấn Độ mới xuất hiện một Gandhi quãng hoá phương thức đấu tranh
mới lạ đó.
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã mở ra bước ngoặc của dòng lịch sử
và vạch ra con đường sống mới cho dân tộc khi triều đình Huế trở thành
tay sai cho thực dân Pháp. Khi toàn dân đứng lên hưởng ứng phong trào
chống thuế cắt tóc ngắn ở Quảng Nam, vua quan triều đình Huế đứng về
phía thực dân Pháp chém ngang lưng nhà cách mạng Trần Quí Cáp, xử trãm
Trần Cao Vân và Thái Phiên. Người vợ trẻ của Thái Phiên đã lấy vạt áo
dài hứng đầu chồng phóng lên ngựa chạy trốn truy kích của quan quân
triều đình, để đầu chồng không phải bị triều đình đem về bêu ở xứ Quảng.
Bao nhiêu bi kịch đẫm máu đã xảy ra trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp mà những người yêu nước đã bị triều đình Huế và thực dân Pháp đàn
áp. Chính những dòng máu đó của đáy tầng Việt đã phủ định giá trị
chính thống của triều đình Huế và chính những dòng máu yêu nước đó đã
viết nên trang sử mới của thế kỷ 20.
SỰ PHÂN HÓA CỦA GIÒNG CÁCH MẠNG VIỆT
Công cuộc kháng chiến chống Pháp không phải chỉ đối đầu với người
Pháp và cả một hệ thống chính quyền do những người Việt làm tay sai từ
nam đến bắc. Đặc biệt, dưới chế độ bảo hộ ở trung và bắc kỳ, thực dân
Pháp có thêm guồng máy chính quyền từ trung ương đến địa phương của
triều đình Huế làm trợ thủ. Cho đến đầu thế kỷ thứ 20 hệ thống cai trị
của Pháp đã có những dòng họ Việt Nam nhiều đời trung thành với chế độ
thực dân và làm cho nền móng cai trị của thực dân vững vàng hơn. Chính
vì thế, công cuộc kháng chiến càng ngày càng gian nan.
Từ đầu thế kỷ thứ 20 các nhà cách mạng Việt Nam đã tìm đường ra nước
ngoài để vận động thế giới tìm đường giải phóng đất nước. Phong trào
Đông Du tuyển lựa các thanh niên ưu tú gởi qua Nhật Bản để được huấn
luyện. Một số thanh niên tìm đường xuất dương sang Pháp. Những thanh
niên trẻ tuổi thế hệ 1910, 1920, 1930 phải đối diện với một thế giới
tràn đầy những trào lưu tư tuởng triết học với mô hình chính trị và xã
hội mới. Từ cuộc cách mạng Tân Hợi của Tôn Văn 1911, đến cuộc cách mạng
Nga 1917, sự nổi dậy của chế độ Quốc Xã ở Đức, cùng với di sản của cuộc
cách mạng dân chủ Mỹ và dân chủ Pháp. Bên cạnh đó, họ phải chứng kiến
một Nhật Bản thay đổi từ một đất nước hiền hoà hiếu khách thành một đất
nước quân phiệt hiếu chiến, hiếu sát sau khi công cuộc hiện đại hoá
thành công. Họ choáng ngợp, bất ngờ trước những khám phá mới.
Người thanh niên Nguyễn Tất Thành mới cầm bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và dân tộc thuộc địa”
của Lênin khi ngồi một mình trong buồng, chẳng biết mô tê gì về chủ
nghĩa cộng sản, tiếng Pháp chưa rành, tiếng Nga chưa biết, mà đã cho đấy
là sách lược duy nhất để giải phóng đất nước.[2]
Và rồi chỉ có thế mà một số thanh niên lao đầu vào chủ nghĩa Cộng
Sản. Họ không biết cái chủ nghĩa ấy có ngày sẽ đưa đất nước vào quỉ đạo
của thế giới của những tay đồ tể giết đồng loại kinh hoàng nhất trong
lịch sử nhân loại, và có ngày hàng trăm ngàn đồng bào ruột thịt của mình
sẽ bị giết bởi chính bàn tay của mình. Họ cũng không ngờ có ngày họ tôn
thờ tội ác giết đồng loại và đồng bào như một sứ mệnh thiêng liêng của
một tôn giáo, như bài thơ của Tố Hữu: (hình phải)
“giết giết nữa bàn tay không phút nghĩ,
cho ruộng đồng luá tốt thuế mau xong,
cho đảng bền lâu rợp bước chung lòng,
thờ Mao chủ tịch thờ Xít Ta Lin bất diệt”.
cho ruộng đồng luá tốt thuế mau xong,
cho đảng bền lâu rợp bước chung lòng,
thờ Mao chủ tịch thờ Xít Ta Lin bất diệt”.
Cho đến bây giờ chúng ta cũng không hiểu được sự điên cuồng của thế hệ cha ông theo cộng sản ở thế kỷ 20.
Sau khi Phan Châu Trinh qua đời năm 1926 và Phan Bội Châu bị bắt và
an trí ở Huế năm 1925 (không cách triều đình Huế bao xa), cách mạng VN
đã chia ra hai dòng chính :
(1) Những người yêu nước theo chủ nghĩa Mác Lê với Hồ Chí Minh, Trần
Phú, Lê Hồng Phong, với những đảng phái cộng sản như An Nam Cộng Sản
Đảng, Tân Việt Cách Mạng Đảng, Đông Dương Cộng Sản Đảng, đảng Lao Động
và hiện nay là đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN). Những tổ chức nầy đi theo
phong trào Đệ tam quốc tế cộng sản, chịu ảnh hưởng của Lenin, Stalin và
sau nầy Mao Trạch Đông. Ngoài ra còn có Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan
Văn Chánh, Trần Văn Thạch cùng các đồng chí theo phong trào Đệ tứ quốc
tế Trotskyist;
(2) Những người yêu nước theo lập trường quốc gia với Nguyễn Thái
Học, Vũ Hồng Khanh, với Việt Nam Quốc Dân Đảng chịu ảnh hưởng của tư
tưởng tam dân chủ nghĩa của Tôn Văn và chính trị của Tưởng Giới Thạch,
Trương Tử Anh với Đảng Đại Việt với học thuyết “dân tộc sinh tồn”,
Nguyễn Tường Tam với Đại Việt Dân Chính. Huỳnh Phú Sổ với Dân Xã Đảng,
xây dựng tinh thần dân tộc lấy bi trí dũng của Phật giáo và tứ ân làm
nền tảng, Lý Đông A với Đại Việt Duy Dân, muốn làm cách mạng Việt trên
tinh thần nhân bản và lấy người làm tiền đề triết học.
Năm 1930 các đảng cộng sản tại Đông Dương đã được Hồ chí Minh từ Liên
xô trở về Trung Hoa đứng ra chủ trì công cuộc thống nhất và Đảng Cộng
Sản Việt Nam ra đời.
Năm 1943 các đảng phái quốc gia gồm Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt,
Đại Việt Dân Chính và Đại Việt Duy Dân họp với nhau ở Liễu Châu, và đã
thống nhất trở thành Đại Việt Quốc Dân Đảng, lấy tư tưởng duy dân của Lý
Đông A làm kim chỉ nam hoạt động. Tài liệu ký trình do Nguyễn Tường Tam
soạn thảo với 5 chữ ký của Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Nguyễn Tường
Tam, S.H. (Trương Tử Anh?) và Lý Đông A, được bác sĩ Nguyễn Tường Bách,
em trai út của Nguyễn Tường Tam, công bố trong Hồi ký Nguyễn Tường Bách. Tài liệu nầy hiện được ông Nguyễn Tường Thiết, con trai của Nguyễn Tường Tam lưu giữ.
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ CHÍNH PHỦ LIÊN HIÊP
Tháng
5 năm 1940 Đức Quốc Xã chiếm đóng nước Pháp và dựng lên chính phủ Vichy
do thống chế Petain làm tổng thống. Trong thời gian đó, Đông Dương nằm
dưới quyền lãnh đạo của chính phủ Vichy.
Năm 1940, Nhật Bản tấn công Đông Dương và nhanh chóng thỏa thuận được
với chính quyền Vichy ở Pháp để Nhật toàn quyền cai trị Đông Dương.
Tháng 3 năm 1945 Nhật lật đổ Pháp trên toàn bộ Đông Dương và thiết lập
một chính quyền Bảo Đại bù nhìn với chính phủ do một nhà nho uy tín là
Trần Trọng Kim đứng đầu.
Việt Minh (viết tắt của Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội) do Hồ Chí
Minh thành lập năm 1941 tại Trung Quốc với vai trò một mặt trận thống
nhất dân tộc để giành độc lập. Tổ chức này do Đảng Cộng sản Đông Dương
lãnh đạo. Tháng 12 năm 1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân,
lực lượng vũ trang của Việt Minh và tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt
Nam, được thành lập tại Cao Bằng.
Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn. Chiến tranh
đã làm kiệt quệ nền kinh tế, người Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản
phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm
thiên tai, nạn đói (Nạn đói Ất Dậu) đã xảy ra tại Bắc kỳ và Trung kỳ.
Người ta ước tính rằng đã có khoảng hai triệu người chết vì nạn đói này.[3]
Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, tình trạng chân không
chính trị xảy ra tại Việt Nam. Chính phủ Trần Trọng Kim-Bảo Đại không có
thực lực lãnh đạo đất nước. Các đảng phái Quốc Gia không tiên liệu đưọc
thời cơ. Trong khi đó lực lượng Việt Minh lợi dụng tình hình và đã tổ
chức thành công cuộc cuộc biểu tình đòi lật đổ chính phủ Trần Trọng Kim
tại Hà Nội (hình trái). Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh
tuyên bố Việt Nam thống nhất và độc lập với tên gọi nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và thành lập chính phủ lâm thời gồm đa số những đảng viên
cộng sản. Ngày 30 tháng 8 năm 1945 Bảo Đại chính thức thoái vị, trao ấn
kiếm cho đại diện Việt Minh và Việt Nam chính thức chấm dứt nền quân chủ
để thành lập chế độ cộng hoà. Như thế sau vua Duy Tân, nhà Nguyễn như
con bệnh đã chết não, tiếp tục sống bằng guồng máy trợ sinh (life
support) của chế độ thực dân Pháp. Khi bác sĩ rút ống, con bệnh mới hoàn
toàn từ giả cõi đời.
