Bài
viết của học giả Malaysia J.N.Mak phân tích nguyên nhân của các
thất bại trong việc hợp tác tại Biển Đông. Khác với tình hình
Vịnh Thái Lan, nơi có nhiều thỏa thuận hợp tác cùng phát
triển, nhân tố chính của các nỗ lực hợp tác bất thành tại
Biển Đông là vấn đề tranh chấp chủ quyền đối với các đảo,
đá. Chừng nào chưa giải quyết xong vấn đề chủ quyền thì các
kêu gọi về thúc đẩy hợp tác chỉ là câu chữ chính trị.
Nhiều
học giả đã lấy cơ chế ASEAN là một ví dụ về cơ chế khu vực không chỉ
thành công trong việc làm giảm căng thẳng, mà còn giúp tạo nên “hòa bình
lâu dài” trong khu vực.[1]
Kivimaki và các học giả khác gồm Amitav Acharya và Nikolas Busse khi
viết theo phương pháp kiến tạo, đã cho rằng mặc dù khu vực này có nhiều
mâu thuẫn tiềm ẩn trong các vấn đề tranh chấp lãnh thổ và tranh chấp
khác giữa các quốc gia, sự phát triển của các quy tắc căn bản của ASEAN
về việc không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác và nhấn mạnh
việc tôn trọng độc lập chủ quyền của các quốc gia thành viên là nhân tố
cơ bản mang lại thành công trong sự thiết lập hòa bình, an ninh và ổn
định ở Đông Nam Á.[2]
Những
quy tắc này có trong Hiệp định Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á năm
1976 của ASEAN (Treaty of Amity and Cooperation in Southeast Asia, (TAC)). Ngoài nhấn mạnh vấn đề chủ quyền và không can thiệp, khoản 2 của TAC
còn kêu gọi các nước giải quyết tranh chấp một cách hòa bình. Không chỉ
nhấn mạnh việc không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp, TAC
còn kêu gọi các thành viên ASEAN rút lại lời đe dọa sử dụng vũ lực. Mặc
dù Nischalke coi ASEAN như “một cộng đồng hình thành dựa trên các quy
định chứ không phải dựa trên bản sắc chung” (như Acharya, Kivimaki và
Busse gợi ý), Nischalke cũng coi TAC là trụ cột của ASEAN và là nguồn gốc của các chuẩn mực, quy định dẫn dắt hành vi của khu vực này từ khi hình thành.[3]
Các học giả này coi cách tiếp cận “ASEAN way”[Phương cách ASEAN] đối
với các mối quan hệ nội khối dựa trên đối thoại ôn hòa và xây dựng đồng
thuận là chìa khóa thành công trong việc giữ gìn hòa bình, ổn định và
trật tự ở Đông Nam Á.[4] Tuy nhiên “ASEAN way” và TAC
có vẻ chắc chắn giữ được hòa bình lâu dài ở khu vực đất liền hơn là ở
khu vực biển. Các chuẩn mực của ASEAN dường như không đóng góp nhiều cho
trật tự khu vực ở biển.
Câu hỏi chính
Theo
quan sát của Kivimaki, trong thời gian “hòa bình lâu dài”, ASEAN vẫn
còn rất nhiền tranh chấp “tiềm ẩn”, đặc biệt là tranh chấp biển.
Trong
thời gian hòa bình lâu dài có một số tranh chấp về lãnh thổ chưa được
giải quyết như tranh chấp giữa Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-po (Pedra Branca),
In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a (Sipadan và Ligitan), In-đô-nê-xi-a và
Phi-líp-pin (Đảo Miatan), Ma-lai-xi-a và Phi-líp-pin (Sabah), và
Ma-lai-xi-a, Việt Nam và Phi-líp-pin (Spratly Islands, quần đảo Trường
Sa - nd).[5]
Kivimaki
cũng nhấn mạnh rằng tranh chấp biển đã bị quân sự hóa. Tuy nhiên
Kivimaki tranh luận rằng dù bị quân sự hóa, các tranh chấp này cũng sẽ
không dẫn đến chiến tranh hay thương vong, do đó càng củng cố được sự
hiểu biết kiến tạo về vai trò của ASEAN trong việc bảo đảm hòa bình và
ổn định khu vực. Nhưng cho dù các tranh chấp biển đó không dẫn đến chiến
tranh hay tình thế đối đầu, sự thật là chúng đã bị quân sự hóa và đây
là vấn đề rất quan trọng, không thể làm ngơ. Tôi định nghĩa quân sự hoá
là những động thái có liên quan đến đe dọa sử dụng vũ lực, phô trương
quân sự, và triển khai và các “va chạm” hay đụng độ quân sự nhỏ chưa đến
mức công khai đối đầu hay chiến tranh. Những hành động này vi phạm các
chuẩn mực đã và đang giúp gìn giữ hòa bình ổn định hay thậm chí một chút
ít trật tự của ASEAN như các nhà theo chủ nghĩa kiến tạo hay thậm chí
một vài nhà hoài nghi hiện thực đã thừa nhận. Đặc biêt, trong một thời
gian dài, đã hiếm khi xảy ra các động thái phô trương và đe dọa quân sự
tương tự trong tranh chấp nội bộ ASEAN, không liên quan đến khu vực
biển.
