RƯƠNG ĐÌNH TRUNG
Cuộc xung đột Israel-Palestine đã và đang diễn hơn 60 năm rồi, đã có
vô số sách báo, tài liệu viết về nó. Tuy nhiên do sự không cân bằng
trong việc phổ biến và giải thích tin tức của giới truyền thông, vẫn còn
có không ít những ngộ nhận đây đó trong dư luận về tính chất của cuộc
xung đột cũng như lập trường của các bên liên quan; đặc biệt là về mối
quan hệ Mỹ-Israel và ảnh hưởng của người Mỹ gốc Do Thái lên các chính
sách của Mỹ quanh cuộc xung đột. Bài viết vắn tắt này là một nổ lực
khiêm tốn góp phần tim hiểu thêm về mối quan hệ và ảnh hưởng đó, ngỏ hầu
giúp xoá bớt một số ngộ nhận đã có từ lâu nay.
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ ISRAEL-PALESTINE
Các thư tịch khảo cổ cho thấy rằng tổ tiên người Do Thái (Hebrews,
Jews, hay Israelis) đã hiện diện trên vùng đất có tên là Canaan (gồm
Israel, West Bank và một phần Jordan ngày nay) từ khoảng 1800 năm trước
Công Nguyên (BC). Cực thịnh là vương quốc Do Thái (Israelite kingdom)
dưới thời vua David khoảng 1000 năm trước CN với Jerusalem là thủ đô.
Nhưng rồi sau đó, vương quốc Do Thái lần lượt bị các đế quốc Assyrians
(720 BC), Babylonians (khoảng năm 580 BC), Ba-Tư và Hy-Lạp (khoảng năm
320 BC) xâm chiếm. Nhiều người Do Thái bị lưu đày ra khỏi vùng đất
Canaan. Đến khoảng năm 200 BC, người Do Thái lại phục hồi được vương
quốc quanh vùng Palestine ngày nay với Jerusalem làm thủ phủ. Sự tự trị
này chấm dứt năm 61 BC khi đế quốc Roma đến xâm chiếm, trục xuất người
Do Thái ra khỏi Jerusalem. Đế quốc Roma cai trị vùng này cho đến khoảng
năm 320 sau Công Nguyên (320 AD).
Chính dưới thời cai trị của Roma mà tên Palestine ra đời. Sau đế quốc
Roman, đến lượt đế quốc Byzantine của Syrian chiếm cứ và cai trị vùng
Palestine cho đến khi bị Hồi Giáo đánh đuổi. Qua thế kỷ thứ 7 AD thì
các đế quốc Hồi Giáo bắt đầu làm chủ phần lớn Trung Đông và các bán đảo
Arabs, trong đó có cả vùng Palestine. Trong hàng chục thế kỷ tiếp theo,
Hồi Giáo và Thập Tự Quân (Crusaders) thay nhau làm chủ khu vực.
Jerusalem trở thành vừa là thánh địa của Do Thái Giáo (Judaism), Ky-tô
Giáo, và cả của Hồi Giáo (Islam). Đế quốc Ottoman của người Thổ Nhỉ Kỳ
chinh phục toàn bộ Trung Đông năm 1517 và tồn tại cho đến khi Đệ Nhất
Thế Chiến kết thúc năm 1918. Như vậy, kể từ năm 61 AD trở đi vương quốc
Do Thái đã biến mất trên bản đồ Trung Đông, dân Do Thái lưu tán ra khắp
nơi, và không còn là cư dân chính của vùng Palestine trong hàng ngàn
năm. Đến cuối thời đế quốc Ottoman, năm 1918, số lượng người Jews sinh
sống ở vùng Palestine còn lại rất ít, chừng khoảng 30,000 trên tổng số
gần 500,000 dân cư.
Người Palestinians xuất hiện cùng thời với người DoThái, nhưng ở dọc
theo duyên hải giữa Địa Trung Hải và vùng sông Jordan. Thời xưa họ còn
được gọi là người Philistine, không thờ cùng God với người Do Thái,
nhưng thờ các thần khác. Người Palestinians là một trong những chiến sĩ
đầu tiên biết xữ dụng binh khí bằng sắt trong những cuộc chiến chống lại
King David của người Do Thái. Thời La Mã cai trị, Kitô giáo được truyền
bá rộng rãi và có nhiều người Palestinians theo. Sau đó, dưới sự cai
trị của đế quốc Ottoman, Hồi Giáo lại là tôn giáo chính của đa số người
Palestinians.
Đệ I Thế Chiến bùng nổ, Thổ đứng về phe Tam cường Liên Minh
Đức-Áo-Thổ (Triple Alliances) chống lại phe Tam Cường Đồng Minh
Anh-Pháp-Nga (Triple Entente). Anh Quốc rất quan tâm đến vùng Trung
Đông, xem đó là vùng chiến lược vì là nguồn dầu hỏa, là đầu cầu dẩn vào
Ấn Độ, thuộc địa quan trọng và béo bỡ nhất của đế quốc Anh, và kênh đào
Suez. Để củng cố lực lượng của mình trong Vùng, Anh Quốc bèn hứa với dân
Arabs là sẽ giúp họ thoát khỏi sự cai trị của đế quốc Ottoman của Thổ
để được độc lập một khi chiến tranh kết thúc. Một mặt khác Anh Quốc, do
nổ lực vận động của Zionist Organization, một tổ chức của người Jews
(DoThái) có khuynh hướng bài Nga thân Đức, cũng hứa với người Jews (Do
Thái), qua tuyên bố Balfour (Balfour Declaration) năm 1917, sẽ giúp họ
thành lập một quốc gia trên vùng Palestine. Khi Đệ I Thế Chiến kết
thúc, Anh quốc không giữ lời hứa trao trả độc lập cho người Arabs. Trái
lại, Anh-Pháp trước đó đã ký mật ước Sykes-Picot (George Picot, phiá
Pháp và Mark Sykes, phía Anh) chia phần với nhau, theo đó Pháp kiểm
soát một phần Turkey, Syria, Bắc Iraq, và Lebanon; trong khi Anh cai
quản Nam Iraq, Jordan và vùng phía Bắc Israel ngày nay. Ngoài ra, trên
danh nghĩa, Anh được Hội Quốc Liên (League of Nations) trao quyền Uỷ trị
(mandate) vùng Palestine. Kể từ đó người Jews (Do thái) từ các nơi trên
thế giới, với sự che chở của Anh quốc, bắt đầu về định cư ở vùng
Palestine. Ngay ở giai đoạn này, sự định cư của người Do Thái đã gây ra
nhiều sự chống đối từ người Palestinians là dân cư ngụ ở đó từ lâu đời.
Năm 1922 khi người Anh làm thống kê dân số vùng Palestine thì có khoảng
84,000 người Do Thái, chừng 670,000 ngưòi Palestinians trong đó có hơn
70,000 người theo Kitô Giáo.
BẢN ĐỒ 1: PHÂN CHIA PALESTINE CỦA LIÊN HIỆP QUỐC NĂM 1947
Năm 1947, Liên Hiệp Quốc tùy tiện phân chia vùng Palestine, trao cho
người Do Thái hơn một nửa lãnh thổ Palestine để lập quốc; chừa lại hai
vùng West Bank, nằm gần sông Jordan và Gaza, nằm dọc biển Địa Trung Hải,
cho người Palestinians. Hai vùng West Bank và Gaza nằm hai bên lãnh thổ
của Israel, cách nhau chừng hơn 40 km.
QUAN HỆ ISRAEL-MỸ
Có thể nói ngay rằng quan hệ Israel-Mỹ là một quan hệ song phương đặc
biệt có một không hai trong chính trường quốc tế trong hơn nửa thế kỷ
qua. Israel là quốc gia nhận nhiều viện trợ kinh tế quân sư nhất từ
Mỹ.Trung bình mỗi năm Mỹ viện trợ trực tiếp cho Israel chừng 3 tỉ
dollars, với dân số chỉ hơn 6 triệu người, mức viện trợ như vậy tính ra
mổi người dân Israel được hưởng gần 500 dollars/năm! Theo Green Book
của USAID (US Agency for International Development) thì tính cho đến năm
2003, Mỹ đã viện trợ tổng cộng lên đến 140 tỉ dollars cho Israel Đặc
biệt hơn nữa là trong khi các quốc gia khác nhận viện trợ theo từng tam
cá nguyệt, Israel được nhận trọn gói ngay từ đầu năm. Về viện trợ quân
sự, các quốc gia nhận viện trợ chỉ được phép xử dụng tiền viện trợ ngay
trên đất Mỹ; nghĩa là phải mua lại quân trang, quân dụng, vũ khí từ các
công ty Mỹ. Trong khi đó Israel lại được quyền xử dụng 25% tài khoản
viện trợ quân sự để tài trợ cho kỷ nghệ quốc phòng của riêng mình, đồng
thời không cần báo cáo cho phía Mỹ cách thức chi tiêu ngân khoản viện
trợ quân sự Israel đã nhận. Mỹ cũng ưu tiên tài trợ cho Israel trong
việc chế tạo các loại vũ khí tối tân, được tham khảo bản vẽ các loại vũ
khí mới, như bản vẽ phi cơ trực thăng Blackhawk hoặc phản lực cơ F.16
chẳng hạn. Nổi bật nhất là Mỹ đã làm ngơ cho Israel nghiên cứu và chế
tạo thành công bom nguyên tử, đã tìm cách ngăn cản không cho khối Arabs
đưa vấn đề nguyên tử của Israel ra trước Cơ quan Năng lượng Nguyên tử
Quốc tế (International Atomic Energy Agency). Về mặt ngoại giao, tính
đến nay, Mỹ đã dùng quyền phủ quyết (veto) 40 lần tại Hội Đồng Bảo An
LHQ để bảo vệ cho Israel trước những nghị quyết bất lợi của Hội Đồng
này. Mỹ cũng luôn đứng về phiá Israel trong tất cả các cuộc xung đột từ
trước đến nay giữa nước này và các quốc gia Arab và dân Palestine. Mỹ
cũng ngay cả ủng hộ Israel trong việc chiếm đóng, một cách bất công và
trái phép, West Bank và Gaza strip, của người Palestien trong cuộc chiến
6 ngày năm 1967.