Ngày
2 tháng 9 năm 1945, chính phủ lâm thời Việt Minh ra mắt quốc dân. Chính
phủ nầy tồn tại đến ngày 1-1-1946 được thay thế bằng chính phủ liên
hiệp lâm thời (hình phải) được thành lập gồm những nhà cách
mạng quốc gia và cộng sản. Sau đó một hiến pháp dân chủ đầu tiên ra đời
đó là hiến pháp 1946, xác định giá trị pháp lý khai sinh của nhà nước
Việt Nam Dân Chủ Công Hoà.
Chính phủ Liên Hiệp Lâm Thời tồn tại rất mong manh giữa những mâu
thuẩn nội tại giữa phe Quốc Gia và Cộng Sản, trong bối cảnh thực dân
Pháp đang trở lại để tái lập chế độ thuộc địa với những người Việt yêu
nước Pháp đang chầu chực để đón tiếp quan thầy cũ.
Chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến tồn tại cho đến khi biến cố Ôn Như
Hầu xảy ra vào tháng 7 năm 1946. Trong biến cố nầy ông Võ Nguyên Giáp
chỉ huy lực lưọng Việt Minh tấn công cơ sở của Việt Nam Quốc Dân Đảng,
giết nhiều đảng viên VNQDĐ và bắt được Nghiêm Kế Tổ và Phan Kích
Nam. Ngoài ra trong thời gian nầy các cơ sở kháng chiến của các đảng
pháí Quốc Gia khắp nơi bị tấn công. Lãnh tụ Đại Việt Trương Tử Anh, Đai
Việt Duy Dân Lý Đông A bị thủ tiêu. Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam
trốn thoát qua Trung Hoa. Liên hiệp Quốc-Cộng chấm dứt.
Từ đó trở đi, cộng sản hoàn toàn nắm chính phủ, tiếp tục lãnh đạo
công cuộc kháng chiến chống Pháp, xây dựng xã hội chủ nghĩa miền bắc,
phát động và chỉ đạo chiến tranh miền nam sau khi đất nước chia đôi, và
sau đó thống nhất đất nước.
GIẢI PHÁP BẢO ĐẠI 1948 VÀ SỰ XUẤT HIỆN LỰC LƯỢNG QUỐC GIA THÂN PHÁP
Sau thế chiến thứ hai, Liên Hiệp Quốc khuyến cáo các nước thực dân
phải trao trả độc lập cho các nước thuộc địa. Mô hình Trusteeship[4]
do tống thống Roosevelt để nghị được Liên Hiệp Quốc chấp thuận và Liên
Hiệp Quốc đã thành lập Hội Đồng Giám Hộ (tạm dịch cho chữ Trusteeship
Council[5]) để
giúp các nước thuộc địa giành lại độc lập không đổ máu. Tuy nhiên sau
thế chiến thứ hai, thế giới bước vào giai đoạn chiến tranh lạnh giữa
Liên Xô và Hoa Kỳ. Do đó, tổng thống Truman thay đổi chiến lược và chấp
nhận để Pháp trở lại Việt Nam nhằm ngăn chặn làn sóng Cộng Sản. Nhờ đó,
Pháp đã theo chân quân đội Anh và Trung Hoa đại diện đồng minh trở lại
Đông Dương để tiếp thu khí giới và nhận sự đầu hàng của Nhật Bản. Pháp
âm mưu tái lập chính quyền thuộc địa để được bám vào bầu sữa Đông Dương
nhằm thu hút tài nguyên để giúp cho mẫu quốc hồi sinh sau cơn đại nạn
thế chiến.
Để đáp ứng yêu cầu Liên Hiệp Quốc giải thế chế độ thuộc địa đồng thời
vẫn tiếp tục hưởng lợi ở Đông Dương, Pháp đưa ra chiến lược Việt Nam
hoá chế độ thực dân theo mô hình bảo hộ, đã được áp dụng cho triều đình
Huế theo hòa ước Paternotre.
Khi thấy Pháp không thành thật trao trả độc lập cho Việt nam và bắt
đầu tái lập chế đô thuộc địa, chính phủ Hồ Chí Minh tuyên bố toàn quốc
kháng chiến vào ngày 19 tháng 12 năm 1946.
Trong khi đó, Pháp tập hợp các nhân sĩ Nam Kỳ trước đây trong chính
quyền thuộc địa để thành lập nước Nam Kỳ tự trị nhằm tách miền Nam ra
khỏi miền bắc và miền trung đang nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền
Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Từ năm 1946 đến 1948 chính phủ “Nam
Kỳ Quốc” cải tổ nhiều lần, song vẫn không được ổn định và liên tiếp
thất bại. Quá trình thành lập chính phủ Nam Kỳ gồn các chính phủ như
sau:
- Chính phủ (lâm thời) ở Nam Kỳ (26 tháng 3, 1946-30 tháng 5, 1946)
- Chính phủ lâm thời Cộng hòa Nam Kỳ tự trị (1 tháng 6, 1946-7 tháng 10, 1947)
- Chính phủ lâm thời Nam phần Việt Nam (8 tháng 10, 1947-27 tháng 5, 1948)
Sau
một thời gian ngắn tham gia chính phủ lâm thời kháng chiến VNDCCH với
tư cách là một cố vấn chính phủ, Bảo Đại đào thoát qua Hồng Kông. Năm
1948, các nhà cách mạng quốc gia gồm Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường
Long, Vũ Hồng Khanh, cố gắng tiếp xúc để đưa ra giải pháp Bảo Đại, nhằm
xây dựng một nước Việt Nam độc lập không Cộng Sản. Nhưng nỗ lực nầy
không thành công. Bảo Đại đã từ chối hợp tác với các đảng phái cách mạng
quốc gia.
Khi chiêu bài Nam Kỳ Quốc thất bại, người Pháp đã nghĩ đến giải pháp
Bảo Đại để chống lại phong trào kháng chiến giành độc lập của Việt Minh.
Người trung gian của Pháp là Đại tá Nguyễn Văn Xuân. Vào giữa năm 1947,
Nguyễn Văn Xuân (hình trái với Bảo Đại) được nhà nước Pháp
phong quân hàm Thiếu tướng và ngày 8 tháng 10 năm 1947, ông được Hội
đồng tư vấn Nam kỳ bầu vào chức vụ thủ tướng và thành lập chính phủ Nam
Kỳ quốc, với tên mới là chính phủ Nam phần Việt Nam.
Qua trung gian Nguyễn Văn Xuân, Bảo Đại cố gắng thương lượng với Pháp
về chủ quyền đất nước. Theo Thỏa ước Vịnh Hạ Long ngày 6 Tháng Chạp
giữa Cao ủy Bollaert và Bảo Đại thì Pháp thừa nhận nước Việt Nam “độc
lập” nhưng có điều kiện hạn chế về ngoại giao, quốc phòng và quy chế dân
tộc thiểu số. Để xúc tiến việc trao trả độc lập hoàn toàn và sửa đổi
những khoản trên, ngày 26 Tháng Ba, 1948 ở Hương Cảng Bảo Đại tuyên bố
thành lập chính phủ trung ương của Quốc gia Việt Nam. Bốn người được đề
cử làm thủ tướng lúc bấy giờ là Ngô Đình Diệm, Lê Văn Hoạch, Trần Văn
Hữu và Nguyễn Văn Xuân nhưng Ngô Đình Diệm và Lê Văn Hoạch khước từ vì
không tán thành nghị định thư của Thỏa ước Vịnh Hạ Long. Cuối cùng Trần
Văn Hữu nhường cho Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng Chính phủ lâm thời Quốc
gia Việt Nam.[1]
Đến ngày 5 tháng 6 năm 1948 thì tuyên cáo Hạ Long được chính thức ký
kết, theo đó nước Pháp thừa nhận nền độc lập của Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Bảo Đại. Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol
và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập một chính quyền
Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam. [6]
Thành phần quốc gia mới nầy là tập hợp quan lại triều đình Huế và
công chức trong chính quyền thuộc địa, bị rơi vào tình trạng khủng hoảng
lãnh đạo sau khi Bảo Đại thoái vị năm 1945. Đến năm 1948 khi giải pháp
Bảo Đại ra đời thì thành phần nầy được phục hồi dưới danh xưng chính
trị là “thành phần Quốc gia.” Một số nhà cách mạng chống Pháp
trước đây như Vũ Hồng Khanh cũng tham gia vào chính phủ Bảo Đại nhưng
họ chỉ đóng vai trò thứ yêú, và tạo sự chia rẽ trong hàng ngũ Việt Nam
Quốc Dân Đảng.
Suốt từ năm 1948 đến 1954, các thủ tướng của Quốc Gia Việt Nam là
những cựu viên chức hay nhân sĩ chính quyền thuộc địa trước đây, như
thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Phan Long, Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn
Hữu. Đến năm 1954 tình hình quân sự suy sụp, quân đội Pháp bị bao vây ở
Điện Biên Phủ, và thất bại khắp nơi. Bảo Đại phải chọn những người thuộc
triều đình Huế để lèo lái đất nước. Tháng giêng năm 1954, hoàng thân
Bửu Lộc được chọn làm thủ tướng, và đến tháng 6, 1954, Ngô Đình Diệm,
vốn là cựu thượng thư và là nhà bất đồng chính kiến dưới thời Pháp
thuộc, được chọn để thay thế cho Bửu Lộc.