Do
đó, câu hỏi đặt ra là tại sao ASEAN có thể duy trì “hòa bình lâu dài” ở
trên đất liền, và còn có các phát triển đáng kể về mặt kinh tế và các
hình thức hợp tác thiết thực khác, trong khi tranh chấp Biển Đông và một
số nơi khác đã dẫn đến các hành vi hiếu chiến của một quốc gia ASEAN
chống lại các thành viên khác. Nhiều nhà phân tích cho rằng nguyên nhân
của tranh chấp biển ở khu vực này là do cuộc đua giành tài nguyên biển
quý giá, quyền kiểm soát các đường giao thương chiến lược trên biển
(SLOCs), nỗ lực kiểm soát khu vực biển có tầm quan trọng chiến lược, và
xu hướng gia tăng của tình cảm dân tộc chủ nghĩa, đặc biệt ở Trung Quốc.
Nhìn chung, nhiều người cho rằng một trong những nguyên nhân chính của
các tranh chấp là do cuộc đua giành nguồn tài nguyên kinh tế, đặc biệt
là khí ga, dầu mỏ, và cá. Do đó, các nỗ lực thúc đẩy hợp tác đã tập
trung vào việc bảo đảm các quốc gia nhận thức được về những lợi ích
chung chỉ có thể đạt được từ hợp tác trên biển.Tuy nhiên, điều mà hầu
hết các tài liệu nghiên cứu về việc thúc đẩy sự hợp tác ở Biển Đông hay
thiết lập các tổ chức và các quy tắc hợp tác không giải thích được là
tại sao hầu hết các nỗ lực hợp tác trên biển này đều thất bại, chỉ trừ
các công ty liên doanh khai thác và phát triển ở Vịnh Thái Lan. Ngoài
ra, các tài liệu này cũng không giải thích được tại sao, dù tuân theo
khá chặt chẽ các quy tắc chính của TAC các nước thành viên ASEAN đã không hành động theo các quy tắc này khi giải quyết tranh chấp biển.
Trong
phần còn lại của chương, tôi sẽ giải thích nghịch lý này bằng lập luận
rằng chúng ta cần phân biệt giữa hai lĩnh vực khác biệt trong ASEAN –
biển và lãnh thổ - nơi mà các chuẩn mực khác nhau được áp dụng do các
quan niệm khác nhau về chủ quyền ở hai lĩnh vực này là hoàn toàn khác
nhau. Nói cách khác, chuẩn mực của ASEAN trong lĩnh vực an ninh trên đất
liền khác với các chuẩn mực trên Biển Đông. Bằng chứng là dù đã có TAC
1976, nhưng từ những năm 1990, các nước thành viên ASEAN đã dành rất
nhiều thời gian và công sức trong việc phát triển các quy tắc ứng xử
riêng trên Biển Đông, điều đó ám chỉ rằng để giải quyết các tranh chấp
hay các tranh chấp tiềm ẩn ở biển cần phải có một “công cụ rõ ràng”.[6]
Trong phần tiếp theo, tôi sẽ chỉ ra các tranh chấp biển trong nội khối
ASEAN trở nên quân sự hóa như thế nào, đặc biệt trong suốt những năm
1990. Sau đó, tôi sẽ bàn đến các nguyên nhân dẫn đến việc tại sao các
quy tắc về an ninh trên biển và trên đất liền ở ASEAN lại khác nhau. Có
sự khác nhau đó là vì ASEAN đã thông qua nguyên tắc [uti possidetis
juris] nên biên giới lãnh thổ được coi là bất khả xâm phạm, trong khi đó
“trạng thái tự nhiên” vẫn tồn tại ở biển, nơi mà các ranh giới biển
được phân định rõ ràng hay đuợc chấp thuận vẫn chưa được thiết lập, và
việc tạo nên các ranh giới vẫn là mối bận tâm chính của các nước tuyên
bố chủ quyền, trong đó có cả ASEAN.