LÝ DO CÔNG KHAI CỦA VIỆC MỸ ỦNG HỘ ISRAEL
Một cách chính thức, các giới chức và dư luận báo chí Mỹ thường đưa
ra các lý do sau đây để giải thích cho mối quan hệ đặc biệt Mỹ-Israel:
1.- Israel là Đồng minh Chiến lược: Đây là lý do đầu tiên được
chính giới Mỹ viện dẫn nhiều lần, nhất là các nghị sĩ, dân biểu trong
Quốc Hội. Trong suốt thời Chiến Tranh Lạnh, Israel là một đồng minh quan
trọng trong việc ngăn chận sự lan tràn ảnh hưởng của Liên Sô vào Trung
Đông. Trong cuộc chiến tranh 6 ngày năm 1967, Israel với sự viện trợ của
Mỹ đã chiến thắng Egypt và Syria do Liên Sô hậu thuẩn. Cuộc chiến này
là một nổi nhục nhã cho các nước Arabs, đồng thời làm sút giảm uy tín
của Liên Sô trong Vùng. Israel cũng là một nguồn tình báo quan trọng cho
Mỹ trong việc theo dõi các hoạt động quân sự của Liên Sô. Uỷ ban
American-Israel Publich Affair Committee (AIPAC) đã từng cho rằng: ”Mỹ
và Israel đã hình thành một sự hợp tác đặc thù để đáp ứng với những đe
dọa chiến lược đang gia tăng ở Trung Đông… Nổ lực hợp tác này mang lại
những lợi ích quan trọng cho cả hai bên“ (The US and Israel have formed a
unique partnership to meet the growing strategic threats in Middle
East… This cooperative effort provides significant benefits for both US
and Israel). Điều đó ám chỉ về vai trò vị trí tiền tiêu của Israel
trong thế chiến lược của Mỹ ở Trung Đông giữa khối dân Arabs đông đảo.
2.- Ủng hộ một nước nhỏ bị bao vây giữa các nước lớn ở chung
quanh, một dân tộc đã bị bách hại nặng nề trong Đệ Nhị Thế Chiến dưới
chế độ Đức Quốc Xã. Dư luận Mỹ luôn đem so sánh mối tương quan
Israel-Arabs với thế đối địch bất cân xứng giữa chàng tí hon Davis và
người khổng lồ Goliath trong Cựu Ước Kinh. Cuộc tàn sát, có tên là
Holocaust, theo đó chế độ Hitler được báo cáo là đã giết 6 triệu người
Jews, đã được các học giả Mỹ xử dụng như là nền tảng đạo đức của việc
phục hồi và bảo vệ nước Israel cho người Do Thái. (Một chi tiết nhỏ cần
lưu ý là ở Mỹ và các nước Âu Châu, một người có thể công khai tuyên bố
tại nơi công cộng là: ”Không có Chúa, hay Thượng Đế!” mà không gặp bất
cứ một rắc rối pháp lý nào cả. Nhưng nếu tuyên bố rằng: ”Không hề có
Holocaust!” là chắc chắn sẽ bị phiền phức, phải ra toà và không chừng
còn bị tù. Không hiểu tại sao như vậy?)
3.- Ủng hộ một chế độ Dân chủ: Một lý do chính trị khác trong
việc Mỹ hậu thuẩn cho Israel là vì dư luận Mỹ cho rằng Israel là chế độ
dân chủ tiến bộ, mẫu mực nhất ở Trung Đông, cần phải bảo vệ cho chế độ
ấy tồn tại giữa sự bao vây của các chế độ chuyên chế trong Vùng.
4.- Người Jews là một dân tộc hiếu hoà, thông minh, có một lịch sử lâu đời.
Do Thái Giáo có mối quan hệ rất gần gủi với các tôn giáo lớn của Tây
Phương như Công Giáo, Tin Lành, v.v… Trong khi đó dưới mắt dư luận Mỹ,
các dân tộc Arabs thường hiếu chiến, bạo động, có khuynh hướng khủng bố,
kém ý thức dân chủ, và nhất là theo Hồi Giáo; một tôn giáo có một lịch
sử lâu dài đối địch với Ki-tô Giáo. Trên đây là những lý do mà chính
khách, học giới và truyền thông Mỹ, từ suốt mấy chục năm qua, thường
dùng để công khai biện minh cho mối quan hệ hữu nghị có một không hai
Mỹ-Israel.
Tuy nhiên, phân tích kỷ, người ta không khỏi không thấy những điểm
gượng gạo trong các lý do trên. Chẳng hạn, vai trò đồng minh chiến lược
có thể ít nhiều có giá trị trước đây khi khối Cộng Sản Liên Sô còn tồn
tại. Nhưng, ngay ở điểm này cũng cần phải chú ý rằng Israel không phải
là yếu tố duy nhất ngăn chận sự lan rộng ảnh hưởng của cộng sản trong
Vùng; chính là vai trò văn hoá và tôn giáo của khối Ả rập đã làm cho chủ
thuyết Marxist-Leninist không xâm nhập được. Hơn nữa, nay Chiến Tranh
Lạnh đã kết thúc, khối Liên Sô đã sụp đổ gần hai thập niên rồi, không
còn một đối thủ nào dòm ngó, uy hiếp ảnh hưởng của Mỹ ở Trung Đông nữa,
vậy tại sao sự gắn bó Israel-Mỹ vẫn không thay đổi? Về chế độ Dân chủ ở
Israel thì cũng có nhiều vấn đền chưa được giới truyền thông Mỹ phân
tích sâu rộng và vô tư. Đối với nhiều người, nói đến Dân Chủ là nói đến
sinh hoạt chính trị có hơn một đảng trở lên, có các cuộc phổ thông đầu
phiếu để người công dân bầu lên người đại diện của mình. Tuy nhiên, một
nền Dân chủ đúng nghĩa không chỉ dừng lại ở cơ cấu đảng phái và quyền
đầu phiếu.
Những đòi hỏi khác quan trọng không kém và là nền tảng cho sinh hoạt
chính trị dân chủ là sự bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội, là
những nhân quyền căn bản được tôn trọng. Nhiều báo cáo của các tổ chức
quốc tế như Hội Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International) hay Uỷ ban về các
quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc (UN Committee on
Economic, Social and Cultural Rights) cho thấy ở Israel không có sự bình
đẳng xã hội. Những ai đã quen với xã hội hợp chủng ở Mỹ chắc sẽ rất
ngạc nhiên và bất bình trước tính cách kỳ thị chủng tộc mạnh mẽ trong xã
hội Israel. Chỉ có người Jews chính gốc dựa trên nguyên tắc huyết hệ
(the principle of blood kinship) mới thật sự là công dân Israel được
hưởng đầy đủ mọi quyền lợi và sự che chở của Nhà Nước. Ngay cả những
người Arabs kết hôn với người Israeli cũng không được trở thành công dân
Israel và cư trú ở đó. Người Arabs, hiện có đến chừng 1.3 triệu ở
Israel, và các dân thiểu số khác ở Israel, chỉ là công dân hạng hai,
không được hưởng những quyền sỡ hữu về đất đai ngang với những người
Jews. Các thăm dò dư luận giữa dân Israel cho thấy có đến hơn 57% người
Jews không chấp nhận sự bình đẳng với các sắc dân khác và chỉ muốn trục
xuất tất cả người Arabs ra khỏi lãnh thổ Israel.
Ngoài ra, một báo cáo của Thông Tín Viên Đặc Biệt của Liên Hiệp Quốc
(UN Special Rapporteur) ghi ngày 25/8/2008 về tình hình nhân quyền của
người Palestine ở trong những vùng Israel chiếm đóng từ cuộc chiến tranh
6 ngày năm 1967 cho thấy rằng chính phủ Israel đã có những vi phạm trầm
trọng luật nhân quyền quốc tế đối với người Palestine trong vùng lãnh
thổ chiếm đóng, nhất là ở vùng West Bank và Gaza. Cuộc chiếm đóng 40 năm
của Israel đã tước đi hầu hết những dân quyền căn bản của người
Palestine về pháp lý, giáo dục, y tế, kinh tế và văn hoá, gây những hậu
quả xã hội nghiêm trọng và lâu dài cho người Palestine. Những sự kiện
trên đây cho thấy rằng dân Jews, hay Israeli, không là dân tộc hiếu hoà,
như giới truyền thông Mỹ đã luôn quảng bá. Đúng là họ có một lịch sử
lâu dài và rất thông minh, nhưng họ cũng rất hiếu chiến và không kém
phần độc ác so với bất kỳ dân Arabs nào khác. Trong những ngày đầu mới
thành hình, các tổ chức Zionists của người Jews cũng đã xử dùng sự khủng
bố (terrorism) làm phương cách hoạt động để đạt các mục đích của mình,
giết hại nhiều thường dân vô tội, hay ngay cả như ám sát Hoà Giải Viên
của Liên Hiệp Quốc Kể, Quận Công Folke Bernadotte năm 1948, chẳng hạn,
chỉ vì ông này đề nghị Quốc tế hoá thành phố Jerusalem.
