Phần 1
Những
điều chỉnh trong chiến lược của Trung Quốc đối với Biển Đông đã có
những thay đổi rõ rệt. Điều này dựa trên mối liên hệ giữa chính sách
Biển Đông của Trung Quốc với những diễn biến mới trong bối cảnh quốc tế,
chính trị nội bộ của Trung Quốc, đặc biệt là gắn nó với chiến lược an
ninh - đối ngoại của Bắc Kinh hiện nay. Do đó chiến lược “giấu mình chờ thời” hay “ ngoại giao hài hòa”nhường chỗ cho chiến lược an ninh và đối ngoại mang tính khẳng định hơn, chủ động và hiếu chiến hơn nhằm gây sức ép với các nước tranh chấp trong khu vực.
Để
hiểu được động cơ đằng sau những thay đổi trong cách hành xử của Trung
Quốc ở Biển Đông, cần phải đặt chính sách Biển Đông của Trung Quốc trong
mối liên hệ với những diễn biến mới trong bối cảnh quốc tế, chính trị
nội bộ của Trung Quốc, đặc biệt là gắn nó với chiến lược an ninh - đối
ngoại của Bắc Kinh hiện nay. Có thể nhận định, điều chỉnh chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông nằm trong thay đổi chiến lược an ninh và đối ngoại của Bắc Kinh trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều nhân tố mới.
Thay đổi cơ bản nhất trong môi trường chiến lược quốc tế là
việc sức mạnh tổng hợp của Trung Quốc tăng mạnh làm cho khoảng cách
kinh tế, quân sự, và quốc phòng giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng thu hẹp,
cho cán cân quyền lực kinh tế và quân sự chuyển dịch theo hướng có lợi
cho Trung Quốc. Trung Quốc vươn lên mạnh mẽ vượt Đức và Nhật, trở thành
nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới trong lúc Mỹ suy yếu tương đối sau
cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế, gặp khó khăn cả bên trong và bên
ngoài. Một phần nguồn lực kinh tế được đầu tư để hiện đại hóa quốc
phòng, đặc biệt là hải quân. Đô đốc Mike Mullen, Chủ tịch Hội đồng Tham
mưu trưởng liên quân Mỹ, nhận định rằng ý đồ chiến lược đằng sau sự phát
triển các khả năng quân sự mới của Trung Quốc dường như tập trung vào
lực lượng hải quân Mỹ và căn cứ quân sự của Mỹ ở khu vực này của thế giới[1].
Thực
lực kinh tế hùng mạnh, đặc biệt là kho dự trữ ngoại hối to lớn và vị
thế hàng đầu trong nền thương mại quốc tế cho phép Trung Quốc có khả
năng tác động mạnh đến kinh tế thế giới, không những thoát khỏi thế phụ
thuộc vào Mỹ để phát triển mà còn đưa siêu cường này vào một tình thế
“phụ thuộc sống còn về kinh tế” [mutually economic destruction][2]. Đó
là lý do tại sao, Trung Quốc ngày càng tỏ ra tự tin, ngạo mạn, không
còn “giấu mình chờ thời”, mà chủ động phô diễn sức mạnh về quân sự và
sẵn sàng nói không với Mỹ trên nhiều vấn đề. Trung Quốc tận dụng mọi cơ
hội để thay đổi luật chơi, gạt bỏ vai trò chủ đạo của Mỹ. Hiện nay,
Trung Quốc là một đầu tàu kinh tế, là một bên chủ yếu nắm giữ chìa khóa
đối với nhiều vấn đề chính trị tại khu vực và đang muốn chứng tỏ vai trò
là cường quốc quân sự châu Á duy nhất tại Đông Á, thách thức vai trò
siêu cường của Mỹ ở khu vực.
Lợi
dụng việc Mỹ sa lầy trong cuộc chiến ở Áp-ga-ni-xtan và I-rắc, bối rối
trong cách ứng phó với CHDCND Triều Tiên và I-ran, bận rộn xử lý vấn đề
I-xra-en và Pa-le-xtin, Trung Quốc tìm cách từng bước lấn lướt Mỹ ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương. Từ 2002 đến 2007, Trung Quốc phát huy ảnh
hưởng đối với các nước Đông Nam Á qua các cơ chế ASEAN+1, ASEAN+3, Cấp
cao Đông Á, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO)… để đối trọng với hệ thống
an ninh “trục và nan hoa” của Mỹ. Tháng 3/2003, Trung Quốc tham gia Hiệp
ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) và cùng với ASEAN thông qua Tuyên bố
chung về Đối tác chiến lược ASEAN-Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc
cũng đẩy mạnh ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á thông qua các kênh song
phương. Tháng 4/2005, Trung Quốc và In-đô-nê-xi-a ký tuyên bố chung về
xây dựng quan hệ đối tác chiến lược. Tháng 4/2006, Trung Quốc và
Cam-pu-chia thông qua Chương trình Đối tác Hợp tác Toàn diện. Tháng
5/2007, Trung Quốc và Thái Lan ký Chương trình Hành động cho Hợp tác
Chiến lược. Ngoài ra, còn có một loạt các thỏa thuận hợp tác an ninh
song phương giữa Trung Quốc với Ma-lai-xi-a, Việt Nam, Bru-nây,
Xinh-ga-po, Phi-lip-pin và Lào. Từ 2002 đến 2008, Trung Quốc và 10 nước
ASEAN trao đổi 124 đoàn quan chức quốc phòng cao cấp cùng với các hoạt
động tham vấn thường xuyên với 10 nước này[3]. Bằng
cách đó, Trung Quốc đã nâng cao vai trò và vị thế của mình ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương một cách tương đối so với vai trò và vị thế của
Mỹ và Nhật Bản.