Theo
đó, chương này lập luận rằng, hai loại chủ quyền khác nhau – một loại
gắn với đất liền và loại còn lại gắn với biển – cùng tồn tại trong
ASEAN. Do có đặc tính này, các quy định của ASEAN về tránh xung đột,
không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực không được áp dụng đối
với biển. Thực trạng biển được coi là nơi để tạo lập ranh giới sẽ được
bàn trong phần sau. Cuối cùng, tôi vận dụng nhận thức này để giải thích
tại sao từ trước đến nay khó có được sự hợp tác thực sự ở Biển Đông và
sự hợp tác đó sẽ tiếp tục khó có thể đạt được, trái ngược với Vịnh Thái
Lan. Trong Vịnh, các vấn đề chủ quyền chính đã được giải quyết, và do đó
việc mở rộng khu vực biển thuộc về vấn đề kĩ thuật hơn là về vấn đề chủ
quyền chính trị.
Quân sự hóa tranh chấp biển ở ASEAN
Tranh chấp đất liền trong nội khối ASEAN có xu hướng tập trung vào các vấn đề an ninh “mềm” như kinh tế, nhân quyền,
quản trị và cấm vận chống lại các nước thành viên ngoan cố như
Mi-an-ma. Theo đó thuật ngữ “tranh chấp” được sử dụng vì nó ám chỉ trạng
thái không hòa hợp giữa lợi ích bất tương xứng của các nước thành viên.
Mặt khác, hợp tác trong các vấn đề an ninh “mềm” thiết thực trong khối
ASEAN như tội phạm xuyên quốc gia, buôn bán thuốc phiện, buôn người và
chủ nghĩa khủng bố quốc tế phát triển đều trong những năm qua. Hơn nữa,
hợp tác về an ninh (hay quân sự) “cứng” dọc biên giới của các nước ASEAN
cũng liên tục phát triển đặc biệt khi liên quan đến nguyên tắc không
can thiệp. Mặc dù, năm 2001 Thái Lan đã gây nên một trận giao tranh ngắn
ở biên giới với Mi-an-ma về việc lực lượng nổi dậy li khai sử dụng Thái
Lan làm căn cứ, nhưng vấn đề đã được giải quyết một cách nhanh chóng.[7]
Thực ra, vì lợi ích kinh tế bất di bất dịch nên mối quan hệ giữa Thái
Lan và Mi-an-ma trở nên bền chặt đến nỗi vấn đề về đường biên giới đất
liền không còn quan trọng, với một thoả thuận cho phép doanh nghiệp Thái
Lan “canh tác hàng nghìn mẫu đất không phải chịu thuế trong khu vực
biên giới của Mi-an-ma”.[8] Thái Lan và Mi-an-ma cũng đã bắt đầu thực hiện dự án nhà máy thủy điện chung dọc biên giới Thái Lan và Mi-an-ma.[9]
Tương tự như vậy, tranh chấp đường biên giới giữa Thái Lan và
Căm-pu-chi-a cũng không dẫn đến quân sự hóa đường biên giới chung của
hai nước. Thay vào đó, cả Thái lan và Căm-pu-chi-a đều đồng ý xin cho
đền Preah Vihear, biểu tượng chính của tranh chấp, được công nhận là Di
sản Văn hóa Thế giới.[10]
Ma-lai-xi-a
đã thành lập Ban Biên giới chung (GBCs) với tất cả các nước láng giềng
nhằm giải quyết các vấn đề xuyên biên giới. Đưa ra ví dụ cho việc này,
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của Malaisia, ông Mohamed Najib đã làm rõ rằng
vấn đề người li khai ở phía Bắc Thái Lan chỉ là “vấn đề nội bộ của nước
Thái và Ma-lai-xi-a tôn trọng nguyên tắc chính không can thiệp vào công
việc nội bộ của các nước láng giềng”.[11]
Tương tự, Kuala Lumpur cũng không công nhận những người Aceh chạy sang
Ma-lai-xi-a để tránh cuộc chiến giữa In-đô-nê-xi-a và phong trào li khai
của Gerakan Aceh Merdeka (Free Aceh Movement - phong trào giải phóng
Aceh - nd) là những người tị nạn, vì Ma-lai-xi-a không muốn can thiệp
vào công việc nội bộ của In-đô-nê-xi-a.[12]
Trái với đối đầu ở biển, gần đây Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a đã cùng
tham gia phân định biên giới đất liền quốc tế ở Sabah và Đông
Kalimantan, giữa Sarawak và Tây Kalimantan.[13]
Thực ra, sau khi lật đổ tổng thống Sukarno và chấm dứt chính sách đối
đầu Konfrontasi, quân đội Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a đã cùng tuần tra ở
biên giới Sarawak – Kalimantan và thực hiện triển khai quân đội chung
tấn công nơi ẩn ẩn náu của cộng sản.[14]
Do đó chúng ta có thể thấy rằng các thành viên của ASEAN thường tuân
theo các nguyên tắc về giải quyết xung đột một cách hòa bình, không sử
dụng vũ lực và không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác liên
quan đến các vấn đề an ninh trên đất liền.