Từ ngày lập quốc, năm 1948, Israel đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh,
nhiều trăm ngàn người Palestine đã bị giết, hàng triệu người khác đã bị
tước đoạt hết đất đai, sống tha phương trong các trại tị nạn, nhiều ngàn
nhà thờ Hồi giáo trong Vùng đã bị phá huỷ. Ngoài ra, cuộc chiến tranh 6
ngày năm 1967, và sau này cuộc chiến tranh Yom Kippur (tên một ngày lễ
của Israel) năm 1973 cho thấy rằng Israel đối với các nước Arabs không
phải là một chàng Davis nhỏ nhắn trước một anh khổng lồ Golliah. Sự so
sánh đó chỉ đúng trên phương diện dân số và diện tích đất đai lúc đầu
vào năm 1948. Nhưng xét trên bình diện khả năng quân sự thì Israel không
phải là một nước yếu nhược đứng trước các cường quốc. Trái lại, Israel
là một cường quốc nguyên tử với kinh tế phát triển, hoả lực và vũ khí
tối tân luôn luôn áp đảo các nước Arabs với vũ khí thô sơ và kinh tế kém
phát triển. Điều này trái ngược với lý do thứ 2 nêu ở trên rằng Mỹ phải
ủng hộ Israel vì nước này yếu đuối đứng trước sự đe doạ của khối Arabs
đông đảo và ở thế mạnh.
Tóm lại, những lý do thường được công khai viện dẫn cho các chính
sách của Mỹ đối với Israel là không phù hợp với thực tế, không giải
thích được một cách thỏa đáng câu hỏi căn bản về mối quan hệ đặc biệt
của hai quốc gia. Trái lại những phân tích khách quan các sự kiện lịch
sử cho thấy có hai khía cạnh khác, sâu xa và kín đáo hơn, ít được công
luận biết đến, của mối quan hệ Mỹ-Israel; đó là:
1.- Mỹ muốn chế ngự Trung Đông và kho dầu lửa của nó, và để đạt mục
đích đó, Mỹ đã xử dụng con bài Israel trong chiến lược cân bằng quyền
lực từ xa (off-hand balance of powers); chiến lược này ít ra đã áp dụng
được cho đến khi chiến tranh Iraq xảy ra năm 2003, khi Mỹ phải trực tiếp
can thiệp.
2.- Do tham vọng tái lập một nước Isreal Lớn, người Do Thái đã nổ lực
vận động hành lang (Jewish Lobby) để hướng dư luận và chính sách của Mỹ
vào mục tiêu đó.
KHỐNG CHẾ TRUNG ĐÔNG
Động lực chính yếu khiến Mỹ luôn xem trọng và quyết tâm duy trì mối
quan hệ chặt chẻ với Israel; đó là độc tôn khống chế nguồn dầu lửa ở
Trung Đông. Đó cũng là nền tảng trong chính sách của đế quốc Anh trong
thập niên đầu của thế kỷ 20 đối với khối Arabs trong Vùng. Vì động cơ
đó, Mỹ cần đến Israel như một căn cứ tiền tiêu trong việc chống lại các
trào lưu quốc gia (nationalism) của các nước Arabs, gây xáo trộn, làm
suy yếu và chia rẽ giữa các quốc gia này, kìm hảm đà phát triển kinh tế,
ngăn cản họ đoàn kết chặt chẻ lại thành một khối trên căn bản tôn giáo
chung, Muslim, để bảo vệ nguồn tài nguyên dầu hỏa, là máu của nền văn
minh thế giới hiện đại. Sự hùng mạnh và đoàn kết của các nước Arabs theo
chủ nghĩa quốc gia bị xem là mối đe doạ nghiêm trọng cho sự khống chế
của Mỹ đối với chính tình và nguồn dầu lửa ở Trung Đông.
Đệ nhị thế chiến đã làm cho Âu Châu, ở cả hai phe, suy sụp hoàn toàn.
Vị thế bá chủ của đế quốc Anh cũng dần dà biến mất, nhường chỗ cho siêu
cường đang lên là Mỹ. Cuộc chiến đã làm cho Anh quốc gần như phá sản,
mắc một số nợ lớn; trong lúc Mỹ lại trở thành chủ nợ hầu như của tất cả
các cường quốc của khối Đồng Minh. Anh đã đành phải nhường dần điạ vị
của mình cho Mỹ. Cùng với việc phát hiện ra Arab Saudi và mối quan hệ
đặc biệt giữa Tổng Thống Mỹ Roosevelt và vua Abdul Aziz Saud, Mỹ đã
khống chế được một vựa dầu lớn. Trong số 7 công ty dầu hỏa lớn nhất thế
giới từ trước đến nay; người ta còn gọi là “7 chị em“ (seven sisters),
thì Mỹ đã chiếm hết 5. Đó là Mobil, Exxon, Texaco, Chevron và Gulf Oil.
Hai công ty kia là BP (British petroleum) and Shell của Anh. Dầu hỏa,
như vậy, mang dấu ấn rất nặng của văn minh Anglo-Saxon. Những công ty
dầu hỏa này đôi lúc còn được gọi là Big Oils, kiểm soát hầu như toàn bộ
dầu hoả rẻ tiền của Trung Đông, cung cấp dầu cho toàn thế giới.
Sau Đệ nhị Thế chiến, với kế hoạch Marshall, 5 công ty dầu của Mỹ trở
thành độc quyền cung cấp dầu cho Âu châu. Các quốc gia Âu châu, trái
lại không được dùng tiền của kế hoạch để xây dựng nhà máy lọc dầu riêng
cho mình. Sự độc quyền đó đã giúp cho Big Oils thu được những lợi nhuận
khổng lồ. Điều này đóng góp vào sự cực thịnh của kinh tế Mỹ trong thập
niên 1950s. Nhờ vào giá dầu quá rẻ mà hệ thống xa lộ liên bang ra đời
dưới đạo luật National Defense Highway Act. Cùng với hệ thống giao thông
là kỷ nghệ xe hơi bùng phát với những công ty xe hơi lớn có ảnh hưởng
rất quan trọng đối với kinh tế Mỹ, đến độ bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, ông
Wilson, đã có câu nói bất hủ: “Cái gì tốt cho General Motors thì cũng
tốt cho nước Mỹ” (What’s good for General Motors is good for America)
(General Motors là một hảng chế tạo xe hơi lớn của Mỹ).
Bảo về nguồn dầu hỏa Trung Đông, như vậy, là rất quan trọng, trở
thành sợi chỉ xuyên suốt lịch sử chính sách đối ngoại của Mỹ ở Trung
Đông trong hơn nửa thế kỷ nay. Có thể tìm thấy rất nhiều dấu vết của
động cơ ấy qua chính sách của Mỹ trong thời gian ngay sau Đệ Nhị Thế
Chiến đối với Iran, phản ứng trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967, cuộc
chiến Iran-Iraq, cuộc chiến vùng Vịnh 1991, cuộc chiến Iraq 2003 và
trong quá trình cuộc xung đột Israel-Palestine. Quan điểm của Mỹ về
Trung Đông được tóm tắt trong học thuyết Carter. Vị TT này từng tuyên bố
năm 1980: “Bất cứ toan tính của một lực lượng bên ngoài nào nhằm kiểm
soát vùng Vịnh sẽ bị coi như là một hành động tấn công vào quyền lợi
sống còn của Mỹ, sẽ bị đẩy lùi bằng mọi phương cách cần thiết, kể cả
bằng quân sự”. (Any attempt by any outside force to gain control of the
Persian Gulf region will be regarded as an assault on the vital interest
of the US. It will be repelled by use of any means necessary including
military force). Thượng Nghị Sĩ Dân Chủ Henry Jackson cũng từng nói
rằng: ”Những đe doạ đối với sự liên tục của dòng dầu hỏa từ vùng Vịnh là
hết sức nguy hiểm cho nền kinh tế của Tây Phương và Nhật Bản đến mức có
thể gây ra đại chiến” (Threats to the continuous flow of oil through
the Gulf would so much endanger to the Western and Japanese economies as
to be grounds for general war).
1.- Đối với Iran.
Lúc đầu Iran và Israel được xem là hai đồng minh chính của Mỹ ở Trung
Đông. Anh Quốc kiểm soát vựa dầu của nước này qua công ty Anglo-Iranian
Oil Company. Nhưng rồi, đến năm 1953, thủ tướng Mohammed Mossadegh, do
dân Iran bầu lên, muốn tìm cách quốc hữu hoá, có bồi thường thoả đáng,
công ty dầu hoả đó để có vốn phát triển kinh tế Iran. Kế hoạch của
Mossadegh gặp phải phản ứng dữ dội của Anh-Mỹ. CIA liền tìm cách lật đổ
Mossadegh, vu cáo ông này là Cộng Sản, và tái lập chế độ quân chủ của
vương triều Peacock Throne, đưa vua Shah trở lại cầm quyền Iran. Khi cầm
quyền,việc đầu tiên của Shah là ký nhượng việc mua bán dầu cho các công
ty dầu hoả Tây Phương, trong đó các công ty Mỹ chiếm 40%, với những
điều kiện rất dễ dàng. Chế độ cai trị của Shah độc đoán, hà khắc, lòng
dân Iran rất oán hận. Shah tồn tại được 26 năm chỉ nhờ một chỗ dựa duy
nhất; đó là sự hậu thuẩn của Mỹ. Điều này giải thích vì sao năm 1979,
khi phong trào Hồi Giáo Căn Để (Islamic Fundamentalism) do Ayatollah
Khomenei lãnh đạo lật đổ Shah, lập nên chế độ Hồi giáo ở Iran, chính
quyền của Khomenei đã bắt giam con tin Mỹ trong hơn một năm, làm mất thể
diện của Mỹ trước cộng đồng quốc tế, làm sút giảm uy tín của Mỹ ở Trung
Đông. Từ đó Iran và Mỹ-Israel trở nên thù địch cho đến nay.