Ở trong nước,
chính quyền Bắc Kinh ngày càng phải đối mặt với nhiều thách thức trong
việc thực hiện hai mục tiêu cơ bản xuyên suốt của mình là (i) duy trì ổn
định chính trị và phát triển kinh tế, cơ sở cho tính chính đáng của
Đảng Cộng sản, và (ii) ngăn chặn các làn sóng bạo loạn, ly khai trong
các cộng đồng sắc tộc thiểu số ở các vùng biên cương. Quá trình đổi mới
kinh tế mà không đổi mới chính trị buộc các nhà lãnh đạo thực dụng của
Trung Quốc phải tìm kiếm các cơ sở chính đáng mới ở chủ nghĩa dân tộc. Thứ nhất,
Đảng Cộng sản Trung Quốc thể hiện họ lãnh đạo dân tộc để bảo vệ độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc, từ Tây Tạng, Tân
Cương đến Đài Loan và Biển Đông.
Bên cạnh đó, con bài chủ nghĩa dân tộc đã được sử dụng tương đối thành
công khi Trung Quốc phải đối mặt với các thế lực thù địch từ bên ngoài,
ví dụ như trong việc Bắc Kinh phản đối Mỹ và Phương Tây trong các vấn đề
dân chủ, nhân quyền, can thiệp vào các vấn đề Tây Tạng, Tân Cương và
Đài Loan, bảo vệ hình ảnh của Trung Quốc trong Thế vận hội Olympic 2008,
và gần đây nhất là bảo vệ tàu và ngư dân Trung Quốc bị Nhật Bản bắt[4]. Đáng
chú ý, một học giả Mỹ phát hiện ra một thực tế rằng các phương tiện
thông tin đại chúng của Trung Quốc đưa tin nhanh và tuyên truyền rộng
rãi, mạnh mẽ về vấn đề tranh chấp biển đảo, trong khi đưa tin mờ nhạt về
các tranh chấp biên giới trên bộ, và nhận định đó có thể là một sách
lược để nuôi dưỡng tinh thần dân tộc và lấy đó là cơ sở để duy trì tính
chính đáng của chính quyền cộng sản. Thứ hai, tính chính đáng của
Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng dựa trên việc trợ giúp các doanh nghiệp
của Trung Quốc tiếp cận các nguồn tài nguyên chiến lược. Từ
đầu thế kỷ 21 đến nay, để thỏa mãn một đại công xưởng tăng trưởng mạnh
mẽ và không ngừng, Trung Quốc cần một lượng tài nguyên khổng lồ. Chính
quyền cộng sản sử dụng triệt để các công cụ chính trị và kinh tế để hỗ
trợ cho các doanh nghiệp của Trung Quốc vươn ra mạnh mẽ để giành quyền
tiếp cận các nguồn tài nguyên chiến lược, từ Mỹ La-tinh đến châu Phi,
Trung Đông và các khu vực xung quanh Trung Quốc. Chính vì thế, Trung
Quốc gạt Mỹ và phương Tây ra khỏi Xu-đăng và nhiều nước châu Phi và Mỹ
La-tinh khác để giành được các hợp đồng khai thác tài nguyên thô. Trong
bối cảnh đó, nguồn tài nguyên ở Biển Đông, cả dầu mỏ và nguồn cá (đã
được báo chí Trung Quốc thổi phồng) là một “miếng mồi” không thể bỏ
qua. Thứ ba, chính sách đối ngoại của Bắc Kinh cũng chịu sự ảnh
hưởng của cạnh tranh giữa các lực lượng, phe phái chính trị trong nội bộ
Trung Quốc.
Chính
sách đối với Biển Đông của Trung Quốc cần được xem xét trong tổng thể
chiến lược an ninh và phát triển của nước này nhằm vươn lên thành một
cường quốc toàn cầu. Chứng kiến sự vươn ra mạnh mẽ của Trung Quốc, một
học giả nhận xét rằng “sự
bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông chỉ là một phần của kế hoạch
bành trướng tổng thể, bao gồm “bành trướng cứng” như bành trướng trên
biển, trên đất liền, và bành trướng mềm như tăng cường hiện diện ở tất
cả các nơi có tiềm năng lợi ích về tài nguyên, dầu mỏ, địa chính trị,
v.v... cho Trung Quốc”[5].