Năm 1954 Pháp đầu hàng Việt Minh ở Điện Biên Phủ (hình phải).
Hiệp Định Genève năm 1954 chia đôi Việt Nam lấy vĩ tuyến 17 làm ranh
giới. Miền Bắc thuộc thẩm quyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà dưới sự
lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam (tên chính
thức là đảng Lao Động). Miền Nam thuộc thẩm quyền của Quốc Gia Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của quốc trưởng Bảo Đại.
Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất 1946-1954 là cuộc chiến giữa
chính phủ Việt Minh và chính phủ Pháp với sự trợ lực của chính phủ Quốc
Gia Việt Nam đứng đầu là quốc trưởng Bảo Đại do Pháp nặn lên. Khi Pháp
thất trận ở Điện Biên Phủ, họ đã trao trả độc lập cho chính quyền Bảo
Đại.
Nói tóm lại, năm 1948, Bảo Đại đã đánh mất cơ hội tái lập lại tính
chính thống của triều đình Huế khi ông từ chối hợp tác với các đảng phái
Quốc gia chống Pháp. Quyết định của Bảo Đại bác bỏ để nghị của Nguyễn
Tường Tam, Hoàng Đạo để thành lập chính phủ Quốc gia là một thất bại
lịch sử. Sự hợp tác của Bảo Đại với Nguyễn Văn Xuân là sự tiếp nối tính
bất chính thống của Bảo Đại và triểu đình Huế, và tạo ra một nghịch lý
lịch sử cho miền Nam sau nầy.
CÁC ĐẢNG PHÁI QUỐC GIA TRONG “GỌNG KỀM LỊCH SỬ”
Sau khi đã củng cố được quyền lực trong chính phủ liên hiệp, CSVN đã
bắt đầu tiêu diệt các lực lượng đối lập. Đây là lần đầu tiên trong lịch
sử giành độc lập các đảng phái yêu nước phải dùng bạo lực đẻ tiêu diệt
lẫn nhau.
Ở miền bắc, sau khi đất nước chia đôi, VN Quốc Dân Đảng được coi như
là kẻ thù của cách mạng và bị truy lùng ráo riết. Sau đó, toàn bộ VN
Quốc Dân Đảng ở miền Bắc hoàn toàn bị tiêu diệt. Nhiều người yêu nước
tham gia Việt Minh bị qui oan là Quốc Dân Đảng cũng bị xử tử trong cuộc
Cải Cách Ruộng Đất.
Trong thời gian đó, tại miền nam, nhóm trí thức Trotskyist cũng không
thoát khỏi bàn tay nối dài của Stalin qua các đảng viên Cộng Sản đệ tam
quốc tế địa phương. Các nhà cách mạng yêu nước đệ tứ quốc tế lần lượt
bị đảng CSVN ám sát và thủ tiêu.
Từ 1945 đến 1949, các lãnh đạo đảng phái không cộng sản đã lần lượt
bị cộng sản thủ tiêu, ám sát hay làm mất tích. Đáng để ý là các nhân vật
sau đây:
- Trương Tử Anh – đảng trưởng Đại Việt và là đảng trưởng của tổ chức các đảng phái quốc gia thống nhất là Đại Việt Quốc Dân Đảng
- Khái Hưng tức Trần Khánh Giư, Nhượng Tống, Phan Kích Nam
- Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm
- Lý Đông A, lãnh tụ Đại Việt Duy Dân
- Huỳnh Phú Sổ – sáng lập Phật giáo Hoà Hảo và chủ tịch Việt Nam Dân Xã đảng.
Trong khi đó ở miền Nam, sau khi thủ tướng Ngô Đình Diệm chấp chánh,
tức là sau năm 1954, các đảng phái cách mạng và các tổ chức yêu nước như
Phật giáo Hoà Hảo, Cao Đài, Đại Việt, Quốc Dân Đảng cũng bị chính quyền
Ngô Đình Diệm dẹp tan. Đệ tử của Đức thầy Huỳnh Phú Sổ là Ba Cụt Lê
Quang Vinh bị án tử hình, đức hộ pháp Phạm Công Tắc của Cao Đài bị bức
bách phải lánh nạn sang Cao Miên và qua đời tại đó. Đảng Đại Việt lập
chiến khu Ba Lòng, tỉnh Quảng Trị. Quốc Dân Đảng lập chiến khu Nam Ngãi.
Nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam đã quyên sinh để phản đối chính quyền
Ngô Đình Diệm đàn áp tự do dân chủ. Nhiều nhà cách mạng ở miền Nam đã
bị xử án tù ở Côn Đào.
Nói chung, sau khi đất nước chia đôi, các lực lượng dân tộc yêu nước
thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã bị đàn áp ở cả hai miền Nam, Bắc.
TÌNH HÌNH MIỀN BẮC SAU HIỆP ĐỊNH GENÈVE (20-7-1954)
Sau khi chia đôi đất nước, ở miền bắc, Đảng Lao Động (CSVN) bất chấp
lời hứa tôn trong quyền tư hữu trong hiến pháp 1946 của chính phủ Hồ Chí
Minh, bắt đầu đưa cách mạng vô sản của Stalin và Mao Trạch Đông vào xã
hội.
Cuộc Cải Cách Ruộng Đất (hình trái) được mô tả là “ngày long trời đêm lỡ đất”,
là một thất bại thê thảm của chính sách áp dụng chuyên chính vô sản để
cải tạo một xã hội vừa mới thoát khỏi ách nộ lệ thực dân Pháp. Hậu quả
là hàng trăm ngàn nạn nhân bị tướt đoạt tài sản, nhiều người bị xử tử vì
có tài sản và nhiều người yêu nước bị giết chết vì bị vu cáo là Quốc
Dân Đảng. Tiếp theo đó, vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, bịt miệng tiếng nói đòi dân chủ trong giới trí thức và văn nghệ.
Trước những thất bại của các chính sách cộng sản tại miền Bắc, nội bộ
đảng CS có nguy cơ phân hoá. Hồ chí Minh, Lê Duẫn và Lê Đức Thọ đã
nhanh chóng tiêu diệt những tiếng nói cải cách qua “Vụ Án Xét Lại”.
Đảng CSVN phải một lần nữa phất lên ngọn cờ dân tộc, xây dựng guồng máy
chiến tranh, tiến hành cuộc chiến thống nhất đất nước với sự yểm trợ
của Liên Xô và Trung Quốc.
Từ năm 1960, với sự thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam
(MTDTGPMN), guồng máy chiến tranh miền Bắc nuốt trọn thế hệ thanh niên
dưới ngọn cờ đảng, ngọn cờ dân tộc, ngọn cờ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
TÌNH HÌNH MIỀN NAM SAU HIỆP ĐỊNH GENÈVE (20-7-1954)
Sau thế chiến thứ hai, chủ nghĩa thực dân bắt đầu cáo chung. Tuyên
ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ra đời năm 1948 bảo đảm quyền con người và và
Liên Hiệp Quốc chủ trương giải thể chế độ thực dân và bảo đảm quyền tự
quyết dân tộc.
Kế hoạch tái lập chế độ thuộc địa của Pháp bị trở ngại vì trật tự thế
giới mới ra đời sau thế chiến thứ hai và chế độ thực dân trên toàn thế
giới trên đường cáo chung. Trong khi đó, Pháp bị kiệt quệ vì thế chiến
thứ hai và đối thủ của Pháp ở Việt Nam ngày nay không còn là một Việt
Nam hèn kém ở thé kỷ 19, mà là Việt Nam được trang bị bởi lòng yêu nước
cao độ với những ngưòi cộng sản được Stalin huấn luyện từ những năm
1930. Thêm vào đó, tình hình chiến sự tại Việt Nam thay đổi sau khi Mao
Trạch Đông chiếm xong lục địa năm 1949. Từ đó trở đi, các lực lượng Việt
Minh được huấn luyện quân sự ở Trung Quốc trước khi trở về Việt Nam và
được tăng cường võ trang với cố vấn quân sự Trung quốc trực tiếp tham
gia chiến trường. Do đó, sau khi bị sa lầy ở Điện Biên Phủ năm 1954 Pháp
phải quyết định chấm dứt giấc mơ thuộc địa ở Đông Dương.
Với Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất thế giới trở thành cộng sản,
cuộc chiến tranh lạnh trở thành gay gắt và Hoa Kỳ quyết định ngăn cản
bước tiến của cộng sản xuống Đông nam Á. Do đó, khi Pháp rút chân ra
khỏi Đông Dương, Hoa Kỳ nhảy vào cuộc để chận đứng phong trào cộng sản
quốc tế.
Thủ tướng Ngô Đình Diệm (hình trái)
chấp chánh Quốc Gia Việt Nam năm 1954 trong bối cảnh thế giới chuyển
đổi từ đối kháng giữa chế độ thuộc địa và phong trào độc lập sang đối
kháng giữa tự do và Cộng Sản.
Sau thời gian xáo trộn của tình hình chính trị trong thời kỳ chuyển
tiếp, tổng thống Ngô Đình Diệm ổn định được chiến tranh đảng phái ở
miền Nam. Đồng thời sau hiệp định Genève, quân đội Pháp cũng rút khỏi Đông Dương và miền Nam hoàn toàn được độc lập.
Nền độc lập của miền Nam là một bất ngờ lịch sử. Một nền độc lập do
vận động quốc tế trong bối cảnh biến đổi của thế giới sau thế chiến thứ
hai. Một nền độc lập không đổ máu trao quyền lực cho lực lượng Quốc Gia
thân Pháp để lãnh đạo miền nam Việt Nam.