2.- Chiến tranh 6 ngày:
Tháng 6 năm 1967, Israel, áp dụng chiến lược “tấn công ngăn ngừa”
(preventative attack), bất thần tấn công Egypt, Syria và Jordan. Với ưu
thế tuyệt đối về tình báo, không quân và hoả lực, chỉ trong 6 ngày
Israel đã gây thương vong cho hơn 10,000 lính Arabs, phá huỷ 340 máy
bay. Ngược lại phía Israel chỉ chết hơn 300 lính và khoảng 30 phi cơ bị
bắn hạ. Israel chiếm cao nguyên Goland của Syria, bán đảo Sinai của
Egypt, dải Gaza và vùng West Bank tiếp giáp với Jordan. Lãnh thổ của
Israel đã tăng gấp 3 lần sau cuộc chiến 6 ngày này, dồn đuổi hơn 220,000
người Palestinians ra khỏi nơi cư trú của họ. Mỹ đã làm tất cả để hậu
thuẩn cho Israel trong cuộc chiến này: cung cấp tin tức tình báo, viện
trợ các loại vũ khí và máy bay tối tân, ngay cả cho dùng phi cơ không
quân Mỹ hoá trang và phi công Mỹ với passport dân sự trong các phi vụ
tiếp liệu cho Israel, v.v… Quan trọng hơn nửa là chính phủ Mỹ đã dùng
quyền veto để chống lại đề nghị Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ra nghị
quyết buộc Israel trao trả các lãnh thổ đã chiếm đóng.
Một điều quan trọng hơn nữa là đến năm 1967, Israel đã thành công
trong việc sỡ hữu vũ khí nguyên tử với sự giúp đỡ của công ty NUMEC, và
của hai chính phủ Mỹ và Pháp. Tính đến năm 1969, Israel có tổng cộng
chừng từ 12 cho đến 16 đầu đạn nguyên tử. Điều này trái với lời hứa của
Thủ tướng Israel Eshkol đã đưa ra năm 1966 rằng Israel sẽ không là nước
đầu tiên sản xuất vũ khí nguyên tử ở Trung Đông. Israel không bao giờ ký
Hiệp ước Hạn chế Phổ biến Nguyên tử (Nuclear non-proliferation Treaty)
cũng không hề chấp thuận cho việc thanh tra nguyên tử đối với đất nước
của họ. Lập trường của Mỹ trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967 giữa các
nước Arabs và Israel như trên không được xem là một thành công về mặt
ngoại giao. Khối Arabs từ đó càng nghi ngờ chính sách của Mỹ hơn, dư
luận Arabs càng ngày càng trở nên chống Mỹ. Không khí thù địch giữa
Mỹ-Israel và khối Arabs, cứ qua mỗi biến cố chiến tranh, lại càng gia
tăng hơn, làm thất bại mọi nổ lực kiến tạo một sự ổn định lâu dài cho
Trung Đông hoặc giúp giải quyết số phận đau khổ của hàng triệu người
Palestine đang sống trên đất của họ cũng như những người đã và đang
sống trong tình cảnh tị nạn trong hơn nửa thế kỷ qua ở rãi rác khắp các
nước Egypt, Syria, Jordan, Lebanon, v.v…
3.- Kế đến là cuộc chiến Iran-Iraq (1980-1988).
Iraq và Iran đã từng xung đột nhau nhiều lần trong lịch sử. Từ sau
khi Ayatollah Khomeini lên cầm quyền, Iran đã ngấm ngầm xúi dục dân Iraq
thuộc hệ phái Shiite nổi lên chống lại sự cầm quyền của hệ phái Sunni.
Saddam Hussein cũng có tham vọng biến mình thành lãnh tụ của Arabs đầu
tiên đánh bại người Persians, chiếm lại vùng lãnh thổ Shatt-al-Arab.
Khi chiến tranh bắt đầu vào năm 1980, bề ngoài Mỹ đứng trung lập, nhưng
bên trong ngấm ngầm khuyến khích Saddam Hussein. Cả hai chính phủ Mỹ,
Carter và Reagan, đều tìm cách giúp đỡ Iraq của Saddam về nhiều mặt:
cung cấp tin tình báo, kể cả không ảnh về sự bố trí của quân Iran; cung
cấp hàng tỉ dollars tín dụng; bí mật viện trợ vũ khí hoá học; viện trợ
lương thực; ủng hộ các nghị quyết của Liên Hiệp Quốc lên án Iran; nhiều
chính khách Mỹ kêu gọi phong toả hải lộ Iran. Tháng 7 năm 1988, hải quân
Mỹ ngay cả bắn hạ một phi cơ thương mãi của Iran, giết chết 290 thường
dân! Cuộc chiến kết thúc, Iran bị tàn phá nặng, suy kiệt về mọi mặt.
Iraq cũng kiệt quệ về kinh tế, nợ nần chồng chất; nhưng lại có một đội
quân hùng mạnh nhất trong khối Arabs với kho vũ khí khổng lồ; đặc biệt
là vũ khí hoá học do Mỹ trang bị.
Vừa để giải quyết vấn đề nợ nần, đồng thời tận dụng lực lượng quân
đội hùng mạnh cho tham vọng trở nên cường quốc Arabs số một, Saddam
Hussein đã làm một điều dại dột ở quy mô chiến lược; đó là xâm chiếm
Kuwait, khơi mào cho cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất tháng
8/1990. Theo William Engdahl, thì Mỹ đã gài bẩy cho Saddam Hussein tấn
công Kuwait. Một tuần trước khi khởi binh, Saddam Hussein đã triệu Đại
sứ Mỹ, là ông April Glaspie, đến để hỏi về lập trường của Mỹ đối với vụ
tranh chấp Iraq-Kuwait và được ông Glaspie khẳng định là Mỹ không can
thiệp. Sự kiện này được ghi lại trong hồ sơ của chính phủ Saddam
Hussein. Các cơ quan tình báo Mỹ nắm vững tin tức về kế hoạch tấn công
Kuwait của Saddam và vì vậy đã báo động trước cho hoàng gia nước này
thoát thân an toàn cùng với toàn bộ trương mục tài chánh khổng lồ của
mình. Iraq của Saddam đã hoàn thành điều mà Mỹ mong mỏi là làm suy yếu
Iran ; nay đến lúc Mỹ lại cần một lý do chính đáng để làm cho Iraq, đến
lượt nó, cũng phải kiệt quệ. Bằng việc tấn công Kuwait, Saddam Hussein
đã cho TT George Bush cơ hội tốt để thành đạt mục đích đó, đồng thời vận
động sự hậu thuẩn quốc tế cho mưu đồ riêng của mình trong việc thực
hiện một New World Order, là một trật tự mà Ông đã xướng ra ngay sau khi
bức tường Berlin sụp đổ.
SỰ VẬN ĐỘNG HÀNH LANG CỦA NGƯỜI JEWS Ở MỸ (Jewish lobby).
Tổ chức vận động hành lang mạnh nhất của người Jews ở MỸ là
American-Israeli Public Affair Committee (AIPAC). Tổ chức này có ảnh
hưởng mạnh hơn cả công đoàn AFL-CIO và Hiệp Hội Súng trường Quốc gia
(National Rifle Association). Ngoài ra, hổ trợ cho AIPAC còn có các nhóm
Phúc Âm Kitô giáo (Christian Evangelicals) khác như Garry Bauer, Ralph
Reed, Pat Robertson, Tom Delay, v.v… Những nhóm này tin rằng sự hồi sinh
quốc gia Israel là phù hợp với lời tiên tri trong Kinh Thánh và là
Thánh Ý Chúa. Cả nhóm Tân Bảo Thủ (neo-conservatives) cũng là những
người vận động đắc lực cho Israel, như John Bolton: cựu Đại sứ tại LHQ,
Paul Wolfowitz: cựu Thứ trưởng Quốc phòng, Jeanne Kirpatrick, Henry
Kissinger, v.v… Nổ lực vận động hành lang của người Israelis tập trung
vào hai mặt chính: Ảnh hưởng lên lập trường và chính sách của các nhà
lập pháp và viên chức chính phủ ở Washington, để các lập trường, chính
sách đó luôn đi theo chiều hướng ủng hộ Israel. Thứ hai là tìm cách ảnh
hưởng đến công luận Mỹ, phô bày những nét tích cực của Israel và những
gì tiêu cực của phía Arabs, tìm cách kiểm soát các cuộc tranh luận về
các vấn đề Trung Đông, hạn chế hoặc vô hiệu hoá những lời phê bình bất
lợi cho Israel.
ẢNH HƯỞNG LÊN CHÍNH SÁCH
Uỷ Ban Công Vụ Mỹ-Do Thái (American-Israel Public Affair
Committee)(AIPAC) có ảnh hưởng rất mạnh lên Quốc Hội. Uỷ Ban này có
những mối quan hệ đặc biệt đối với các nhân viên tham mưu (staffers) của
các Dân Biểu và Nghị Sĩ. Nhiều nhân viên tham mưu này hoặc là người Mỹ
gốc Do Thái hoặc là thân Israel, hay hưởng bổng lộc của AIPAC; chính bộ
phận tham mưu này là những người soạn thảo chính sách, dự luật cho Quốc
Hội. Bản thân AIPAC đôi khi còn giúp cho các nhân viên tham mưu QH trong
việc soạn thảo các báo cáo nghiên cứu, các chính sách, tổng kết số liệu
thống kê, hay ngay cả viết diễn văn. Đối với bên Hành Pháp cũng vậy.
Một ví dụ là thời TT Bill Clinton, chính sách Trung Đông đã được soạn
thảo bởi những nhân vật thân Israel, hoặc có quan hệ gắn bó với những tổ
chức pro-Israel, như Martin Indyk, trước kia là Phó Giám đốc nghiên cứu
của AIPAC, đồng thời là sáng lập viên cơ quan Washington Institute for
Near East Policy (WINEP)-một tổ chức ủng hộ Israel. Một nhân vật khác
cùng soạn thảo chính sách Trung Đông thời Clinton là ông Dennis Ross,
sau khi rời khỏi chính quyền đã làm việc cho WINEP. Nhân vật thứ 3 tham
dự việc hình thành chính sách Trung Đông là ông Aaron Miller là người
thường xuyên sinh sống ở Israel. AIPAC tìm cách tưởng lệ cho những Dân
Biểu, Nghị Sĩ nào có những chủ trương, đường lối có lợi cho Israel;
ngược lại vận dụng mọi biện pháp để trừng phạt những người có quan điểm
bất lợi cho Israel. Khi cần AIPAC có thể lập ra cả một chiến dịch rầm
rộ nào biểu tình, thư hay điện thoại khiếu nại, hoặc dùng truyền thông
để chỉ trích những chính khách nào có vẻ có thái độ thiếu thân thiện với
Israel.