Mong
muốn trở thành cường quốc toàn cầu của Trung Quốc đã bộc lộ từ thời Mao
Trạch Đông, khi Bắc Kinh tự coi mình là lãnh tụ của các nước thế giới
thứ ba trong cuộc đấu tranh với hai siêu cường và các nước công nghiệp
phát triển. Định hướng chiến lược này, tuy nâng Trung Quốc lên hàng một
cường quốc trung gian giữa Mỹ và Liên Xô, nhưng lại không thể giúp Trung
Quốc có được nguồn vốn và công nghệ cần thiết để phát triển kinh tế.
Dưới thời Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc chuyển sang mục tiêu chiến lược
“bốn hiện đại hóa”, đồng thời áp dụng phương châm “giấu mình chờ thời”.
Ước vọng toàn cầu được giấu đi, kìm nén, không được cụ thể hóa, chỉ nói
chung chung là phấn đấu cho một trật tự thế giới công bằng, dân chủ và
“đa cực hóa”. Sau một phần tư thế kỷ “cải cách khai phóng”, Trung Quốc
đã từ một nước nghèo nàn lạc hậu vươn lên thành một nước công nghiệp hóa
mới, trở thành một đầu tàu tăng trưởng của thế giới, với tổng sản phẩm
xã hội đứng thứ 4 thế giới (2006) và một viễn cảnh sẽ vươn lên dẫn đầu
thế giới sau nửa thế kỷ tiếp theo. Những điều này một mặt khiến nhiều
nước, nhất là Mỹ, lo ngại Trung Quốc là đối thủ tiềm tàng của họ, mặt
khác cũng khiến bản thân Trung Quốc khó lòng kiềm chế trong việc bày tỏ
tham vọng. Một biểu hiện của việc thiếu kiềm chế là Trung Quốc cố sức tự
đưa người vào vũ trụ trong khi thu nhập quốc dân đầu người vẫn còn ở
mức nghèo (hơn 1000 đôla), một việc làm mà nhiều nước phát triển cao có
khả năng cũng không đầu tư vì nặng tính khoa trương nhiều hơn là hiệu
quả kinh tế. Cũng trong giai đoạn này, Trung Quốc đưa ra thuyết “trỗi
dậy hòa bình” nhằm biện minh cho sự vươn lên vị thế một cường quốc thế
giới. Khái niệm này sau một thời gian thử nghiệm đã được thay thế bằng
cụm từ nhẹ nhàng hơn là “phát triển hòa bình”. Dù Trung Quốc đã hết sức
cẩn trọng trong ngôn từ, người ta vẫn nhận thấy, dù không dễ dàng, tham
vọng toàn cầu của Trung Quốc[6].
Từ
năm 2007 đến nay, chiến lược “giấu mình chờ thời” hay “ngoại giao hài
hòa” nhường chỗ cho chiến lược an ninh và đối ngoại mang tính khẳng định
hơn, chủ động và quyết liệt hơn. Về an ninh, nội dung cốt lõi của chiến
lược này là xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh, tăng cường quyền
kiểm soát của Trung Quốc ở các vùng biển trọng yếu, đảm bảo an ninh cho
các hoạt động giao thương của Trung Quốc. Có nhận định cho rằng Trung
Quốc đang xây dựng vành đai an ninh “chuỗi ngọc trai” kết nối các đảo mà
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, Biển Đông Trung Hoa (Trung
Quốc gọi tắt là Đông Hải) và Biển Nhật Bản cùng với các đảo và những cơ
sở cầu cảng khác của Trung Quốc trải rộng từ Hải Nam tới Trung Đông,
chuỗi ngọc trai sẽ giống như như một vành đai bao quanh rất nhiều đất
liền châu Á. Những khu vực này chính là lợi ích an ninh quốc gia mà
Trung Quốc tin là sống còn với cả sứ mệnh bảo vệ vùng biển cũng như chi
phối châu Á - Thái Bình Dương[7].
Bên
cạnh đó, Trung Quốc xây dựng chiến lược “hải dương xanh” và chuyển từ
“phòng ngự biển gần”, sang phát triển theo hướng “hải quân viễn dương”.
Trung Quốc đang lên kế hoạch đóng tàu sân bay để tăng cường phạm vi hoạt
động, phát triển các loại tên lửa tấn công loại tàu này. Cùng lúc đó,
hải quân Trung Quốc vươn ra xa hơn. Tháng 12/2008, hải quân Trung Quốc
điều động ba chiến hạm tới vùng biển Xô-ma-li, tham gia hoạt động hộ
tống tàu thuyền qua lại vùng biển này. Tiếp đó, hai tàu thăm dò hải
dương của Trung Quốc đã phá vỡ sự phong tỏa của Nhật Bản, tiến sâu vào
vùng biển phụ cận đảo Điếu Ngư, thực hiện khảo sát, khiến Nhật Bản bị
bất ngờ. Trung Quốc còn biểu dương sức mạnh hải quân vào tháng 4/2009.