Sau cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bào Đại năm 1955, Ngô Đình Diệm
tuyên bố thành lập nền Cộng hòa và trở thành tổng thống đầu tiên của
Việt Nam Cộng Hoà.
Với sự viện trợ dồi dào của Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hoà đang vươn mình
lên để phát triển. Về kinh tế, thập 1950-1960, VNCH là quốc gia sản xuất
lúa gạo hàng đầu trên thế giới, có lợi tức GDP cao hơn nhiều nước Á
châu trong vùng (Theo UN Statiscal Year Book for Asia 1969, năm 1957
GNP per capita của VNCH là USD$ 158 trong khi South Korea là USD$
46.12).
Những ổn định và thành tựu của miền Nam bắt đầu bị lung lay bởi
guồng máy chiến tranh ở Hà Nội và được điều khiển từ xa bởi Moscow và
Bắc Kinh. Những cán bộ cao cấp của CS bắt đầu xâm nhập miền Nam, đứng
ra chỉ đạo công cuộc gây rối chính trị ở miền nam.
Mặc
khác tổng thống Ngô Đình Diệm, dù là một người yêu nước, vẫn thiếu bề
dày cách mạng để đối phó với Hồ Chí Minh và cán bộ Cộng sản được huấn
luyện làm cách mạng chuyên nghiệp với sự yểm trợ tài chánh dồi dào của
Matcơva để phục vụ cho phong trào cộng sản quốc tế từ năm 1925. Mặc dầu
TT Ngô Đình Diệm cố gắng xây dựng nền dân chủ, ông vẫn còn thiếu kinh
nghiệm làm việc với đối lập. Cái chết của nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam
(hình phải), một người được toàn dân yêu mến vì những hy sinh
và đóng góp to lớn của ông cho văn hoá dân tộc và công cuộc chống Pháp,
đã làm cho giá trị tinh thần của chính quyền suy sập.
Từ năm 1960 tình hình chiến sự gia tăng khi Hà Nội thành lập Mặt Trận
Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam và xã hội miền nam bắt đầu bị xáo trộn về
vấn đề tôn giáo. Vụ tự thiêu của hoà thượng Thích Quảng Đức đã làm cho
tổng thống Diệm mất sự ủng hộ của Phật giáo, chiếm đa số quân
chúng. Tranh chấp tôn giáo tạo ra một khoảng chân không chính trị dễ
dàng bị cộng sản lợi dụng, để xâm nhập vào hàng ngũ lãnh đạo Phật Giáo.
Cuộc chính biến 1-11-1963 chấm dứt chính quyền Ngô Đình Diệm. Sau
cuộc đảo chánh, miền Nam hoàn toàn rơi vào xáo trộn chính trị do các
tướng lãnh thay nhau tranh giành quyền lực. Sau đó guồng máy chính
quyền miền Nam đã được quân sự hoá, để đối phó với chiến tranh đang càng
ngày càng leo thang.
Sau năm 1963, các đảng phái chính trị quốc gia chống Pháp như Đại
Việt, Việt Nam Quốc Dân đảng được phép hoạt động trở lại ở miền Nam,
nhưng đến lúc đó chính quyền đã bị quân sự hoá để đối phó với chiến
tranh. Vai trò của quân đội trở nên trọng yếu làm giảm đi vai trò của
các đảng phái chính trị.
NHỮNG NGHỊCH LÝ LỊCH SỬ
1.- Bài học thất bại của Cường Để: từ yêu nước đến tay sai trong đường tơ kẻ tóc.
Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để (hình trái) là một trong những nhà cách mạng lớn của
Việt Nam ở đầu thế kỷ 20. Năm 1906 ông trốn sang Nhật và cùng với Phan
Bội Châu cổ động phong trào Đông Du. Là một hoàng thân nhà Nguyễn, ông
có tư tưởng quân chủ lập hiến và được Phan Bội Châu tôn làm minh chủ
của Việt Nam Quang Phục Hội.
Năm 1910, người Nhật chấp thuận yêu sách của Pháp trục xuất ông và
Phan Bội Châu, cũng như các học viên thuộc phong trào Duy Tân tại Nhật.
Ông phải rời bỏ Nhật sang Trung Quốc và lưu lạc một thời gian ở Xiêm và
sang cả Âu Châu.[3]
Năm 1915 ông trở về Nhật Bản, giao du với những chính khách Nhật tham
gia hiệp hội Kissaragi-Kai với chủ trương ủng hộ tinh thần và tài chánh
cho Cường Để.[4] Năm 1925 Phan Bội Châu bị bắt. Từ đó Cường Để mất đi
một ngưòi cố vấn chính trị sáng suốt và ông bị chao đảo giữa những thay
đổi của chính trị Nhật Bản.
Khi ông mới đến Nhật Bản, chính quyền Nhật Bản gồm những chính khách
quí trọng tinh thần yêu nước của ông. Hết lòng giúp đỡ ông trong công
tác cách mạng giải phóng đất nước. Đến thế chiến thứ hai, Nhật trở
thành một quốc gia hiếu chiến, hiếu sát, có tham vọng thôn tính các nước
Á châu, trong đó có Việt Nam. Trước sự thay lòng đổi dạ của chính phủ
Nhật, ông vẫn kỳ vọng họ sẽ giúp ông trở về giải phóng quê hương. Nhưng
khi Nhât chiếm đóng Việt Nam năm 1940, và đảo chính Pháp tháng 3 năm
1945, họ đã quên ông và xử dụng lá bài Bảo Đại và Trần Trọng Kim để
thiết lập chế độ thân Nhật ở Việt Nam.
Cường Để may mắn không được dùng như là lá bài xâm lược của quân
phiệt Nhật trong thế chiến thứ hai và, do đó, ông tránh được tiếng “cõng
rắn cắn gà nhà”. Nhưng sự kỳ vọng quân phiệt Nhật giúp ông giải phóng
đất nước là một tính toán nông cạn. Một nhà cách mạng yêu nước sáng chói
đầu thế kỷ 20 suýt trở thành một tay sai cho quân đội Thiên Hoàng. Từ
yêu nước đến tay sai chỉ là một khoảng cách trong gang tất. Chính nhờ
cái may mắn đó, tên tuổi của ông vẫn còn trong sử sách.
2.- Những người Cộng Sản từ yêu nước đến vong thân.
Sau khi chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập năm 1945, đảng CSVN đã
nắm được ngọn cờ dân tộc trong cuộc chiến chống Pháp giành độc lập. Khi
Huỳnh Thúc Kháng tham gia chính phủ Hồ Chí Minh, ông đã đem cả di sản
cách mạng của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh giao cho đảng CSVN. Khi
Phan Khôi ở lại miền bắc để phục vụ cho chính quyền Hồ Chí Minh, ông đã
vô hình chung đem tinh thần dân chủ của Phan Châu Trinh phó thác cho Hồ
Chí Minh và phong trào cộng sản Việt Nam. Vì thế, Hồ Chí Minh và phong
trào Cộng Sản, dù là phong trào quốc tế phủ nhận cách mạng dân tộc, đã
thừa hưởng tất cả giá trị tinh thần của cuộc cách mạng dân tộc của Phan
bội Châu và Phan Châu Trinh. Chính nhờ ngọn cờ dân tộc nầy mà các thành
phần trí thức, văn nghệ sĩ yêu nước triệt để tham gia phong trào Việt
Minh. Nguyễn Mạnh Tường, Văn Cao, Xuân Diệu, Huy Cận, Đào Duy Anh, Chế
Lan Viên, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Hữu
Loan, Quang Dũng, Trần Dần, Ngô Tất Tố, và bao nhiều người khác
nữa. Nhiều trí thức bị đảng cộng sản trù dập suốt đời, như luật sư
Nguyễn Mạnh Tường, vẫn từ chối vào nam vì họ cho rằng miền Nam là chế độ
tay sai của đế quốc Mỹ. Họ vẫn coi phong trào Việt Minh là phong trào
dân tộc chính thống.
Thế
nhưng điều nghịch lý là đảng CSVN là chi nhánh của Đệ tam quốc tế cộng
sản. Khi gia nhập Đệ tam quốc tế chi bộ Việt Nam phải hoàn toàn đứng
dưới sự chỉ đạo của ban chấp hành đảng CS Liên Xô và phải phủ định tinh
thần dân tộc yêu nước (Xin xem điều kiên gia nhập Đệ tam quốc tế). Chưa
có một chế độ nào tuyên truyền về chủ nghĩa dân tộc nhiều bằng chế độ
Cộng sản. Nhưng thực chất dưới chế độ cộng sản, dân tộc chỉ là hình
thức, nội dung của cách mạng là cộng sản. (Trường Chinh, Đề Cương Văn
Hoá 1943).
Do đó, sau khi nắm chính quyền miền bắc, và thống nhất đất nước, đảng
cộng sản đã thực hiện các chính sách Cải cách ruộng đất, đấu tố, tiêu
diệt văn nghệ sĩ, diệt đối lập, cải tạo công thương nghiệp, đốt sách,
đổi tiền, ký kết nhượng biển, nhượng đất cho Trung Quốc. Các chính sách
nầy hoàn toàn phục vụ quyền lợi của phong trào CS quốc tế và đi ngược
với tinh thần đoàn kết dân tộc, tinh thần tôn trọng tư hữu của hiến pháp
Việt Nam 1946.
Những người cộng sản từ những người yêu nước những năm 1920 đến 1945,
đã từng đòi hỏi tự do dân chủ, bình đẳng, công lý cho người dân và độc
lập dân tộc dưới thời thực dân Pháp, đã trở thành tay sai cho chủ nghĩa
ngoại bang và là những môn đồ cuồng tín tôn thờ tội ác chống nhân loại
của Stalin và Mao Trạch Đông. Cao điểm của tinh thần nô lệ ngoại bang
của phong trào cộng sản Việt Nam là công hàm ngoại giao của thủ tướng
Phạm Văn Đồng ký dâng Biển Đông gồm Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng
năm 1958 (hình phải) và các hiệp ước biên giới năm 1999 và hiệp ước phân định vịnh bắc bộ năm 2000.