Đôi khi chỉ một lời tuyên bố hớ hênh bất lợi cho Israel cũng đủ gây
rắc rối lớn cho một chính khách. Chẳng hạn, trường hợp của Howard Dean.
Năm 2004, khi ra tranh cử TT, Howard Dean kêu gọi Mỹ nên xử sự “đồng
đều” (even-handed role) hơn trong cuộc tranh chấp Israel-Arabs. Vậy là
ngay lập tức TNS Joseph Lieberman công kích Dean cho rằng ông này là “vô
trách nhiệm” và bán rẻ Israel. Một số đông Dân Biểu của đảng Dân Chủ ký
chung thư phản đối lời tuyên bố của Dean. Đồng thời hàng trăm ngàn thư
từ, e-mails từ các nơi gởi đến các tờ báo lớn của Mỹ kêu gọi tẩy chay
Dean, cho rằng Dean là điều không tốt cho Israel. Cho đến hôm nay, tuy
từng ở cương vị chủ tịch đảng Dân Chủ, có công lớn trong việc giúp Obama
thắng cử, nhưng Howard Dean cũng không nắm được một ghế Bộ Trưởng nào
trong chính phủ mới cả. Nhiều người cho rằng chỉ vì Dean đã lỡ lời trước
đây khi bàn về chính sách đối với Israel-Arabs.
Ảnh hưởng của Jews Lobby cũng ghi những dấu ấn lớn lên các chính sách
của chính phủ George W. Bush đối với Iraq và Iran. Các nhân vật
neo-conservatives thân Do Thái như Paul Wolfowitz, William Kristol,
Richard Perle, Donald Rumfeld, Charles Krauthammer, Robert Kagan, đã
cùng với WINEP, JINSA (think tanks Do Thái) tích cực vận động cho chiến
tranh Iraq ngay từ thời TT Bill Clinton, và từ những ngày đầu của TT
Bush. Các cơ quan tình báo Israel đã đóng góp rất tích cực trong việc
thiết lập hồ sơ chuẩn bị cho việc tấn công Iraq, và về sau này những tin
tức liên quan đến chương trình nguyên tử của Iran. Chiến tranh Iraq và
việc kiềm chế Iran, trước hết và trên hết, là những bảo đảm an ninh lớn
lao cho Israel, chứ không phải cho chính công dân Mỹ. Nguời được lợi lớn
nhất trong chiến tranh Iraq là Israel; nhưng người hứng chịu gánh nặng
tài chánh và nhân mạng lại là taxpayers Mỹ!
Một ví dụ khác nổi bật nhất về ảnh hưởng của Jewish Lobby lên chính
sách của Mỹ là trường hợp TT George W.Bush. Vào khoảng cuối năm 2001,
Bush tuyên bố ủng hộ sự thành hình quốc gia Palestine và đề nghị phiá
Israel gặp Chủ tịch Palestine Yasser Arafat để đàm phán. Ngay lập tức,
Thủ tướng Israel là Sharon liền tố cáo là Bush “tìm cách làm đẹp lòng
Arabs bằng cách bán rẻ chúng ta” và cảnh cáo rằng “Israel sẽ không giống
với Tiệp Khắc” (tried to appease the Arabs at our expense) và (Israrel
will not be Czechoslavia)(Ý Sharon muốn ám chỉ rằng việc Bush nhượng bộ
Arabs và bỏ rơi Israel cũng như trước kia Thủ tướng Neville Chamberlain
đã nhượng bộ Hitler và hy sinh Tiệp). Lời tuyên bố của Sharon, theo
phát ngôn viên White House là “unacceptable” và làm George W.Bush giận
lắm. Nhưng rồi có đến 89 vị Thượng Nghị Sĩ Mỹ đồng ký tên yêu cầu Bush
không nên thương lượng với Yasser Arafat và không nên kiềm chế việc
Israel trả đủa người Palestine, mà nên bày tỏ mạnh mẽ sự hậu thuẩn cho
Israel. (Bức thư của các TNS là kết quả của cuộc họp giữa các lãnh tụ
của Cộng Đồng người Mỹ gốc Do Thái với các Nghị Sĩ chính trong Thượng
Viện). Vậy là Bush đành nuốt giận.
Chưa hết, đến tháng 4 năm 2004 khi quân đội Do Thái (Israel Defense
Force) ào ạt tấn công, chiếm đóng nhiều vị trí ở West Bank của người
Palestine, gây công phẩn dư luận quốc tế, TT Bush vì uy tín của Mỹ, đã
lên tiếng công khai yêu cầu Israel rút quân “halt the incursion and
begin withdrawal without delay”. Thay vì làm theo lời Bush, Israel và
Jews Lobby đã ráo riết vận động Quốc Hội Mỹ ủng hộ cho chính sách của
Israel, vượt qua phản ứng của Hành Pháp. Hạ Viện bỏ phiếu 352/21 và
Thượng Viện 94/2 thông qua Nghị Quyết kêu gọi đoàn kết và cấp thêm 200
triệu dollars cho Israel để chống khủng bố! Người ta chưa thấy Quốc Hội
đạt đưọc sự đồng thuận cao như vậy trong bất kỳ một biểu quyết ngân sách
hay dự luật nào khác. Sau này Cố vấn An Ninh Quốc Gia Brent Scrowcroft
đã nói rằng Thủ Tướng Sharon của Israel “đã nắm được chóp chài của TT
Bush” (Sharon has President Bush wrapped around his finger)!
Một vũ khí khác của AIPAC là đóng góp trong các chiến dịch tranh cử.
Tờ Washington Post đã có lần ước tính rằng các ứng viên đảng Dân Chủ
nhận đến gần 60% tiền vận động tranh cử từ các ủng hộ viên gốc Do Thái.
Chính phủ Bill Clinton và cả bà Hillary Cliton đều nhận sự ủng hộ lớn
lao của AIPAC và các tổ chức pro-Israel khác. Vì vậy, tuy TT Barack
Obama nói nhiều về Thay Đổi (Change), và nhấn mạnh đến mặt trận ngoại
giao, nhưng việc trao Bộ Ngoại Giao cho bà Hillary Clinton làm cho nhiều
người tin rằng chính phủ mới sẽ không có những đổi thay lớn trong chính
sách đối với cuộc tranh chấp Israel-Palestine; một chính sách đã từng
khiến cho một nhà thương thuyết Palestine, trong cuộc hoà đàm tại trại
David năm 2000, than phiền rằng: ”Phải thương thuyết một lúc với hai
phái đoàn Israels: một mang cờ Do Thái và một mang cờ Mỹ” (negotiating
with two Israel teams: one displaying an Israeli flag, and one an
American flag)
ÀNH HƯỞNG LÊN CÔNG LUẬN MỸ:
Ngoài ra người Do Thái còn ảnh hưởng lên dư luận Mỹ thông qua các phương thế sau đây:
1.-Think Tanks:
Các think tanks đóng một vai trò rất quan trọng trong sự định hình
các luồng tư tưởng của công luận cũng như trong việc hoạch định các
chính sách trên thực tế. Think Tanks- nơi quy tụ các học giả, chính
khách, chuyên gia, chiến lược gia, phân tích gia thượng thặng của các
lãnh vực khoa học, kinh tế, chính trị, xã hội – là một sản phẩm đặc
trưng của Mỹ xét cả về quy mô lẩn mức độ ảnh hưởng lên chính quyền và
giới truyền thông. Tại Âu Châu và Á Châu ngày nay tuy cũng có think
tanks, nhưng chẳng qua cũng chỉ là một sự bắt chước theo Mỹ, ở quy mô
khiêm tốn, mà thôi.
Kể từ khi RAND Corporation, think tank đầu tiên, ra đời năm 1946, đến
nay có tổng cộng lớn nhỏ chừng hơn 1,500 think tanks trên toàn nước Mỹ,
trong số đó có chừng 15 think tanks lớn và có ảnh hưởng nhất đặt bản
doanh ở Washington, DC. Những think tanks quen thuộc là : Amerian
Heritage, Brookings Institution, Center for Strategic and International
Studies, Center for Security Policy, Foreign Policy Research Institute,
Jewish Institute for National Security Affairs (JINSA), American
Enterprise Institute, The Heritage Foundation, Cato Institute, The
Carnegie Endownment for International Peace, The Council on Foreign
Relations, Washington Institute for Near East Policy (WINEP), Hudson
Institute, v.v… Trung bình những think tanks này có ngân sách thường
niên chừng 25 triệu dollars trở lên. Trong các think tanks trên thì
WINEP được lập ra năm 1985 do nổ lực của Jewish Lobby. Các think tanks
khác như JINSA, Heritage Foundation, Hudson Institute, The Institute for
Foreign Policty Analysis và Brooking Institution đều chịu ảnh hưởng rất
nặng, hoặc về nhân sự hoặc về tài chánh, hoặc cả hai, của giới vận động
hành lang Do Thái (Jewsish Lobby).