Về
kinh tế, Trung Quốc cần chạy đua để giành giật các nguồn tài nguyên
chiến lược. Trung Quốc đã vươn ảnh hưởng đến châu Phi, châu Đại dương và
Mỹ La-tinh để tìm các nguồn cung cấp nguyên nhiên liệu nhằm duy trì nền
kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng cần đa
dạng hóa các nguồn cung dầu lửa. Có lẽ vì lý do đó mà Bắc Kinh ngày càng
quyết liệt và mạnh bạo hơn trong hoạt động thăm dò dầu khí ở Biển Đông,
kiểm soát và ngăn chặn hoạt động của các quốc gia khác ở vùng biển này.
[1]
Đô đốc Admiral Michael Mullen, “Remarks and Q&A at the Navy League
Sea-Air-Space Exposition”, Gaylor National Resort
and ConferenceCenter, National Harbour, Maryland, May 4, 2009.
[2] Ian Bremmer, “China vs American: Fight for the Century”, Prospect, March 22, 2010, xem tại: http://www.prospectmagazine.co.uk/2010/03/china-vs-america-fight-of-the-century/
[3]
Xem thêm: Carlyle A.Thayer, “Southeast Asia : Pattern of Security
Cooperation”,Australian Strategic Policy Institute – ASPI, September
2010, tr. 49-51.
[4]
Xem thêm: Suishen Zhao, “Chinese Nationalism and Approaches toward East
Asian Regional Cooperation”, International Institutions and Global
Governance Program, Japan Studies Program, Paper at Council on Foreign
Relations, December 2009.
[5] Giáp Văn Dương, “Việt Nam 2008: Mười hai bài toán lớn”, Bài viết cho Hội thảo Nhìn lại Việt Nam năm 2008, tr. 13, xem tại: http://hoithao.viet-studies.info/2009_GVDuong.pdf
[6] Vũ Hồng Lâm, “Thế giới đa cực: Cấu hình quyền lực thế giới đương đại”, Tham luận tại Hội thảo Dân chủ và Phát triển, Berkeley, California, Mỹ, 28-29/7/2006.
[7] http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/201005/Trung-Quoc-voi-tu-tuong-chi-phoi-hang-hai-the-gioi-907938/
(Phần II)
Ở
phần này bài viết sẽ đi vào phân tích đánh giá những tác nhân đằng sau
những thay đổi trong các tiếp cận của Trung Quốc đối với Biển Đông kể từ
năm 2007 đến nay. Bài viết đánh giá việc Trung Quốc duy trì chính sách
mập mờ về “lợi ích cốt lõi” của mình đối với Biển Đông là để nhằm tránh
việc đa phương hóa vấn đề tranh chấp Biển Đông nhằm hạn chế sự can thiệp
của quốc tế đặc biệt là Mỹ, và hơn nữa là nhằm tạo điều kiện có lợi cho
mình trong việc sử dụng “sức mạnh mềm” trong giải quyết tranh chấp với
các nước trong khu vực này.
Dễ
nhìn thấy rằng tuyên bố và hành động của Trung Quốc đối với Biển Đông
trong thời gian từ năm 2007 trở lại đây có yếu tố tiếp biến chính sách
giai đoạn trước. Sự tiếp biến thể hiện dưới hình thức sử dụng tuyên bố
của người phát ngôn Bộ Ngoại giao khẳng định chủ quyền của Trung Quốc
trong phạm vi đường lưỡi bò, triển khai các hoạt động thăm dò, chủ
trương giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán song phương, phản đối
quốc tế hóa, trong khi đó chủ động khai thác dầu khí ở Biển Đông, nhưng
lại phản đối hành động thăm dò và khai thác của các quốc gia khác trong
phạm vi đường đứt khúc chín đoạn, đơn phương áp đặt lệnh cấm bắt cá,
ngăn cản và bắt giữ tàu thuyền và ngư dân của các quốc gia khác hoạt
động tại vùng biển, tiến hành các hoạt động nhằm củng cố các công trình
dân sự và quân sự của Trung Quốc tại các đảo đã chiếm đóng… Các quan
chức và học giả Trung Quốc tiếp tục cổ súy, vận động các quốc gia tranh
chấp khác ủng hộ chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở những
vùng biển nằm trong phạm vi thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của
các bên tranh chấp khác.