Tinh thần quốc tế vô sản, nền chuyên chính vô sản, hận thù giai cấp
đã biến những người một thời yêu nước trở thành kẻ thù của lợi ích dân
tộc, của tự do, dân chủ, bình đẳng và công lý.
3.- Sự thất bại của chính quyền miền Nam trong cuộc chiến chống Cộng.
Sau
thế chiến thế hai, Liên Xô nới rộng tầm ảnh hưởng tận Trung Á và Đông
Âu. Khi Mao Trạch Đông chiếm được lục địa Trung Hoa thì Cộng Sản đã
chiếm gần một nửa thế giới. Cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu và đế quốc
Cộng Sản quyết tâm chôn vùi thế giới tự do. Chiến tranh Triều Tiên là
một thử lửa cho Trung Cộng và chiến tranh Việt Nam trở thành cuộc chiến
giữa hai phe tự do và cộng sản.
Trong cái bối cảnh lịch sử đó, chính quyền miền Nam từ những quan lại
triều đình Huế và quan chức thuộc địa phục vụ cho chế độ thực dân Pháp
trở thành những nhà lãnh đạo của một Việt Nam độc lập sau hiệp định
Geneve 1954.
Bên cạnh hàng tỷ đô la viện trợ của Hoa Kỳ về quân sự và kinh tế cùng
với hàng triệu binh sĩ đồng minh, những người lãnh đạo miền Nam vẫn
không đủ khả năng, và tầm nhìn để lãnh đạo bảo vệ miền Nam trước sự xâm
lược của cộng sản. Lịch sử cho thấy họ quan tâm đến bảo vệ quyền lợi cá
nhân và gia đình hơn là bảo vệ đất nước. Điều nầy không có nghĩa là họ
không yêu nước, nhưng họ yêu nước vì sự tiện lợi được làm lãnh đạo một
quốc gia. Lòng yêu nước của họ chưa đủ khi so sánh với giòng cách mạng
quốc gia chống Pháp trước đây của Nguyễn Thái Học, Nguyễn An Ninh, Hùynh
Phú Sổ, Lý Đông A hay Trương tử Anh.
Quan hệ giữa nhà lãnh đạo miền nam và Hoa Kỳ cũng bị ảnh hưởng văn
hoá nô dịch thời Pháp thuộc. Những người lãnh đạo miền nam thay vì coi
Hoa Kỳ là đồng minh, họ coi Hoa Kỳ như quan thầy mới thay thế cho
Pháp. Họ không thấy vai trò lịch sử của họ trong việc lãnh đạo miền
Nam. Dù ở vị trí cao nhất nước họ hành xử như một công chức thuộc
địa. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (hình trái) qua hồi ký của ông
cố vấn Nguyễn Tiến Hưng luôn luôn qui lổi cho Hoa Kỳ đã bỏ rơi đồng
minh. Họ nguyền rủa Hoa Kỳ đã tháo chạy bỏ rơi miền nam. Họ không bao
giờ coi cuộc chiến đấu chống cộng sản như là nhu cầu lịch sử và họ có
trọng trách trước lịch sử để bảo vệ đất nước trước đe doạ của hiểm hoạ
cộng sản. Khi Hoa Kỳ không viện trợ nữa, họ từ chức. Mặc dù trước đó,
khi Hoa Kỳ còn viện trợ, họ chấp nhận màn bầu cử độc diễn để tiếp tục
quyền lãnh đạo, bất chấp các nguyên tắc bầu cử dân chủ. Họ không bao giờ
quan niệm rằng dù có Hoa Kỳ hay không nhân dân Việt Nam phải chiến đấu
chống lại sự áp đặt chủ nghĩa và chế độ cộng sản trên quê hương. Do đó,
khi Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam thì họ cũng bỏ đi luôn, mặc kệ đất nước nỗi
trôi theo cơn bão thời đại.
Nhìn lại thành phần lãnh đạo miền Nam, chúng ta có thể kể ra như sau:
- Ngô Đình Diệm dù là một người yêu nước cũng chỉ chống Pháp ở mức độ
bất đồng chính kiến; khi nắm chính quyền, thay vì mở rộng dân chủ để
hợp tác với các đảng phái và giáo phái yêu nước để xây dựng tính chính
thống lịch sử, ông đã xây dựng cơ chế gia đình trị, bắt giam đối lập,
gây chia rẽ tôn giáo, và cuối cùng chính quyền của ông bị cô lập và bị
lật đổ.
- Dương Văn Minh, người hùng của “cách mạng 1-11-1963”, là người ký giấy đầu hàng cộng sản (hình phảI), đã gia nhập quân đội Pháp từ năm 1939, khi toàn dân sôi sục đứng lên giành độc lập.
- Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, Đặng Văn Quang
đã giao Tây Nguyên và miền Trung cho Cộng Sản làm áp lực với Mỹ, khi
miền nam còn binh hùng tướng mạnh. Một sự hờn dỗi chính trị ngu xuẩn chỉ
nhằm mục đích kiếm thêm tiền viện trợ, bất kể hậu quả kinh hoàng cho
quân đội và người dân, và cho cả tương lai một dân tộc. Họ đã bỏ nước ra
đi rất sớm với trọn vẹn gia tài kếch xù thu hoạch được trong thời kỳ
chiến tranh.
- Cựu Thủ tướng (chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương) và Phó tổng
thống Nguyễn Cao Kỳ, sau một thời gian lưu vong tỵ nạn cộng sản, đã trở
về Việt Nam để trở thành một thứ cán bộ kiều vận của CS. Tư cách và đạo
đức của Nguyễn Cao Kỳ đưọc đồng bào hải ngoại đánh giá kém hơn Xuân Tóc
Đỏ của Vũ Trọng Phụng.
Nói chung các nhà lãnh đạo miền nam được đứng vào vai trò lãnh đạo do
cơ hội chính trị. Khi cơ hội đó không còn nữa thì họ đứng dậy ra đi như
một người khách thương. Khi đất nước bị rơi vào tay Cộng Sản, khi hàng
triệu con dân miền Nam quằn quại trong chế độ Cộng sản, khi hàng trăm
ngàn chiến hữu của họ bị tù đày, khi hàng triệu đồng bào lênh đênh trên
biển, bỏ xác trên đường vượt biên, khi những người lính trẻ tổ chức
chống cộng phục quốc, họ quay mặt đi chổ khác. Khi cộng đồng yêu nước
hải ngoại tìm đường phục quốc họ âm thầm tìm đường trở về hợp tác với
cộng sản để làm ăn.
Từ Dương Văn Minh đến Nguyễn Văn Thiệu đến Nguyễn Cao Kỳ đều chia xẻ
với nhau một tầng số chính trị cơ hội. Với sự viện trợ dồi dào của Hoa
Kỳ, dường như bất cứ một con người nào có cơ hội với chút lanh lợi cũng
có thể làm nên sự nghiệp lớn, nhưng chưa có một người nào đưa ra được
môt lộ trình cách mạng dân tộc hay phản ảnh được tấm lòng yêu nước như
Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học, Trương Tử Anh, hay Lý Đông A, Huỳnh Phú
Sổ. Bi kịch của miền nam là giai cấp lãnh đạo đã không đủ chiều sâu của
lòng yêu nước, viễn kiến dân tộc để bắt kịp được tinh thân ái quốc và
chống Cộng của quần chúng trưởng thành trong một đất nước độc lập.
4.- Sự hình thành của thế hệ mới ở miền Nam – yêu nước không có lãnh đạo
Khác
với thế hệ cha anh, những thanh niên miền nam thời kỳ độc lập sau năm
1954 có những ước mơ trong sáng về một đất nước phú cường. Sinh viên học
sinh miền nam có một đời sống chính trị tương đối tự do. Người dân miền
nam từ thành phần thương gia đến nông dân, giáo chức công chức đều có
một đời sống sung túc về vật chất và tinh thần.
Với sự thành công về kinh tế, và quan hệ rộng rãi với hơn 100 quốc
gia trên thế giới của Việt Nam Cộng Hòa, thanh niên miền Nam trưởng
thành sau năm 1954, đã có một niềm hãnh diện về một đất nước mới. Sự
thất bại của Ngô Đình Nhu xây dựng chủ thuyết Nhân Vị để đối phó với chủ
thuyết cộng sản lại là một cơ hội để lòng yêu nước người dân miền nam
hình thành cách trong sáng. Nhờ đó, lòng ái quốc của thế hệ mới được
phát triển hoàn toàn tự phát, độc lập. Họ yêu nước vì yêu nước mà không
phải theo một chủ thuyết nào.
Khi tài liệu về công cuộc Cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ và Nhân Văn – Giai Phẩm (hình trái)
ở miền Bắc lọt vào miền Nam, khi cuộc nổi dậy của nhân dân Hungary năm
1956 thất bại và xe tăng của Hồng Quân Liên Xô tràn vào Budapest, khi
bức tường Bá Linh được Liên Xô dựng lên, khi được xem phim Dr. Zhivago của Boris Pasternak, đọc truyện dài Quần Đảo Ngục Tù, Vòng Địa Ngục
của Aleksandr Solzhenitsyn về chế độ phi nhân của Cộng sản Liên Xô, khi
được xem những phim tài liệu về “chiến thuật biển người” của Trung Cộng
tại chiến tranh Triều Tiên, khi nghe những bài thơ của đại văn công
cộng sản Tố Hữu xưng tụng những tên đồ tể khát máu của nhân loại là ông
là cha, thì thanh niên miền Nam đã sớm nhận thức được hiểm hoạ của cộng
sản đối với đất nước.