2.- Các trường đại học:
Jewish Lobby cũng tìm nhiều phương cách để gây ảnh hưởng đến những
cuộc thảo luận tại các trường đại học liên quan đến vấn đề Trung Đông và
quốc gia Israel; nổ lực tạo ra những hình ảnh và dư luận tốt đẹp về
Israel, đồng thời tìm mọi cách giảm thiểu những phê bình đối với các
chính sách của nước này. Nhiều nhóm hoạt động, như Caravan for
Democracy, gởi các diễn giả đến các trường đại học lớn giải thích các
chính sách của Israel cho sinh viên Mỹ, tổ chức các sinh hoạt ngoại khoá
tuyên truyền cho Israel. Họ còn tổ chức việc theo dỏi những bài giảng
của các giáo sư để phát hiện sớm, và tìm cách đối phó, những bài có nội
dung bất lợi cho Israel, lập ra những black lists các giáo sư có quan
điểm “chống Israel” rồi vận động sinh viên và phụ huynh lên án hoặc cô
lập hay tẩy chay các giáo sư đó, hay ngay cả vận động để các trường đại
học không mướn những vị giáo sư hay học giả đó. Một ví dụ là trường hợp
học giả Trung Đông nổi tiếng Rashid Khalidi. Khi trường đại học Columbia
mời Ông về giảng dạy, lập tức có hàng ngàn lá thư gởi đến văn phòng
viện trưởng của Trường để phản đối với lý do là ông Khalidi có quan điểm
chính trị không thích hợp. Vài năm sau, đến lượt trường đại học
Princeton cũng gặp tình cảnh tương tự khi trường này định mời ông
Khalidi đến giảng dạy ở trường.
3.-Giới truyền thông: truyền hình, báo chí, nhà xuất bản…
Chính trong lãnh vực truyền thông Mỹ mà ảnh hưởng của Jewish Lobby là
gần như vô tiền, khoáng hậu. Sơ lược sau đây là một số những tổ hợp
truyền thông lớn ở Mỹ, trong đó người Do Thái hoặc làm chủ hoặc nắm
quyền kiểm soát tuyệt đối: Time Warner: Tổ hợp truyền thông lớn nhất
này là sự kết hợp giữa Warner và AOL, có doanh thu hằng năm chừng 50 tỉ
dollars. Warner được người Do Thái lập ra vào thế kỷ trước, trở nên một
trung tâm quyền lực của người Do Thái ở Hollywood. Giám đốc điều hành
(CEO) hiện nay là Gerald Levin, một người Do Thái. Tổ hợp này bao gồm
nhiều hảng phim như Warner Brothers Studio, Castle Rock Entertainment,
New Line Cinema; nhà xuất bản như Time-Life Books, Book of the moth
Club, Little Brown, v.v…; dịch vụ internet như AOL; và cả hệ thống
truyền hình CNN với hàng trăm triệu khán giả. Disney: Tổ hợp truyền
thông khổng lồ thứ hai này có doanh thu hàng năm chừng 35 tỉ dollars,
cũng là của người Do Thái, hiện nay do Michael Eisner làm giám đốc. Tổ
hợp này cũng bao gồm nhiều công ty truyền hình, phát thanh, nhà xuất
bản: hệ thống truyền hình ABC, ESPN, NBA, NFL, A&E, Life Time TV,
Disney Radio Network, Walt Disney Company Book Publishing, Miramax
Books, v.v…
Đáng chú ý nhất là Disney Publishing Worldwide xuất bản sách báo bằng
55 ngôn ngữ khác nhau, đến 74 quốc gia trên khắp thế giới, có hơn trăm
triệu độc giả hàng tháng ! Viacom: Với doanh thu đồng niên chừng 30 tỉ
dollars, Viacom là tổ hợp lớn thứ 3 nằm dưới sự kiểm soát của người Do
Thái, đứng đầu là Sumner Redstone và Melvin Karmazin. Viacom cung cấp
các chương trình truyền hình, sỡ hữu mạng truyền hình CBS với khoảng 39
đài truyền hình, và hàng trăm đài phát thanh khác trên nhiều vùng. Hệ
thống MTV, Country Music Television, và The Nasville Network Cable
Channels cũng thuộc về Viacom. Ngoài ra, kênh truyền hình Fox News
Channel cũng nằm dưới sự kiểm soát của người Do Thái. Cùng với Fox
Television Network, 20 th Century Fox Film và nhà xuất bản Harper
Collins, nó thuộc về tập đoàn News Corporation, chuyên vận động cho các
chủ trương cuả nhóm Tân Bảo Thủ (neoconservatives) trong chính phủ của
TT Bush, đứng đằng sau các nổ lực tuyên truyền cho cuộc chiến Iraq. Tờ
The Weekly Standard với cây bút nổi tiếng William Kristol cũng thuộc về
News Corporation và nằm trong tầm tay điều khiển của người Do Thái.
Như vậy, về mặt truyền thông, người Do Thái ở Mỹ đã trực tiếp nắm
trong tay nhiều cơ sở quan trọng, có mức độ ảnh hưởng vô cùng lớn lao
lên công luận Mỹ. Những nhận định sau đây trong một bài nghiên cứu của
nhóm National Vanguard Books có thể ít nhiều nói lên tầm mức của những
ảnh hưởng như vậy: “Không có một quyền lực nào trong thế giới ngày nay
lớn hơn quyền lực đạt được bởi những người uốn nắn công luận Mỹ. Chưa hề
có một ông vua, một vị giáo hoàng thời xưa, một ông tướng bách chiến
hay một vị giáo chủ nào đã từng hành xử một quyền lực sánh được với
quyền lực của chừng vài chục người đang kiểm soát các phương tiện giải
trí và truyền thông đại chúng của Mỹ”. (There is no greater power in the
world today than that wielded by the manupulators of public opinion in
America. No king or pope of old, no conquering general, or high priest
ever disposed of a power even remotely approaching that of the few dozen
men who control Amerca’s mass media of news and entertainment) .
Truyền thông vận dụng nhiều phương cách để nhào nặn (manipulating) dư
luận một cách tinh vi và thấu đáo. Trước hết là cách quản lý việc đưa
tin. Chỉ nội một việc sắp xếp cách thức tin tức được đưa ra, thời điểm
và khung cảnh đưa tin, thời lượng cho từng phần tin, giọng điệu khi đọc
tin, hình tượng đi kèm theo tin, cách thức đối chiếu các bản tin, từ
ngữ xữ dụng, cách chạy các hàng tít, v.v…Rồi còn những chọn lựa dựa theo
bối cảnh văn hóa, chủng tộc, lịch sử, tôn giáo và đặc điểm tâm lý của
từng bộ phận độc, khán, thính gỉa, để rồi từ đó có phương cách phổ biến
tin tức cho phù hợp. Chẳng hạn, cách mà báo chí Tây phương, nhất lả báo
chí Mỹ, miêu tả về hành động của hai bên Israel-Palestine. Bất kỳ khi
nào Isarel có một hoạt động nào đó đối với người Palestine, hoặc là dùng
phi cơ ném bom, hay xua chiến xa tấn công vào các vùng của người
Palestine, giết hại hàng chục, hàng trăm thường dân, kể cả đàn bà trẻ em
thì báo chí, truyền hình Mỹ gọi đó là các hoạt động quân sự (MILITARY
MISSIONS). Nhưng nếu phía người Palestine trả đủa, bất kỳ là bằng cách
nào, kể cả bằng dùng giàng thung bắn đá hay mang bom tự sát, gây thương
vong cho thường dân hay chiến sĩ Israel, thì báo chí và truyền hình Mỹ
đều gọi các việc làm đó là hành động khủng bố (TERRORIST ACTIONS).
Dư luận Mỹ, và cả của người Việt, không mấy ai thắc mắc về sự khác
biệt trong cách dùng từ ngữ như vậy của giới truyền thông Mỹ đối với hai
bên Israel-Palestine. Người ta mặc nhiên chấp nhận, và chính sự mặc
nhiên chấp nhận đó là kết quả của sự nhào nặn công luận, một cách tinh
vi, của các phương tiện truyền thông Do Thái-Mỹ. Vì về mặt tâm lý, một
cách vô thức, người nghe sẽ có những phản ứng tình cảm khác nhau đối với
mỗi từ: hoặc là trung lập, kính nể hoặc là thiện cảm đối với từ
MILITARY; ngược lại sẽ khinh chê hoặc căm ghét đối với từ TERRORIST.
Một ví dụ khác về cách chọn từ ngữ của giới truyền thông Do Thái -Mỹ là
chữ CONFLICT. Báo chí và truyền hình Mỹ qua hàng mấy chục năm nay luôn
dùng từ ngữ này khi nói đến sự thù địch giữa Israel-Palestine. Nhưng
nhiều học giả cho rằng chữ CONFLICT bao hàm ý rằng hai bên liên hệ,
trong sự tranh chấp hay xung đột, có mức độ bình đẳng (EQUALITY) về tư
thế và về lực lượng; và không nên lẩn lộn giữa CONFLICT với ANNEXATION,
INVASION, hay OCCUPATION. Trong hàng mấy chục năm qua, sự thật cho thấy
người Israelis đã INVADED (xâm chiếm), ANNEXED (sáp nhập) và OCCUPIED
(chiếm đóng) đất đai của người Palestine, chứ không phải là tranh chấp
CONFLICTED giữa hai quốc gia bình đẳng về mặt quốc tế công pháp. Việc
lập đi lập lại từ CONFLICT là có thâm ý che lấp sự chênh lệch quá xa lực
lượng của hai bên và tính chất chủ động xâm lăng của người Do Thái.
Ngoài việc quản lý tin tức (news management), mặt thứ hai cũng hết
sức quan trọng trong việc uốn nắn dư luận vào một hướng định trước là
việc giải thích và bình luận tin tức của các nhà bình luận, chuyên gia,
trí thức, học giả, v.v… Về mặt này, người Do Thái, cùng với khả năng
khống chế lớn lao các phương tiện thông tin, là khả năng tài chánh để
thuê mướn các chuyên gia, nhà bình luận, học giả, biên tập viên, ký giả,
v.v… nhằm mớm vào trí óc dân Mỹ những cách giải thích và bình luận tạo
nên những hình ảnh tốt đẹp về Israel. Người Palestine hầu như không có
lấy một diễn đàn hay một cơ hội để lên tiếng trước công luận Mỹ; nhưng
người Do Thái lại chiếm vai trò độc tôn trong công việc giải thích và
bình luận tin tức liên quan đến cuộc xung đột Israel-Palestine. Nói đúng
hơn là người Do Thái độc quyền trong việc giải thích mọi vấn đề của
cuộc xung đột, uốn nắn dư luận theo chiều hướng thuận lợi nhất cho phiá
họ.