Theo
Joshua Kurlantzick, trong những năm đầu của thập kỷ vừa qua, Trung Quốc
đã ít đả động đến yêu sách về chủ quyền ở Biển Đông, trong khi đẩy mạnh
thực hiện cuộc tấn công quyến rũ bằng “sức mạnh mềm”, phát triển mối
quan hệ kinh tế, ngoại giao và kể cả an ninh gần gũi với các quốc gia
Đông Nam Á. Thế nhưng gần đây, cách tiếp cận “mềm mỏng” đó dường như đã
bị bỏ qua.[1]
Bên cạnh việc vừa tiếp tục các tranh cãi về chủ quyền, vừa chủ động đàm
phán song phương, Bắc Kinh đồng thời đẩy mạnh xây dựng lực lượng hải
quân tác chiến, tranh thủ mọi cơ hội biểu dương sức mạnh, phớt lờ việc
thực hiện DOC và đẩy mạnh triển khai các biện pháp nhằm kiểm soát thực
tế trên các vùng biển mà Trung Quốc yếu sách chủ quyền theo hướng chính
thức, khẳng định và thách thức hơn. Hành động của Trung Quốc mang tính
chủ động, tự tin hơn, một mặt khoanh vùng và phát huy ảnh hưởng ở Biển
Đông, ngăn chặn ảnh hưởng, sự can dự của các nước lớn khác, mặt khác sử
dụng “nắm đấm thép bọc nhung” để hăm dọa các bên khác trong tranh chấp.
Trung Quốc đã cho cải hoán các tàu quân sự thành tàu tuần tra dân sự,
điều một số tàu này đến hoạt động ở Biển Đông.[2]
Việc Trung Quốc tăng cường hiện diện trên Biển Đông đồng nghĩa với việc
các ngư dân và tàu khảo sát của các nước khác trong khu vực hoạt động ở
Biển Đông sẽ đụng độ nhiều hơn với các tàu Trung Quốc lớn hơn và được
trang bị tốt hơn, trong đó có tàu Ngư Chính 311 (Yuzheng 311).[3]
Thực tế cho thấy, các tàu tuần ngư khổng lồ của Trung Quốc không ngại
đụng độ trên biển. Bên cạnh đó, các hoạt động mạnh mẽ và quy mô chưa
từng thấy của các lực lượng Hải quân Trung Quốc tại Biển Đông cho thấy
Hải quân Trung Quốc luôn sẵn sàng chiến đấu, khiến các quốc gia khác
không khỏi e dè.[4]
Điều
đáng chú ý là từ năm 2007 đến nay, các bên tranh chấp chủ quyền ở Biển
Đông khác cũng tiếp tục có các động thái củng cố cơ sở hạ tầng, tuyên
truyền về yêu sách chủ quyền, đẩy mạnh tuần tra, trinh sát trên biển...
Có thể kể đến việc Đài Loan đã hoàn thành công trình đường băng trên đảo
Ba Bình, cựu lãnh đạo Đài Loan Trần Thủy Biển ra thăm đảo và nêu “Đề
xướng Nam Sa”. Trong năm 2008, Phi-lip-pin từng bước hoàn tất các thủ
tục nội bộ để thông qua Dự luật về đường cơ sở mới, và ngày 10/3/2009,
Tổng thống nước này ký ban hành Luật đường cơ sở mới của Phi-lip-pin
(RA9522) trong đó quy thuộc các đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt
Nam vào lãnh thổ Phi-lip-pin. Ma-lai-xi-a khẳng định yêu sách chủ quyền
đối với quần đảo Trường Sa bằng chuyến thăm của Phó Thủ tướng kiêm Bộ
trưởng Quốc phòng (ngày 12/8/2008) và của Thủ tướng nước này (ngày
05/03/2009) đến đảo đá Hoa Lau.
Thực
trạng đó đặt ra câu hỏi: Thái độ cứng rắn, hành động tự tin và quyết
liệt của Trung Quốc tại Biển Đông từ năm 2007 đến nay là kết quả của (i)
việc điều chỉnh chủ động trong chiến lược biển và chính sách của Trung
Quốc với tranh chấp tại Biển Đông hay không, hay đó chỉ là (ii) những
phản ứng của Trung Quốc đối với động thái của các quốc gia khác trong
tranh chấp, hay là (iii) “động thái ném đá dò đường”, phép thử đối với
phản ứng của các quốc gia khác, hay chỉ là (iv) hành động vượt quá thẩm
quyền, có tính nhất thời của các lực lượng hải quân hoặc tuần duyên của
Trung Quốc? Đáng chú ý, trong các cuộc trao đổi gần đây với học giả Việt
Nam, học giả Trung Quốc khẳng định chính sách của Trung Quốc đối với
các nước láng giềng nói chung và với các tranh chấp ở Biển Đông không hề
thay đổi, rằng có sự hiểu nhầm do báo chí phương Tây.
Diễn
biến ủng hộ cho lập luận thứ hai là việc Trung Quốc công khai “đường
lưỡi bò” để phản đối báo cáo về ranh giới ngoài của thềm lục địa của
Việt Nam và Ma-lai-xi-a (2009). Tuy nhiên, khó có thể tìm thấy mối liên
hệ nhân quả giữa các hành động khác của các quốc gia khác và sự hung
hăng bất thường của Trung Quốc từ cuối năm 2007 đến nay. Khả năng thứ tư
vẫn còn để ngỏ bởi Trung Quốc chưa bao giờ công khai quy trình hoạch
định chính sách và chính trị nội bộ của họ. Trong phát biểu của mình tại
Hội thảo quốc tế lần thứ hai về Biển Đông, học giả Leszek Buszynski bày
tỏ lo ngại về sự không minh bạch trong quá trình ra quyết sách trong
chính trị nội bộ của Trung Quốc, thế áp đảo của phe quân sự trong nền
chính trị ở Bắc Kinh, và ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan.[5]
Khả năng thứ ba có thể được loại bỏ vì hành động của Trung Quốc có vẻ
ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt hơn bất chấp sự phản đối, nghi ngại của
cộng đồng quốc tế và các nước trong khu vực.