Trái
lại, căng thẳng về đường biên giới biển tiếp tục phá hỏng hợp tác biển.
Tuy những căng thẳng này chưa dẫn đến chiến tranh thực sự giữa các nước
thành viên ASEAN, nhưng đã xảy ra rất nhiều cuộc phô trương quân sự
hung hăng, đe dọa bằng quân sự, đối đầu, và các cuộc chiếm đóng các đảo
nhỏ và bãi Biển Đông. Hành động phô trương quân sự này là một “tiến
trình nguy cơ_xung đột” đi ngược lại điều 2 của TAC, điều khoản này công khai bác bỏ “việc đe dọa sử dụng hay sử dụng quân sự”.
Việc chiếm đóng quần đảo Trường Sa (Spratly Island –nd) xảy ra vào những năm 1960 và 1970 trước khi TAC
được kí. Tuy nhiên, tháng 12 năm 1979, lực lượng đặc nhiệm hải quân
Ma-lai-xi-a đã chiếm đóng Đảo Hoa Lau (Swallow Reef – nd), hòn đảo cũng
được Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam
tuyên bố chủ quyền. Động thái gây nhiều tranh cãi nhất có lẽ là việc
Ma-lai-xi-a chiếm đóng Bãi Thám Hiểm (Investigator Shoal – nd) và Đá En
ca (Erica Reef – nd) năm 1999. Như một học giả nhấn mạnh, đây là lần đầu
tiên một thành viên của ASEAN “có động thái chống lại tuyên bố chủ
quyền ở Biển Đông của các thành viên khác như Phi-líp-pin và Việt Nam”.[15]
Việc chiếm đóng Bãi Thám Hiểm (Investigator Shoal – nd) là một “hoạt
động quân sự lớn” có sự tham gia của 6 tàu trục và hàng không mẫu hạm
hiện đại nhất của Ma-lai-xi-a.[16]Manila
trở nên khó chịu khi phát hiện Ma-lai-xi-a đã chiếm đóng và xây dựng
một công trình kiến trúc 2 tầng ở một phần khác, Đá En ca, vào tháng 7
năm 1999. Năm 1999 căng thẳng lên cao hơn khi hai máy bay chiến đấu lực
lượng hàng không của Ma-lai-xi-a đã chặn và đuổi hai máy bay quân sự của
Phi-líp-pin gần Bãi Thám Hiểm (Investigator Shoal – nd).[17]
Ngoài
ra, cũng có nhiều cuộc xung đột hiếu chiến giữa lực lượng vũ trang của
In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a trong khi tuần tra chủ quyền quanh đảo
tranh chấp Sipadan và Ligitan trên biển Celebes ngoài bờ biển phía đông
Sabah vào những năm 1990. Nhận thấy rằng những xung đột hiếu chiến có
thể dễ chuyển thành xung đột mở, hải quân của In-đô-nê-xi-a và
Ma-lai-xi-a cùng với sự giúp đỡ từ Viện Hàng hải của Ma-lai-xi-a về tài
liệu đã tìm ra phương án và kí kết Hiệp định Ngăn chặn Đụng độ trên biển
giữa Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a (MALINDOINCSEA) vào tháng 1 năm
2001. Điều thực sự đáng chú ý là Hiệp định Ngăn chặn Đụng độ trên biển
(INCSEA) được kí kết giữa hai hải quân “thân thiện” mà không kể đến các
quy tắc của TAC.