Chính
thế hệ mới đã đóng góp cho nền tự chủ miền Nam. Họ đã đấu tranh cho nền
độc lập đại học, Việt Nam hóa giáo dục, dẹp bỏ những trường trung học
Pháp và đã tham gia chống chế độ độc tài gia đình trị của tổng thống Ngô
Đình Diệm và đồng thời tham gia quân đội để chống lại cuộc xâm lăng của
cộng sản.
Một nền văn học ngắn ngủi 20 năm của miền nam như một thiên tài yểu
mệnh với những tác giả trẻ tuổi là những học sinh, sinh viên, quân nhân,
giáo chức ở lứa tuổi 20, 30 đã đóng góp vào nền văn học nước nhà với
những tác phẩm văn chương, thi ca, âm nhạc phong phú. Một phong trào
về nguồn ra đời tìm về cội nguồn dân tộc với những tác phẩm của Kim
Định, Bình Nguyên Lộc, Phạm Việt Châu đã khơi dậy lòng yêu nước tinh
ròng và phục hồi căn cước văn hoá dân tộc v.v… Nếu không có nền văn học
miền nam thì ngày nay đất nước ta không có một nền văn học hậu bán thế
kỷ thứ 20.
Các thế hệ sinh viên yêu nước ở miền Nam như Lê Hữu Bôi, Lê Khắc Sinh
Nhựt đã không để cho nhóm sinh viên thân cộng thao túng đại học. Họ đã
bị cộng sản xử tử vì lòng yêu nước trong sáng đó. Họ là một trong những
người trẻ dân sự đổ máu rất sớm để bảo vệ miền Nam tự do.
Thanh niên miền Nam tham gia quân đội với một lý tưỏng mới, là phục
vụ cho một nước Việt Nam độc lập và tự do không cộng sản. Thế hệ quân
đội trẻ mang một văn hóa yêu nước trong sáng, với một chiến đấu tính cao
độ, để bảo vệ miền Nam trước sự xâm lược của Quốc tế cộng sản. Họ không
chiến đấu vì ý thức hệ ngoại bang. Họ chiến đấu để dân tộc Việt được tự
do, để con cháu họ được vươn lên trong cộng đồng nhân loại.
Tinh thần yêu nước của thế hệ mới nầy đã thể hiện qua tinh thần chống
tham nhũng, làm sạch quân đội của những người trí thức trẻ trong quân
ngũ như Hà thúc Nhơn, Phạm Văn Lương. Hà thúc Nhơn (hình phải: báo Mỹ),
một bác sĩ quân y trẻ, đã gởi một huyết thư kêu gọi lãnh đạo Việt Nam
Cộng Hoà phải trong sạch hoá quân đội để chống cộng. Ông đã bị tập đoàn
tham nhũng bắn chết khi cố gắng bảo vệ quyền lợi của anh em thương phế
binh ở quân y viện Nha Trang. Phạm Văn Lương, cũng là một bác sĩ quân y
trẻ yêu nước kêu gọi quốc hội chống tham nhũng, trong sạch chính quyền
để quân đội có đủ sức mạnh chống Cộng. Những lời kêu gọi của ông rơi
vào khoảng không và ông đã tự vẫn khi miền nam bị mất vào tay Cộng Sản.
Lòng
yêu nước cũng đã đưọc thể hiện qua gương tuẫn tiết của bậc đàn anh
trong quân đội như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, và Trần
Văn Hai (hình trái) khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng Cộng
Sản. Nếu thế hệ Pháp thuộc trao quyền lãnh đạo đất nước cho thế hệ yêu
nước đang trưởng thành trong chiến tranh sớm hơn, hay cuộc chiến chậm
lại vài năm, có lẽ thế hệ yêu nước miền Nam có cơ hội trở thành lãnh đạo
đất nước thì miền nam Việt Nam không thể rơi vào tay Cộng Sản.
Những gương chiến đấu của thiếu tá Nguyễn Đình Bảo, đại úy Nguyễn Văn
Đương trở thành bất tử với những bản nhạc của Trần Thiện Thanh. Hạm
trưởng HQ thiếu tá Ngụy Văn Thà cùng các chiến sĩ hải quân VNCH đã tử
thủ trên Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo trong trận hải chiến Hoàng Sa 1972
chống quân xâm lược của cộng sản Trung Quốc trở thành biểu tượng bảo vệ
biển đảo tổ quốc cho đồng bào hai miền nam bắc ngày nay bất kể
chính quyền cộng sản có xem đó là cuộc chiến đấu chính đáng hay không.
Những người phóng viên chiến trường như Phan Nhật Nam đã chọn lựa
chống Cộng làm lý tưởng cứu nước. Họ tình nguyện đứng vào hàng ngũ Quốc
gia để bảo vệ cho miền Nam, dù thân nhân của họ là những sĩ quan cao cấp
trong quân đội miền Bắc. Họ chấp nhận đi cải tạo chung số phận với các
chiến sĩ Quốc gia khác, và không cần sự khoan hồng do quan hệ gia đình
đem đến cho họ.
Khi đại tướng Dương Văn Minh đầu hàng quân đội CS ngày 30 tháng tư
năm 1975, thì các tướng lãnh trưởng thành thời kỳ Pháp thuộc, lãnh đạo
quân đội VNCH đã bỏ chạy từ lâu. Trong khi đó, các sĩ quan trẻ vẫn tiếp
tục chiến đấu. Họ không chấp nhận đầu hàng. Nhiều người đã thành lập
chiến khu rãi rác khắp nơi, cuối cùng họ đã bị chính quyền cộng sản bắt
và bị xử tử hình.
Những người như đại úy Trương Văn Sương tiếp tục chiến đấu tới khi
hết đạn, bị bắt ở tù 6 năm, được thả, đến Thái Lan gia nhập kháng chiến
trở về chiến đấu, ở tù thêm 29 năm.
Tháng
4 năm 1975, hàng trăm sinh viên Việt Nam tại Paris đã biểu tình để khóc
và để tang cho miền nam Việt Nam và một nền tự do đã chết (hình phải).
Sau đó, lãnh tụ sinh viên Trần Văn Bá ở Pháp đã về Việt Nam cùng Hồ
Thái Bạch trong nước, xây dựng chiến khu chống Cộng đã bị bắt và bị xử
tử.
Ở trong nước bao nhiêu thiếu niên, thanh niên vô danh đã tham gia
những phong trào phục quốc, đã bị bắt và chết trong các trại tù cải tạo
được kể lại trong các hồi ký sau năm 1975.
Người dân miền Nam yêu mến sự tự do và dân chủ một cách trong
sáng. Họ chỉ có một định hướng duy nhất, đó là định hướng dân tộc với
lòng ái quốc không bị vẩn đục bởi chủ nghĩa ngoại lai. Họ nhận thức đưọc
chủ nghĩa cộng sản đem lại tang thương cho đất nước, và là mối nguy cho
dân tộc. Họ chỉ có một lòng yêu nước rất bình thường của người dân
trong một nước độc lập và tự chủ, bất kể lãnh đạo quốc gia có tâm và tầm
hay không. Điều bất hạnh cho người dân miền Nam là những người lãnh đạo
của họ đã không xứng đáng về tài đức để phất lên ngọn cờ dân tộc để vận
dụng lòng yêu nước của ngưởi dân trong công cuộc chiến đấu chống Cộng
Sản bảo vệ miền Nam.
Chính vì lòng yêu nước đó, sau năm 1975 ngưòi dân miền nam đã bị đồng
hoá với chính quyền Việt Nam Cộng Hoà và họ bị những cán bộ cộng sản
miền bắc đối xử như một thứ công dân hạng hai trong xã hội.
Khi những người quốc gia di tản ra hải ngoại họ vẫn tiếp tục tinh
thần chống cộng của người dân miền nam, trân trọng gìn giữ lá cờ vàng
như là biểu tượng của tự do dân chủ. Trong khi đó, những người lãnh đạo
Việt Nam Cộng Hoà trước đây vẫn im hơi lặng tiếng, nếu không nói là thờ ơ
trước tình hình của đất nước.
Những chính đảng Cần Lao, Dân Chủ nắm quyền lãnh đạo miền nam dưới
thời kỳ đệ nhất và đệ nhị cộng hoà ngày nay ở đâu? Tại sao họ có thể
xuất hiện cách đột ngột khi nắm chính quyền và biến mất khi không còn
quyền lực, mặc kệ sự lầm than của người dân? Họ làm gì với cái gia tài
đồ sộ thu hoạch trong chiến tranh trước sự thống khổ của dân tộc?
Trong khi đó những người dân đen, bố cu mẹ đĩ, bỏ quê hương đi ra
nước ngoài bị mất hết tài sản cơ nghiệp. Một mặt họ phải phấn đấu xây
dựng lại cơ nghiệp ở nước ngưởi để nuôi gia đình, tiếp tế cho thân nhân
trong nước, có người phải dành dụm từng đồng bạc lao động trong những
nhà máy assembly, tiệm nails, hay dè sẻn từng đồng trợ cấp để đóng góp
cho công cuộc giải thể chế độ cộng sản. Họ phải tiếp tục chiến đấu để
giải toả nổi uất hận vì lòng yêu nước của họ đã bị chính quyền miền nam
phản bội.
Làm sao công cuộc giải thể chế độ cộng sản có thể thành công nếu
chúng ta tiếp tục chống Cộng với cả một di sản của những người lãnh đạo
từng là tay sai cho Pháp, bán đứng miền nam cho Cộng sản và có người
ngay nay trở thành cán bộ kiều vận của cộng sản?