Xem
xét kỹ những hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông từ năm 2007 đến nay
cho thấy khả năng thứ nhất (i) hợp lý hơn cả. Lý do đơn giản là các biện
pháp mà Trung Quốc triển khai có cường độ mạnh và thái độ quyết liệt
“bất bình thường”, có sự phối hợp đồng bộ chặt chẽ của nhiều ngành,
nhiều lực lượng, và được đưa tin, phổ biến rộng rãi trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Nhiều dấu hiệu cho thấy với sức mạnh kinh tế và
quân sự tăng lên nhanh chóng, Trung Quốc đang phấn đấu vươn lên trở
thành một cường quốc toàn cầu, trong đó coi Biển Đông vừa là mắt xích
quan trọng trong tuyến phòng thủ hải quân chiến lược và nằm trong phạm
vi ảnh hưởng sống còn của Trung Quốc, vừa là cửa ngõ chiến lược để đi ra
thế giới. Thêm nữa, sự mạnh bạo của Trung Quốc ở Biển Đông diễn ra đồng
thời với thái độ và hành động hung hăng của Trung Quốc ở Biển Hoa Đông,
mở rộng hoạt động của hải quân Trung Quốc ở biển E-den…
Bằng
chứng rõ rệt nhất là giới tinh hoa chính trị của Trung Quốc “đánh
tiếng” nâng cấp Biển Đông trở thành khu vực “lợi ích cốt lõi”[6] (hạch tâm quyền lợi) của Trung Quốc.[7]
Theo tin tức báo chí quốc tế, Trung Quốc lần đầu tiên coi vấn đề Biển
Đông thuộc “lợi ích cốt lõi” trong chuyến thăm Trung Quốc của Thứ trưởng
Ngoại giao Mỹ Steinberge vào tháng 3/2010. Tuy từ đó đến nay, chưa thấy
lãnh đạo Trung Quốc có phát biểu công khai nói Biển Đông là “lợi ích
cốt lõi” và học giả Trung Quốc tham dự Hội thảo Quốc tế về Biển Đông lần
hai cũng khẳng định điều này,[8] nhưng khi báo chí trong và ngoài Trung Quốc rầm rộ đưa tin,[9]
các kênh nhà nước của Trung Quốc cũng không có phản đối hay đính chính
chính thức. Liệu điều đó có hàm ý rằng giới lãnh đạo và tinh hoa chính
trị của Trung Quốc ngầm ủng hộ một quan niệm như vậy?
Ngụ
ý của việc quan chức Trung Quốc mập mờ phổ biến khái niệm lợi ích quốc
gia cốt lõi đối với Biển Đông là Bắc Kinh sẽ không cho phép thảo luận
hay đặt vấn đề đối với những chính sách của họ và có lẽ sẽ đẩy lùi sự
hiện diện của quân đội của các cường quốc khác ở ngoài khơi mạnh hơn bao
giờ hết. Trong những năm gần đây, Bắc Kinh cũng đã cảnh báo những công
ty dầu lửa của Hoa Kỳ không được tham gia các thỏa thuận thăm dò hỗn hợp
ở Biển Đông với Việt Nam. Và cũng có tin là họ đã nói với các quốc gia
Đông Nam Á không thảo luận những vấn đề liên quan đến biển Đông với
nhau.[10]
Việc
Trung Quốc có ý duy trì khái niệm mơ hồ về lợi ích cốt lõi có thể khiến
các nước trong tranh chấp lo sợ rằng: (i) có phải Bắc Kinh vừa tạo
không gian để áp dụng tiêu chuẩn kép, một mặt đòi các cường quốc khác
tuân thủ cái gốc là vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải
lý, mặt khác lại duy trì đòi hỏi phi lý về đường lưỡi bò đối với các
nước trong tranh chấp trực tiếp?; (ii) liệu có phải Bắc Kinh tạo tâm lý
răn đe dùng vũ lực, ép các nước liên quan chấp nhận giải pháp “gác tranh
chấp, cùng khai thác” có lợi cho Trung Quốc.