HIỆN TRẠNG NGƯỜI PALESTINE
Ngay khi Liên Hiệp Quốc phân chia vùng Palestine, trao phần lớn đất
đai cho người Israelis lập quốc, số dân Palestinians phải dồn vào hai
vùng West Bank và Gaza, một số lớn khác bị người Israel xua đuổi, chạy
qua tịn nạn ở các quốc gia kế cận. Đó là đợt những người Palestinians
tị nạn đầu tiên.
BẢN ĐÔ 2: ISRAEL SÁP NHẤP JERUSALEM VÀ LẤN DẦN CÁC VÙNG KHÁC Ở WEST BANK.
Sau cuộc chiến 6 ngày năm 1967, Israel chiếm cao nguyên Goland của
Syria, bán đảo Sinai của Egypt, vùng West Bank và Gaza, hàng triệu người
Palestine lại đã phải bỏ quê nhà trốn chạy lần nữa, tị nạn sang các
nước như Jordan, Syria, Lebanon, Egypt, v.v…
Hiện nay tổng số người Palestinians tị nạn lên đến chừng 3 triệu
người: nhiều nhất là ở Jordan (1.8 triệu), Syria và Lebanon mỗi nơi
khoảng ½ triệu. Ở West Bank hiện có khoảng 2,345,000 người Palestinians,
trên diện tích khoảng 5,860km vuông; và ở Gaza chừng gần 1.5 triệu
người trên một diện tích chừng chỉ hơn 360km vuông. Có chừng hơn 1.3
triệu người Palestinians ở lại trong phạm vi lãnh thổ của người Israel
trước 1967.
Từ năm 1967 cho đến nay, Israel đã lần lượt trả lại bán đảo Sinai cho
Egypt và cao nguyên Goland cho Syria, nhưng đã không chịu trao trả West
Bank và Gaza cho người Palestine. Trái lại, họ đã lần lượt đưa người Do
Thái đến chiếm đất lập thành những khu định cư trong hai vùng đất đó.
Những vùng gần nguồn nưóc, những vùng đất màu mỡ và trồng trọt được ở
West Bank đều lần lượt rơi vào tay người định cư Do Thái. Những người
định cư này được vũ trang đầy đủ, trong tình trạng “động vi binh, tĩnh
vi dân”. Bên ngoài các khu vực định cư này là các vành đai quân sự của
quân đội Do Thái (Israel Defense Force, IDF) với những Check Points để
kiểm soát sự đi lại của người Palestinians. Người định cư và lính Do
Thái còn tìm nhiều phương cách sách nhiểu làm cho người Palestinians
phải nản lòng và tự rời xa các khu định cư của người Do Thái.
Những việc làm đó của Israel đã gây ra những biến dạng lớn trên bản
đồ Israel-Palestine từ năm 1948 đến nay. Chẳng hạn vào năm 1948 bản đồ
phân chia Palestine của Liên Hiệp Quốc qui định thành phố Jerusalem, do
tính cách lịch sử của nó, là địa điểm quốc tế (xem Bản Đồ 1). Nhưng
những năm sau này Israel đã chiếm đóng và sáp nhập Jerusalem vào lãnh
thổ của mình (Xem Bản Đồ 2).
Những năm gần đây khi giải pháp Hai Quốc Gia được đưa ra, một số tổ
chức quốc tế đã giúp Palestine National Authrority làm một số thống kê.
Số liệu tháng 12 năm 2007 cho thấy dân số của quốc gia Palestine, đã
được 96 quốc gia trên thế giới chính thức thừa nhận, là 3,770,000 người.
Diện tích của quốc gia Palestine này chỉ chừng 6,020km vuông, gồm trong
hai vùng chính là West Bank và Gaza. Trong thời gian chiếm đóng West
Bank, chính phủ Israel đã lập ra một mạng lưới các xa lộ để nối các khu
định cư người Do Thái lại với nhau, và trên mạng xa lộ đó, người
Palestinians không được xử dụng và cũng không được đến gần. Thời gian
gần đây, người Do Thái còn xây tường (security fence) bao bọc, che chắn
cho các khu định cư Do Thái ở West Bank, có chỗ tường cao 10 m. Tại
nhiều nơi các bức tường này cắt ngay vào chính giữa những tu viện Kitô
Giáo đã có lịch sử trong cả ngàn năm rồi! Một vài con số nói lên tình
trạng định cư của ngưòi Do Thái ở West Bank: 8,000 người định cư Do Thái
chiếm 40% đất canh tác được và 50% nguồn nước, với sự bảo vệ của 12,000
quân sĩ Do Thái. Trong lúc chừng 1.3 triệu người Palestinians chiếm 60%
đất khô cằn còn lại và không một ai bảo vệ họ cả!
Các cuộc hoà đàm Camp David, Oslo, và nổ lực đàm phán của Liên Hiệp
Quốc với Geneva Initiative tuy có đưa ra giải pháp HAI QUỐC GIA:
Israel-Palestine, cũng như nhiều đề nghị hoà bình khác; nhưng cho đến
nay vẫn chưa đem lại được một nền hoà bình thật sự cho người
Palestinians. Chính phủ Israel nhượng bộ rất ít. Chẳng hạn, trước đây họ
thừa nhận Phong Trào Giải Phóng Palestine (PLO) là đại diện của người
Palestìnians, sau này họ thừa nhận Palestine National Authority. Phía Do
Thái cũng đồng ý trao lại một số quyền hạn về cảnh sát, giáo dục cho
người Palestine trong hai vùng Gaza và West Bank. Tuy nhiên, đó chỉ là
những nhượng bộ tượng trưng nhằm mục đích tuyên truyền. Trên thực tế,
người Palestinians tại hai vùng đó hoàn toàn không có một quyền hạn tự
trị nào về kinh tế, thương mãi, thuế khoá hay chính trị trên lãnh thổ
của họ. Các công, nông sản của người Palestinians ở West Bank và Gaza
không được bán vào lãnh thổ của Israel vì người Do Thái sợ bị cạnh
tranh. Những người công nhân Palestinians hàng ngày vào làm việc trong
các hảng xưởng trên lãnh thổ của Israel phải trãi qua nhiều thủ tục xét
hỏi rất rắc rối về an ninh. Quyền thu thuế ở hai vùng vẫn nằm trong tay
người Do Thái. Các dịch vụ Y tế, Bưu Điện đều hoàn toàn do chính phủ Do
Thái kiểm soát.
Ngay cả cơ quan Palestine National Authority của người Palestinians
vẫn phải chịu sự chi phối về tài chánh của chính phủ Israel. Cựu TT
Jimmy Carter, khi được mời quan sát về các cuộc bầu cử của người
Palestinians ở vùng West Bank, đã kể lại một trường hợp ở Đông
Jerusalem, trong vùng West Bank, taị địa điểm đầu phiếu, nhân viên bưu
điện Do Thái có một danh sách cử tri Palestinians riêng, và những người
Palesinian nào không có tên trong danh sách đó thì nhân viên bưu điện Do
Thái không cho vào bỏ phiếu. Kết quả chỉ tại địa điểm đầu phiếu đó
thôi, đã có hơn 3,000 cử tri Palestinians bị loại. Cuối cùng đích thân
Jimmy Carter phải can thiệp với thủ tướng Israel mới giải quyết được!
Điều đáng chú ý ở đây là trong lúc truyền thông Mỹ không ngớt làm ầm ỷ
về các cuộc bầu cử ở Iraq, nhưng lại không bao giờ có một tường trình
đầy đủ nào về ý thức dân chủ của người Palestinians và các cuộc bầu
phiếu của họ trong tình cảnh bị chiếm đóng ở hai vùng West Bank và Gaza.
Cựu TT George W. Bush luôn đề cao việc truyền bá Dân Chủ qua Trung
Đông, nhưng chính bản thân chính phủ của Ông lại không ngừng tiếp tay
cho chính phủ Israel để tìm cách bóp chết tiếng nói nhân quyền và dân
chủ của người Palestinians trong các cuộc bầu cử cơ quan Palestinian
National Council của họ!
Giáo sư Ilan Pappe của trường đại học Haifa, một nhà sử học Do Thái,
đã gọi chính sách của Israel đối với người Palestinians là chính sách
diệt chủng (Ethnic Cleasing of Palestine). Năm ngoái Ông đã xuất bản
quyển sách với nhan đề như vậy, trong đó Ông tóm tắt lịch sử của chủ
nghĩa quốc gia Do Thái Zionism, thực chất các chính sách của chính phủ
Israel và sự dối trá của chính phủ đó đối với giải pháp Hai Quốc Gia:
Israel-Palestine. Theo Giáo sư Pappe thì thực chất của chính sách Israel
đối với người Palestinians là sự thực dân và diệt chủng (colonialism
and ethnic cleasing); chính phủ Israel đã biến Gaza và West Bank thành
hai nhà tù khổng lồ, trong đó Palestinians là tù nhân. Chủ trương căn
bản của Zionism bao gồm hai khía cạnh chính: Điạ lý và Dân số (Geography
and Demography); về địa lý, Zionists muốn thâu tóm toàn bộ vùng
Palestine; về Dân số, họ muốn người Jews chiếm đa số tuyệt đối, số người
Palestinians phải giảm xuống mức tối thiểu, càng ít càng tốt !
Với một chủ trương như vậy, người Do Thái không bao giờ thực lòng
chấp nhận giải pháp Hai Quốc Gia Israel-Palestine bình đẳng như nhiều
người mong đợi. Chính phủ Israel đã tìm cách gây ly-gián nội bộ người
Palestinians, giữa đảng Fatah có chủ trương ôn hoà của Mahmoud Abbas và
nhóm Hamas cực đoan của Bác sĩ Mahmoud Ramahi. Khởi đầu, chính phủ
Israel không chịu thừa nhận Phong Trào Giải Phóng Palestine (PLO) và chủ
tịch Yasser Arafat. Đến khi PLO và Yasser Arafat được thế giới và Mỹ
thừa nhận thì Israel lại nại nhiều cớ khác để không đàm phán với Arafat.