Một
biểu hiện khác về căng thẳng ở mức cao trong nội khối ASEAN về vấn đề
biển là khi tàu chiến của In-đô-nê-xi-a và tàu hàng hải của Ma-lai-xi-a
đâm vào nhau trong một “cuộc gặp gỡ đầy tính đối đầu” ở khu vực tranh
chấp Ambalat ngoài bờ biển phía Đông Nam của Sabab tháng 4 năm 2005.[18]
Sự kiện này khiến cho nhiều quan chức và dân chúng In-đô-nê-xi-a kêu
gọi “sử dụng lực lượng quân sự” và tái áp dụng chính sách đối đầu
(Konfrontasi) chống lại Ma-lai-xi-a[19]
Kết quả là, cả hai nước đều tăng cường điều các đơn vị quân sự đến khu
vực này. Cơ quan thông tấn quốc gia In-đô-nê-xi-a Antara cũng thông báo
về các vụ đụng độ của tàu In-đô-nê-xi-a, năm 2007 đã ba lần ngăn chặn và
đuổi được tàu hải quân Ma-lai-xi-a ra khỏi Ambalat, lãnh thổ của
In-đô-nê-xi-a bị tàu này “xâm phạm”.[20]
Rõ ràng đây là trường hợp tiến hành phô trương quân sự và gián tiếp đe
dọa sử dụng vũ lực để củng cố tuyên bố chủ quyền của mỗi nước. Trong
khi trường hợp của Ambalat không hoàn toàn là vấn đề về chủ quyền, nhưng
chủ quyền lại là nguyên nhân chính dẫn đến xung đột vì hai lí do: thứ
nhất, In-đô-nê-xi-a cảm thấy bị lừa dối về chủ quyền của nước này đối
với Sipadan và Ligitan sau khi Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) trao hai đảo
này cho Ma-lai-xi-a vào năm 2002;[21]
thứ hai, cảm giác chống Ma-lai-xi-a cũng liên quan đến quan điểm cho
rằng Ma-lai-xi-a đã ngạo mạn trong việc đối xử tàn bạo, bất công với lực
lượng lao động di cư người In-đô-nê-xi-a “thuộc chủ quyền” (của
Indonesia - nd).[22]
Ngoài
Ambalat, Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a cũng đến tranh chấp ở ngoài bờ
biển phía Tây của Sarawak-Kalimantan thuộc khu vực Gosong Niger.
In-đô-nê-xi-a đã buộc tội tàu hải quân của Ma-lai-xi-a về việc tuần tra
thường xuyên ở khu vực này, khu vực mà In-đô-nê-xi-a đã tuyên bố chủ
quyền.[23]Thêm
vào đó, căng thăng tiếp tục tăng xung quanh vấn đề về quần đảo Trường
Sa (Spratlys – nd) giữa các nước thành viên ASEAN. Ví dụ,tháng 11 năm
1999 rõ ràng quân đội Việt Nam ở Đảo Tiên Nữ (Pigeon Reef–nd tên
Phi-líp-pin ) đã bắn máy bay do thám của Philippin .[24]
Đáng
chú ý là, trong 5 năm tới Ma-lai-xi-a có các động thái nhằm thuyết phục
các nước láng giềng của ASEAN thông qua các hiệp định INCSEA song
phương do việc hiện đại hóa hải quân của tất cả các nước ASEAN. Quan
chức chính phủ Ma-lai-xi-a nhấn mạnh rằng hiện đại hóa và mở rộng hải
quân của các nước ASEAN cùng với tranh chấp biển ở các khu vực như
Ambalat, khiến tương lai của hiệp định INCSEA trở nên cần thiết.[25]Với
bối cảnh này, tại sao một số nước thành viên ASEAN lại sẵn sàng tăng
nguy cơ xung đột biển dù đã có TAC? Có sự khác biệt nào trong các chuẩn
mực của ASEAN về biển và việc tuân theo các quy tắc đó trên đất liền
không? Trong chương này, tôi lập luận rằng lãnh thổ và các khu vực biển
của ASEAN được áp dụng các khái niệm chủ quyền riêng biệt. Điều này giải
thích tại sao cư xử trong tranh chấp biển sẽ khác trên đất liên đồng
thời đưa ra các gợi ý cho triển vọng hợp tác biển.