Không
thể phủ nhận Trung Quốc có những lợi ích hữu hình quan trọng ở Biển
Đông như: (i) đường biển quan trọng vận chuyển hàng hóa phục vụ phát
triển kinh tế: số lượng dầu nhập khẩu chiếm 50% nhu cầu trong nước,
trong đó 70% số dầu nhập khẩu này phải vận chuyển qua Biển Đông; (ii)
các nguồn tài nguyên biển, trong đó quan trọng nhất là dầu khí và hải
sản để phục vụ cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, thái độ và hành động
của Trung Quốc ở Biển Đông từ năm 2007 đến nay cho thấy giới chính trị -
quân sự Bắc Kinh nhìn nhận Biển Đông chủ yếu ở góc độ địa chính trị và
địa chiến lược. Theo đó, Biển Đông là không gian lợi ích sống còn, là
cửa ngõ để tiến xuống khu vực Đông Nam Á, và vươn xa hơn trở thành cường
quốc đại dương. Một loạt hành động như trên trong thời gian gần đây có
thể được hiểu là nỗ lực của Bắc Kinh nhằm đặt toàn bộ Biển Ðông dưới
quyền kiểm soát của Trung Quốc, không chỉ để bảo vệ quyền lợi về dầu lửa
và tài nguyên biển của họ, mà còn vì lý do chiến lược và quân sự, chẳng
hạn như để ngăn chặn bất kỳ hành động can thiệp nào của lực lượng Mỹ
trong trường hợp khẩn cấp liên quan đến Đài Loan.[11]
Mong
muốn kiểm soát Biển Đông, biến khu vực này trở thành “ao nhà” ngày càng
trở nên rõ ràng qua nhiều tuyên bố, biện pháp và hành động mạnh bạo có
tính áp đặt và mạnh bạo nhằm khẳng định chủ quyền pháp lý cùng khả năng
kiểm soát biển trên thực tế. Tuy nhiên, Biển Đông còn có ý nghĩa là khu
vực ảnh hưởng sống còn, và là cửa ngõ chiến lược đầu tiên để Trung Quốc
đi ra thế giới. Việc các lực lượng quân sự của Trung Quốc mạnh dạn chặn
các tàu của Mỹ, thử phản ứng của Mỹ với đề nghị chia khu vực ảnh hưởng ở
Thái Bình Dương, đe dọa và bắt bớ các tàu thuyền của các nước tranh
chấp, xây dựng căn cứ tàu ngầm chiến lược ở Tam Á là những minh chứng rõ
ràng về quan niệm của giới chính trị và quân sự Bắc Kinh về tầm quan
trọng của Biển Đông và tương lai của vùng biển này trong chiến lược
cường quốc của Trung Quốc.
Sự
điều chỉnh cách tiếp cận của Trung Quốc là nguyên nhân cơ bản khiến
quan hệ giữa Trung Quốc và các nước tranh chấp khác trở nên căng thẳng.
Sau năm năm ra đời, Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)
giữa Trung Quốc và các nước ASEAN không đủ để ngăn tranh chấp Biển Đông
ngày càng nóng và trở thành nguy cơ hiện hữu đối với hòa bình, ổn định ở
khu vực và tình hữu nghị giữa các quốc gia trong khu vực. Tuy nhiên, rõ
ràng là Trung Quốc vẫn chưa đủ sức mạnh chính trị và quân sự để kiểm
soát toàn bộ Biển Đông và không muốn căng thẳng biến thành bất ổn, xung
đột quân sự. Do đó, lãnh đạo Trung Quốc luôn trấn an các nước trong khu
vực và kêu gọi cần phải có hòa bình, ổn định, và hợp tác. Tại buổi họp
báo sáng ngày 6/01/2010 ở Hà Nội, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc
tại Việt Nam Tôn Quốc Tường nói rằng “chúng ta đã thiết lập cơ chế đàm
phán về vấn đề trên biển, thực hiện nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao
hai nước, thúc đẩy tiến trình đàm phán. Để giải quyết tranh chấp, hai
bên cần xuất phát từ đại cục, toàn cục và lợi ích căn bản của nhân dân
hai nước, tạm gác lại tranh chấp, không làm ảnh hưởng đến sự phát triển
bình thường, thuận lợi của quan hệ hai nước. Tôi nghĩ đây là cách làm
phù hợp nhất”.[12]
Thông điệp “giữ đại cục” này cũng được nhắc đi nhắc lại trong nhiều
cuộc trao đổi giữa học giả Trung Quốc và Việt Nam, với lập luận Trung
Quốc còn phải đối phó với nhiều khó khăn trong nội bộ của nước này, đặc
biệt là các vấn đề phát triển và xã hội.
Nghịch
lý là, Trung Quốc trước hết sử dụng luận điểm “giữ đại cục” để trấn an
các nước vừa và nhỏ trong khu vực, trong khi tiếp tục duy trì sự mập mờ
trong chính sách an ninh biển và sử dụng nhiều chiến thuật khác nhau để
giành thế chủ động và quyền kiểm soát thực tế ở Biển Đông. Giáo sư
Carlyle A. Thayer cho rằng Trung Quốc đang cố tình theo đuổi một chính
sách mập mờ có tính toán trong vấn đề này và sẽ trì hoãn việc giải quyết
các tuyên bố chủ quyền trái ngược nhau cho đến thời điểm mà Bắc Kinh
cảm thấy thích hợp.[13]
Thứ hai, đó là chiến thuật “salami”, thực hiện chính sách “lấn dần từng
bước”, đảm bảo đạt được sự kiểm soát tình hình, mà không làm cho các
bên yêu sách cùng dư luận quốc tế phản ứng thái quá. Bắc Kinh luôn kết
hợp cứng và mềm, sẵn sàng đàm phán khi cần thiết, nhưng cũng sẵn sàng
vứt bỏ “cam kết” khi cần. Thứ ba, Trung Quốc kiên trì đàm phán song
phương, phản đối đa phương hóa và quốc tế hóa. Theo cách đó, Trung Quốc
có thể “chia để trị” và luôn duy trì được thế áp đảo đối với đối phương.