Khi Yasser Arafat chết năm 2004, Mahmoud Abbas lên thay, là một người
rất ôn hoà, sẳn lòng thương lượng cho một giải pháp hoà bình, thì chính
phủ Israel lại tìm cách gây ra nhiều khó khăn cho Abbas, khiến ông này
không làm việc được, mất dần uy tín chính trị với dân chúng; ngược lại
tạo ra những điều kiện thuận lợi cho nhóm cực đoan Hamas gia tăng uy thế
của mình, lấn át Mahmoud Abbas. Nhưng khi Hamas mạnh lên và có hành
động cứng rắn thì Israel lại vin vào cớ đó để phản ứng mạnh hơn bằng
các biện pháp quân sự. Việc mới đây Hamas bắn rockets vào lãnh thổ
Israel và sau đó quân đội Do Thái IDF, để trả đủa, trong 3 tuần lễ liên
tiếp đã dùng phản lực cơ ném bom, rồi dùng chiến xa và bộ binh tấn công
vào Gaza giết hơn 1,500 người Palestinians và hơn 3,500 người khác bị
thương, trong đó đa số là dân thường, đàn bà và trẻ em; 1.5 triệu người
khác phải sống không điện và nước uống trong cả tháng trời.
Cho đến nay, các nổ lực trung gian hoà giải của Egypt và Cộng Đồng Âu
Châu vẫn chưa mang lại được kết quả gì khả quan, quân đội Israel vẫn
tiếp tục phong toả Gaza, tiếp tục oanh kích những nơi bị nghi ngờ là
đường hầm vận chuyển hoả tiển từ Egypt qua, và hàng trăm ngàn người
Palestinians vẫn phải chịu đựng cảnh màn trời chiếu đất, thiếu thốn cả
thuốc men, lẫn lương thực. Tình cảnh này dường như phù hợp với nhận định
của cựu TT Mỹ Jimmy Carter và của nhà sử học Ilan Pappe về âm mưu kỳ
thị và diệt chủng của chính phủ Israel đối với người Palestinians.
KẾT LUẬN:
Sự tuyên truyền, giải thích tin tức về cuộc xung đột
Israel-Palestine, trong một thời gian dài, đã gây ra nhiều hiểu biết
lệch lạc, phiến diện trong dư luận do nổ lực vận động hành lang của
chính phủ Israel và người Mỹ gốc Do Thái. Đã đến lúc giới truyền thông
cần phải tái lập lại truyền thống thông tin trung thực và khách quan vốn
có của mình, thoát ra khỏi cái “gông” Jewish Lobby, phơi bày sự thật
của cuộc xung đột để mọi người công dân Mỹ nhận chân được thực trạng, và
rồi từ đó đòi hỏi Quốc Hội và Chính phủ có những chánh sách phù hợp với
quyền lợi thật sự của đất nước này hơn trong tình thế chiến lược mới.
Mặt khác, lịch sử xung đột Israel-Palestine cho thấy rằng trong chính
trị nói chung, và chính trị quốc tế nói riêng, không có chỗ cho vấn đề
đạo đức hay lương tâm. Trong chính trị quốc tế, đạo đức là đạo đức của
kẻ mạnh, của kẻ thắng trận, của kết quả sau cùng. Quan niệm cho rằng
CHÍNH TRỊ là ”sửa sang mọi sự lại cho ngay thẳng”, theo kiểu Á Đông xưa,
hoàn toàn không phù hợp với chính trị quốc tế hiện đại; một sân khấu
chính trị trong đó mỗi dân tộc vì chính mình trước tiên, và điều căn bản
nhất là phải mạnh lên để bảo vệ quyền lợi của mình. Mục tiêu trên hết
của chính trị quốc tế là QUYỀN LỰC, chứ không phải là Ý THỨC HỆ. Người
Israelis hay người Palestinians tranh đấu, trước hết và trên hết, cho sự
TỒN TẠI, cho sự sống còn, và đó là một cuộc đấu tranh sinh tồn tàn
bạo chịu sự chi phối của luật đào thải; họ không chiến đấu cho TƯ BẢN
hay cho CỘNG SẢN, chỉ chiến đấu cho chính sự TỒN TẠI. Điều đó có nghĩa
rằng nếu có ý thức hệ thì chỉ có một ý thức hệ duy nhất; đó là SỰ SỐNG
CÒN CỦA TỔ QUỐC. Người Việt chúng ta cần suy ngẫm về điều này trong mối
liên tưởng về mối-hoạ-truyền-kiếp-Trung-Hoa đang tái hiện.
Sự vận dụng quan hệ ngoại giao Israel-Mỹ cuả người Do Thái là một
điều khác đáng cho chúng ta so sánh. Quan hệ Mỹ-Việt trước đây trong
khoảng thời gian từ 1954-1975 có những nét tương tự, nhưng về mặt vận
dụng mối quan hệ đó cho quyền lợi của mình thì người Việt Nam thua kém
xa người Do Thái. Căn bản của sự khác biệt đó bắt nguồn từ ý thức Quốc
Gia-Dân Tộc. Người Do Thái và các lãnh tụ của phong trào Zionism có ý
thức rất vững vàng và mạnh mẽ về quốc gia-dân tộc của mình, nguyện vọng
xây dựng lại một nước Israel theo khuôn mẫu của vương quốc Judea thấm
sâu trong lòng mỗi người Do Thái. Chính nhờ ý thức quốc gia-dân tộc mạnh
mẽ và sâu xa đó, cộng với sự đoàn kết xây dựng trên nền tảng huyết hệ
và tôn giáo bản xứ đồng nhất- Judaism- mà người Do Thái đã giữ được tinh
thần độc lập của mình, biết tận dụng mối quan hệ đặc biệt với Mỹ để
phục vụ cho quyền lợi của đất nước và dân tộc họ.
Cách tổ chức và khả năng vận động hành lang (lobby) của người Do Thái
ở Mỹ cũng là một điều đáng được nghiền ngẩm bởi tất cả những người Việt
gốc Mỹ nào còn ưu tư về tương lai của Dân Tộc và Quê Hương, còn mong
muốn chính trị của quê hương thứ hai mang đến những tác động tích cực
cho quê hương đầu tiên. Ngoài tài tổ chức ra, trong lãnh vực này người
Do Thái cũng không để cho các chính khách Mỹ lợi dụng họ; trái lại người
Mỹ gốc Do Thái đã biết khai thác tối đa cơ cấu chính trị của nước cư
trú để phục vụ cho quyền lợi tối thượng của quốc gia Israel. Sự nhạy bén
chính trị cũng như nhiệt tình và sự đòan kết của cử tri Mỹ gốc Do Thái
thật là tuyệt vời và đáng cho chúng ta khâm phục.
SUNNYVALE, NGÀY 15 THÁNG 2 NĂM 2009
THƯ MỤC THAM KHẢO:
- www.mideastweb.org/briefhistory.htm.
- http://qesdb.cdie.org/gbk on Nov.2005.
- Avner Cohen, Israel and the Bomb, Columbia University Press, 1999.
= Jimmy Carter, Palestine Peace not Apartheid, 2006.
- John J. Mearsheimer, The Israel Lobby and US Foreign policy, March 2006.
- Amnesty International Press Release, July 22, 2004.
- http://www.unhcr.org/refworld/pdfid/48e5e2be2.pdf.
- Francois Massoulie, Middle East Conflicts, Interlink Book, 1999.
- www.cato.org/pub_display.php?pub_id=1019&full_1.
- www.cato.org/pub_display.php?pub_id=1019&full_1.
- William Engdahl, A century of war, Pluto Press 2004, p.216.
- J. Mearsheimer, The Israel Lobby and US Foreign policy, March 2006
- John J. Mearsheimer, The Israel Lobby and US Foreign policy, March 2006
- Stefan Halper and Jonathan Clarke, The silence of the rational center, Basic Book 2007
- National Vanguard Books’ research: Who rules America?, 2004
- Jimmy Carter, Palestine Peace not Apartheid, 2006, p.168.
- Jimmy Carter, Palestine Peace not Apartheid, 2006, p.171.
- http://socioecohistory.wordpress.com/2009/01/19/history-of-zionism-ethnic-cleansing-of-palestine/.
- www.mideastweb.org/briefhistory.htm.
- http://qesdb.cdie.org/gbk on Nov.2005.
- Avner Cohen, Israel and the Bomb, Columbia University Press, 1999.
= Jimmy Carter, Palestine Peace not Apartheid, 2006.
- John J. Mearsheimer, The Israel Lobby and US Foreign policy, March 2006.
- Amnesty International Press Release, July 22, 2004.
- http://www.unhcr.org/refworld/pdfid/48e5e2be2.pdf.
- Francois Massoulie, Middle East Conflicts, Interlink Book, 1999.
- www.cato.org/pub_display.php?pub_id=1019&full_1.
- www.cato.org/pub_display.php?pub_id=1019&full_1.
- William Engdahl, A century of war, Pluto Press 2004, p.216.
- J. Mearsheimer, The Israel Lobby and US Foreign policy, March 2006
- John J. Mearsheimer, The Israel Lobby and US Foreign policy, March 2006
- Stefan Halper and Jonathan Clarke, The silence of the rational center, Basic Book 2007
- National Vanguard Books’ research: Who rules America?, 2004
- Jimmy Carter, Palestine Peace not Apartheid, 2006, p.168.
- Jimmy Carter, Palestine Peace not Apartheid, 2006, p.171.
- http://socioecohistory.wordpress.com/2009/01/19/history-of-zionism-ethnic-cleansing-of-palestine/.