5.- Sự thành hình của thế hệ tả phái sau 1954
Bên cạnh một thế hệ thanh niên nhận thức nguy cơ của Cộng sản đối với
đất nước, một thành phần thanh niên miền Nam đã nhìn đảng CS bằng con
mắt yêu nước của Cách Mạng Tháng Tám, Nam Kỳ Khởi Nghĩa và chiến thắng
Điện Biên Phủ. Cái vinh quang của độc lập và chiến thắng ngoại xâm làm
lu mờ hình ảnh đấu tố, cải cách ruộng đất, Nhân Văn Giai Phẩm ở miền
Bắc.
Đồng thời hình ảnh của những đốc phủ sứ, quan lại triều đình Huế thời
Pháp thuộc được hồi sinh trong chính quyền niềm Nam giữa một miền Bắc
“sôi sục cách mạng” đã tạo ra những phản cảm của một số thanh niên đầy
nhiệt huyết đối với chính quyền miến Nam. Sự kém cõi về lãnh đạo, sự tùy
thuộc vào Hoa Kỳ cũng như sự can thiệp sâu đậm của Hoa Kỳ vào việc điều
hành miền Nam đã làm cho mối phản cảm đó sâu rộng hơn.
Thêm vào đó, kỹ thuật tuyên truyền của Cộng Sản, sự yểm trợ của quốc
tế Cộng Sản, của Liên Xô, Đông Âu, Trung quốc cho chiến tranh Việt Nam,
làm cho lòng yêu nước của thành phần nầy tiếp nối cái hào khí cách mạng
cách mạng tháng 8 và Điện Biên Phủ, bất kể thảm hoạ mà chủ thuyết Cộng
Sản có thể đem đến cho dân tộc.
Những người trí thức thế hệ 1945 như Nguyễn Hữu Thọ, Trương Như Tảng,
Trịnh Đình Thảo. Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Nguyễn Hộ v.v. đã chọn con
đường dân tộc dưới ngọn cờ của đảng CS Việt Nam. Những người như Trương
như Tảng, Trịnh Đình Thảo, Lê Văn Hảo, cũng như những người thuộc
“thành phần thứ ba” vẫn chưa nhận thức về hiểm hoạ cộng sản, và họ đã từ
bỏ đời sống tiện nghi của miền nam để vào bưng theo Việt Cộng. Trịnh
Công Sơn ngày 30 tháng 4 năm 1975 lên radio kêu gọi mọi người ở lại để
xây dựng đất nước và gọi những người ra đi là phản bội tổ quốc. Họ tin
tưởng cộng sản sẽ đem lại hòa hợp hoà giải dân tộc chân thành. Họ tin
tưởng ngưòi cộng sản với lòng yêu nước chân thành sẽ xây dựng một đất
nước thịnh vượng giàu sang hơn Việt Nam Cộng Hoà thời kỳ chiến tranh. Họ
không ngờ là cộng sản có khả năng từ bỏ nhân tính để thực hiện chủ
nghĩa cộng sản tại Việt Nam ở cuối thế kỷ 20. Nhiều người không ngờ là
đảng cộng sản có khả năng lừa dối những người yêu nước một cách hào
nhoáng như thế. Nhưng đa số đều tỉnh ngộ khi đất nước thống nhất. Sau
nầy Nguyễn Hộ và những ngườì tham gia Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền
Nam cũng thấy được chủ nghĩa Cộng Sản không phải là đáp số cho dân tộc.
Khi quân đội Mỹ đổ bộ vào Việt Nam thì một thành phần trí thức trẻ
miền nam đã đứng hẳn vào chiến tuyến của người CS. Những người mà ngày
nay báo chí vẫn thường nhắc đến như Hoàng Phủ Ngọc Tường, HP Ngọc Phan,
Nguyễn Đắc Xuân, Trần Vàng Sao, Phan Duy Nhân, Tôn Thất Lập, Tiêu Dao
Bảo Cự, Huỳnh Tấn Mẫm v.v.. Không biết có bao nhiêu người ôm giấc mộng
làm cách mạng vô sản để đưa đất nước về thời cộng sản nguyên thủy.
Nhưng có lẽ phần lớn họ đến với đảng CS vì lòng bồng bột của tuổi trẻ,
vì hình ảnh hào hùng của Điện Biên Phủ, CM Tháng 8, vì giấc mơ dân
tộc, vì mối phản cảm với tính không chính thống lịch sử của chế độ miền
nam, vì sự thối nát và tham nhũng của chính quyền miền nam, và vì sự
hiện diện của quân đội Mỹ thay thế cho quân đội Pháp.
Thế hệ thanh niên miền bắc được đẩy vào chiến trường miền nam với
giấc mơ giải phóng miền nam để cứu nước. Từ lớp thanh niên nầy đến lớp
thanh niên khác lên đường vào nam được trang bị với những bài tuyên
truyền giả dối về một miền nam đói rách quằn quại dưới gót giày xâm lược
của đế quốc Mỹ. Những con người như Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc … mãi mãi tuổi hai mươi
… đem tất cả tuổi xanh dâng cho đảng trong niềm tin tuyệt đối là đảng
CS sẽ dẫn đưa đất nước đến thiên đường xã hội chủ nghĩa. Họ không được
may mắn sống đến ngày đất nước thống nhất, như Dương Thu Hương phải gục
khóc bên đường nhìn thấy một miền nam thịnh vượng bị san bằng bởi những
người Cộng Sản cuồng tín. Họ không được sống để chứng kiến một nền văn
học ngắn ngủi nhưng phong phú về giá trị văn học bị những người Cộng Sản
đưa lên dàn hoả thiêu ờ cuối thế kỷ thứ 20, và đã được các học giả
Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hiến Lê kể lại.
Những người như Trần Vàng Sao (hình trái) nhiệt tình tham gia cách mạng và chiến đấu ở chiến trường miền nam. Chỉ với cái tên “Vàng Sao”
người đọc cũng thấy được chất bônsêvích tràn đầy trong con người sinh
viên miền nam nầy. Nhưng khi được chuyển ra ngoài bắc để chữa thương ông
đã bật ngữa trước sự dối trá của chế độ cộng sản. Ông chứng kiến được
một miền bắc nghèo nàn thê lương với một chính quyền độc tài tàn bạo phi
nhân tính. Những nhận thức của ông về chủ nghĩa cộng sản trở thành hồ
sơ của một kẻ đại phản động. Suốt đờì còn lại ông bị trù dập vì đã nói
lên sự thật.
Những người như Tôn Thất Lập, La Hữu Vang, Trần Long Ẩn với những dòng nhạc yêu nước trong thời kỳ “chống Mỹ cứu nước” ngày nay ở đâu? Sao sinh viên học sinh ngày nay không còn được nghe … Ôi
tổ quốc ta đã nghe lời réo gọi, tiếng hát Trưng Vương hồng thơm, Người
đời người trong ngày hội trùng tu, nếu là người tôi nguyện chết cho quê
hương… khi ngư phủ Việt Nam bị hải quân Trung quốc bắn giết trong
vùng lãnh hải Việt Nam, khi Hoàng Sa và Trường Sa bị cưỡng chiếm? Hay tổ
quốc Việt Nam ngày nay đã trở thành tổ quốc xã hội chủ nghĩa, một thành
viên trung kiên của Cộng Sản Trung quốc?
Những ngưòi cộng sản hy sinh cuộc đời chiến đấu giành độc lập, thống
nhất cho Việt Nam để làm gì? Phục hưng dân tộc chăng? Biến Việt Nam
thành một cường quốc kinh tế như Nhật Bản, Hàn quốc, Singapore chăng?
Tại sao bao thế hệ thanh niên phải sinh bắc tử nam, thà đốt cả dãy
Trường Sơn để đánh Mỹ mà bây giờ không dám lên tiếng để cứu dân tộc
trước hiểm hoạ xâm lăng của Trung Quốc? Tại sao theo Nga, theo Tàu là
chính nghĩa? Tại sao yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa? Tại sao phải tôn
thờ Liên Xô là tổ quốc thứ hai của người cộng sản Việt Nam? Tại sao đấu
tranh giai cấp, giết những người tư sản, trí thức yêu nước là chính
nghĩa? Tại sao cấm tự do báo chí, cấm tự do ngôn luận là chính
nghĩa? Trong khi đó đồng minh với Hoa Kỳ, đòi hỏi nhân quyền, tự do dân
chủ là phản bội dân tộc? Có phải sự tiến bộ và phồn vinh mà thế giới tự
do đem lại cho miền nam Việt Nam cùng với những giá trị nhân bản của nền
dân chủ bền vững của thế giới đi ngược lại với giá trị và quyền lợi của
những người Cộng Sản?
Có một dân tộc nào trên thế giới phải hy sinh hàng bao thế hệ chiến
đấu giải phóng nầy nọ để cho thế hệ con cháu “được” mất mọi quyền tự do
của con người như dân tộc Việt Nam chăng?
TÌM LẠI CHÍNH THỐNG LỊCH SỬ
Như đã nói ở phần giới thiệu, không có một logic nào có thể giải
thích được những nghịch lý lịch sử Việt Nam của thế kỷ thứ 20. Chỉ có sự
nhận thức về những nghịch lý lịch sử mới có thể hiểu được dòng lịch sử
kỳ lạ nhất trong chiều dài 5,000 năm lịch sử của dân tộc.
Điều không thể chối cãi là thế kỷ thứ 20 được làm nên bởi những người
yêu nước và không yêu nước. Yêu nước cũng làm nên lịch sử, tay sai cũng
làm nên lịch sử, và thành phần cơ hội cũng làm nên lịch sử. Làm thế nào
để phân định yêu nước, tay sai hay cơ hội? Phải chăng không có một
thước đo chuẩn mực nào có thể đo chính xác lòng yêu nước của thế hệ lớn
lên ở thế kỷ 20?