Ít có khả năng Trung Quốc tham gia các cơ chế an ninh hợp tác, nơi đó
Trung Quốc phải chấp nhận vị thế và lợi ích ngang bằng với các quốc gia
khác. và yếu hơn mình, tránh được sự nhòm ngó của quốc tế.[14]
[1] Joshua
Kurlantzick, “Avoiding a Tempest in the South China Sea”, Expert Brief,
Council on Foreign Relations, September 2, 2010, xem tại: http://www.cfr.org/china/avoiding-tempest-south-china-sea/p22858.
[2] Yuzheng 311, 303 start escort in South China Sea, Sina English, 26 November 2009, xem tại: http://english.sina.com/china/p/2009/1126/288553.html,
[3] Peter Brown, Calculated ambiguity in the South China Sea, Asia Times, 8 December 2009, xem tại: http://www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/KL08Ae01.html
[4] xem thêm: Bước phát triển mới của Hải quân Trung Quốc, BBC Vietnamese, ngày 12/5/2010, xem tại: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2010/05/100512_china_navy_strategy.shtml
[5]
Leszek Buszynski, “Rising Tensions in the South China and Implications
for Regional Security”, Tham luận tại Hội thảo quốc tế: “Biển Đông: Hợp
tác vì An ninh và Phát triển ở khu vực”, tổ chức tháng 11/2010 tại thành
phố Hồ Chí Minh.
[6] Một thuật ngữ mà nước này thường dùng trong quá khứ để đề cập đến vấn đề Đài Loan, Tây Tạng, và Tân Cương.
[7] Cary Huang, “A bolder China asserts 'core' interests - but will it act?”, South China Morning Post, August 12, 2010, xem tại: http://www.viet-studies.info/kinhte/china_asserts_core_interest.htm,
[8]
GS. Tô Hạo khẳng định tại Hội thảo Quốc tế về Biển Đông tại thành phố
Hồ Chí Minh (11/2010): Trung Quốc chưa bao giờ sử dụng thuật ngữ “lợi
ích cốt lõi” trong các tài liệu chính thức.
[9]
Các báo China Daily, Global Times, và một số tạp chí của Trung Quốc đều
có tin bài của học giả Trung Quốc nêu nội dung này. Báo China Daily
ngày 30/7/2010 đăng bài của Ai Yang nhấn mạnh “Nam Hải là một trong
những lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc. Tạp chí Thế giới Tri thức (thuộc
Bộ Ngoại giao Trung Quốc) số ngày 16/8 đăng bài của học giả Trung Quốc
khẳng định vào tháng 3 năm 2010, Trung Quốc đã nêu rõ với phía Mỹ rằng
Nam Hải liên quan đến “lợi ích cốt lõi” về chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của Trung Quốc.
[10]
Joshua Kurlandtzick, “Avoiding a Tempeset in the South China Sea”,
Expert Brief on Council on Foreign Relations Website, September 2, 2010,
retrieved on October 10, 2010 at http://www.cfr.org/publication/22858/avoiding_a_tempest_in_the_south_china_sea.html
[11] Trọng Nghĩa, “Nhìn từ Nhật Bản: Phải buộc Trung Quốc đàm phán đa phương về Biển Đông”, RFI, ngày 11/10/2010, xem tại: http://www.viet.rfi.fr/tong-hop/20100827-nhin-tu-nhat-ban-phai-buoc-trung-quoc-dam-phan-da-phuong-ve-bien-dong.
[12] “Chờ điều kiện chín muồi để giải quyết tranh chấp Biển Đông”, VNN phỏng vấn Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường, xem tại http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/201001/Cho-dieu-kien-chin-muoi-giai-quyet-tranh-chap-bien-Dong-888092/ ngày 11/9/2010.
[13]Peter
J. Brown, “Calculated ambiguity in the South China Sea”, Asian Times,
December 8, 2009, retrieved at:
http://www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/KL08Ae01.html on October 10, 2010.
[14] “Trung Quốc chống quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông”, RFI, ngày 25/7/2010, xem tại: http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20100725-trung-quoc-chong-viec-quoc-te-hoa-tranh-chap-bien-dong, ngày 19/9/2010.
(Còn tiếp)
(Còn tiếp)
Đỗ Thanh Hải & Nguyễn Thùy Linh, Chương trình Nghiên cứu Biển Đông