Thế kỷ thứ 20 đánh dấu một giai đoạn độc lập sau gần 80 năm bị thực
dân Pháp đô hộ. Tuy nhiên đó là một giai đoạn độc lập bị vong thân trên
chính nền độc lập của mình. Không một chính quyền nào được xây dựng trên
tiếng gọi của hồn sử để chúng ta có thể cảm nhận được lịch sử 5000 năm
đổ dồn về trong ta, như … máu ta từ thành Văn Lang dồn lại.
Thời kỳ độc lập hậu Pháp thuộc cũng có những nét tương tự như thời
độc lập hậu Hán thuộc. Khi Ngô Quyền phá quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng
giành được độc lập cho dân tộc thì sau đó, chính con cháu của ông trở
thành những kẻ trở lại đầu hàng quân Nam Hán để giữ vững ngai vàng. Loạn
12 sứ quân tiếp theo thời đại Ngô Quyền chỉ dấu một thời kỳ tự chủ vong
thân. Phải có ngọn cờ lau Vạn Thắng của Đinh Bộ Lĩnh mới thống nhất
được đất nước. Nhưng đó là giai đoạn chuyển tiếp của lịch sử. Phải đợi
đến khi Lý Công Uẩn lên ngôi mới mở ra được thời kỳ phục hưng Lý
Trần. Phải có con người như Sư Vạn Hạnh biết phóng tầm nhìn về tương lai
mới có thể mở ra thời đại mới cho dân tộc.
Bi kịch của dân tộc ở thế kỷ thứ 20 là những người cách mạng chống
Pháp, cầm nắm lấy ngọn cờ dân tộc dành độc lập và thống nhất được đất
nước là những người đi theo chủ nghĩa phản dân tộc. “Trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ”
là một bản tuyên chiến với dân tộc, với thành phần trí thức ưu tú là
nguyên khí của quốc gia, và với thành phần tư sản là thành phần có khả
năng làm giàu cho đất nước.
Ngày nay chúng ta không thể hiểu được tại sao cả một thế hệ trí thức
tiến bộ yêu nước của thế kỷ 20 đồng thuận với chủ nghĩa cộng sản để có
những người trí thức như Nguyễn Mạnh Tường tốt nghiệp tiến sĩ văn chương
và luật khoa ở Paris lao đầu vào cuộc kháng chiến chống Pháp với tất cả
tuổi xanh rồi đành đoạn ngồi vá xe đạp ở lề đường Hà Nội kiếm sống
dưới chế độ Cộng Sản. Hay những người như luật sư Trịnh Đình Thảo tốt
nghiệp luật ở Paris, làm bộ trưởng tư pháp đầu tiên trong chính phủ Trần
Trọng Kim, đưọc ưu đãi ở Sài Gòn, lại vào bưng theo Việt Cộng sau tết
mậu thân 1968.
Trong khi đó, những người một thời đi theo thực dân Pháp, làm tay
sai cho Pháp, đã trở về gần gủi với dân tộc. Họ chưa hẳn đứng trên lập
trường dân tộc. Nhưng trong môi trường chính trị không bị thống trị bởi
tư tưởng ngoại bang tình tự dân tộc dễ dàng phát tiết. Họ trở thành
những nhà lãnh đạo quốc gia với một nền độc lập “bất chiến tự nhiên
thành”. Trong cuộc chiến tranh lạnh, họ trở thành đồng minh của Hoa
Kỳ. Họ đã biến miền nam thành một đất nước trù phú, thịnh vượng với một
nền dân chủ, dù rất mong manh, cũng đủ gieo hạt giống cho các thế hệ về
sau. Dù họ chỉ là những người cơ hội, không có cái hào khí của những
người tham gia cách mạng tháng tám, hay không thừa hưởng tinh thần cách
mạng của những đảng phái quốc gia chống Pháp. Dù họ không có dư thừa
tinh thần tự do dân chủ, ít ra, họ không dám làm cách mạng để giết oan
hàng trăm ngàn người dân vô tội, và đưa dắt đất nước vào cuộc chiến
tương tàn lầm than. Và nếu không có chiến tranh, miền nam đã trở thành
một Hàn quốc ngày nay. Nhưng rất tiếc chính họ là người đã giao miền nam
cho cộng sản!
Thế
hệ 2000 phải thừa kế một di sản lịch sử đầy nghịch lý của thế kỷ
20. Nếu không giải quyết được cái nghịch lý đó, và không vượt lên những
nghịch lý đó, thế hệ đương đại không thể tiếp tục hành trình dân tộc
trong một giai đoạn chuyển tiếp của một công cuộc vận động lịch sử mới
để đưa đất nước vào thế kỷ thứ 21.
Làm thế nào người Cộng Sản có thể thực hiện được cuộc cách mạng dân
tộc mà vẫn phải vát trên vai nghĩa vụ quốc tế của chủ nghĩa Mác Lê với
sự can thiệp sâu đậm của Trung quốc vào độc lập dân tộc và sự toàn vẹn
lãnh thổ?
Làm thế nào những người quốc gia có thể thực hiện được cuộc cách mạng
dân tộc với di sản của Việt Nam Cộng Hoà với những đã lãnh đạo từng
tham gia chính quyền thuộc địa để quay mặt lại với dân tộc, đã thí bỏ
miền trung và cao nguyên cho Cộng Sản khi còn binh hùng tướng mạnh, hay
trở thành một thứ kiều vận cho cộng sản?
Làm thế nào thế hệ Việt Nam lớn lên ở thế kỷ 21 có thể cùng ngồi lại
với nhau để xây dựng đất nước khi người nầy có cha ông làm tay sai cho
Tây, cho Mỹ, người kia có cha ông làm tay sai cho Nga, Tàu? Người có
thân nhân bị giết bị bom đạn Mỹ, Nga Tàu, người có thân nhân bị đấu tố
chôn sống vì là địa chủ, tư sản.
Không gian chính trị dân tộc bị xoá nhoà bởi cuộc chiến Quốc Cộng và
biến mất dưới chế độ toàn trị của đảng Cộng Sản Việt Nam. Không gian
dân tộc chỉ có thể được tái lập bằng lòng yêu nước tinh ròng với tầm
nhìn vượt qua được những taboo lịch sử, như khi “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” của
Nguyễn Đức Quang vượt đại dương trở về với thế hệ thanh niên sinh viên
lớn lên trong chế độ cộng sản để hát vang trong cuộc biểu tỉnh chống
Trung Quốc xâm lăng Biển Đông. Đó là lòng yêu nước không bị vẫn đục bởi ý
thức hệ ngoại bang và bởi những di sản của thời kỳ vong thân. Đó là
lòng yêu nước vượt qua được lằn ranh phân tranh nam-bắc, quốc cộng.
Bài đáp lịch sử cho thế hệ 2000 là sự nhận thức rằng sau một thời kỳ
vong thân, những người yêu nước chân chính phải thấy được mục đích tối
hậu của cách mạng Việt là sự phục hưng và phục hoạt dân tộc để phục vụ
quốc dân và tổng thể cộng đồng dân tộc Việt trên giá trị của nhân loại
toàn tính. Không có cái tổ quốc gì gọi là tổ quốc xã hội chủ nghĩa đóng
đô ở Matcơva, hay Bắc Kinh, hay Hà Nội. Chỉ có một tổ quốc duy nhất là
Việt Nam. “Tôi có một tổ quốc và anh có một tổ quốc là Việt Nam mến yêu“ (ĐHY Nguyễn Văn Thuận). Do đó, những dòng vong thân phải được chảy trở về dòng chính của lịch sử.
Sự tái lập tính chính thống lịch sử ngày nay là sự vượt qua giai đoạn
vong thân để tiếp nối công cuộc cách mạng trên lập trường dân tộc của
Phan Bội Châu và tư tưởng dân chủ của Phan châu Trinh. Cuộc cách mạng
nầy đã được tiếp nối bởi Nguyễn Thái Học, Lý Đông A, Nguyễn Tường Tam,
Hùynh Phú Số, Trương Tử Anh. Và tình trạng vong thân hiện nay chỉ có thể
được chấm dứt khi lòng yêu nước của người Việt Nam được tái định hướng
bằng con đường dân tộc. Những người yêu nước có thể bất đồng quan điểm
nhưng không bao giờ tiêu diệt nhau để hủy hoại sức mạnh của dân tộc.
Sự tái hợp của những người yêu nước trên lập trường dân tộc trong
sáng của Phan Sào Nam, và tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh sẽ là
cuộc vận động lịch sử mới. Nó không phải là chiêu bài hoà hợp hoà giải
dân tộc làm máy trợ sinh để kéo dài mạng sống cho một chủ nghĩa đang
chết não và đã bị loài người đào thải. Nhưng đó sự tái lập tất yếu không
gian dân tộc đã bị bào mòn bởi thời kỳ vong thân, và là sự tiếp nối tất
yếu của lịch sử để mở ra một thời đại tự do dân chủ cho Việt Nam. Và
tự do dân chủ trên lập trường dân tộc sẽ là bệ phóng để đưa đất nước vào
đại vận phục hưng mới của thế kỷ 21 và để dân tộc Việt được hoà nhập
vào cộng đồng nhân loại, để được sống bình thường như mọi dân tộc văn
minh khác trên thế giới.
NGUYỄN XUÂN PHƯỚC
Dallas, 30-4-2011
Dallas, 30-4-2011
[1] http://www.ari.nus.edu.sg/docs/wps/wps03_011.pdf
[2] http://www.husc.edu.vn/viewpage.php?page_id=17
[3] http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_%C4%90%C3%B4ng_D%C6%B0%C6%A1ng
[4] http://www.un.org/Depts/dpi/decolonization/trust.htm
[5] http://www.un.org/Depts/dpi/decolonization/trust.htm
[6] http://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3o_%C4%90%E1%BA%A1i
http://nguoivietboston.com/?p=36331