Hai lĩnh vực khác nhau: trên biển và trên đất liền
Rõ
ràng rằng các chuẩn mực của ASEAN đóng vai trò rất nhỏ đối với lợi ích
quốc gia trong lĩnh vực biển. Một ví dụ về địa vị tối cao của lợi ích
quốc gia được đề cập trong phần giới thiệu của MALIDO Hướng dẫn Hợp tác
Ngăn chặn đụng độ trên biển:
Cả
hai bên [ hải quân In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a ] đều nhận thấy rằng dù
có cùng quan niệm tuy nhiên thỉng thoảng định hướng về lợi ích quốc gia
của từng nước có thể xung đột nhau…cần đặc biệt quan tâm các sự kiện
có thể phát sihh từ quá trình hành động – phản ứng của lực lượng hải
quân hai nước trong khi triển khai việc bảo vệ chủ quyền của quốc gia
mình.[26]
Lập
luận cho rằng hai loại quy tắc riêng biệt tồn tại trong ASEAN mâu thuẫn
với phương pháp tiếp cận kiến tạo, phương pháp này cho rằng các quy tắc
của ASEAN có thể áp dụng cho tất cả các lĩnh vực. Các nhà hiện thực
cũng không nhận thấy sự tồn tại của hai lĩnh vực an ninh riêng biệt này.
Theo họ thì Trung Quốc là chủ thể ngoan cố nhất ở Biển Đông vì Trung
Quốc là nước mạnh nhất trong khu vực này. Tuy nhiên, Ma-lai-xi-a, Việt Nam
và In-đô-nê-xi-a cũng đều rất cương quyết trong việc khẳng định tuyên
bố chủ quyền ở Biển Đông. Do vậy, theo một định nghĩa nào đó, lĩnh vực
biển vẫn ở trong trạng thái tự nhiên (chưa có luật lệ - nd). Vì các quy
tắc áp dụng với biển khác với các quy tắc hợp tác được áp dụng cho đất
liền, cho nên thời gian qua các nỗ lực thúc đẩy hợp tác biển theo các
cách khác nhau đều thất bại.
Có
nhiều lí do tại sao tôi cho rằng hai lĩnh vực này là các thực thể an
ninh riêng biệt. Lí do đầu tiên là di sản của uti possidetis juris, theo
đó các nước thành viên ASEAN mới độc lập thừa kế, và hợp nhất các biên
giới thuộc địa thành biên giới của họ. Lí do thứ hai là, trong khi ranh
giới đất liền được phân chia một cách rõ ràng cùng với việc thừa nhận
nguyên tắc của uti possidetis juris, thì ranh giới biển lại không được
phân định một cách rõ ràng, và ít được các nước Anh, Hà Lan và Pháp phân
chia hơn. Do đó, ngày nay, ASEAN vẫn vướng vào các hoạt động tạo đường
ranh giới biển cơ bản. Đổi lại, điều này có hàm ý đối với chủ quyền của
ASEAN. Một nước độc lập được xác định bởi các đường biên giới lãnh thổ
rõ ràng. Tuy nhiên, từ khi phải phân định các đường ranh giới biển ở các
khu vực biển lớn ở Đông Nam
châu Á, chủ quyền biển vẫn rất mơ hồ nên xảy ra nhiều tranh chấp. Cuối
cùng, phải kể đến các quy tắc liên quan của ASEAN về không can thiệp vào
nội bộ nước khác. Theo tôi, khái niệm không can thiệp không chỉ đơn
thuần ám chỉ lãnh thổ có đường biên giới, quan trọng hơn nó còn ám chỉ
con người sinh sống ở bên trong lãnh thổ đó. Vì Biển Đông hầu như không
có dân sinh sống thường xuyên (permanent constituency), ví dụ như không
có dân số, hay cũng không có đường biên giới được phân định rõ ràng, quy
tắc không can thiệp của ASEAN và sự tôn trọng chủ quyền quốc gia không
được áp dụng cho hầu hết các khu vực biển ở Đông Nam Á.
Uti possidetis juris
Ngoại
trừ chính sách đối đầu Konfrontasi của In-đô-nê-xi-a chống Ma-lai-xi-a
năm 1963 – 1966, từ trước đến nay chưa có cuộc xung đột nghiêm trọng về
đường biên giới biển nào trong khu vực ASEAN.
Tuy việc Phi-líp-pin tuyên bố chủ quyền đối với Sabah có xu hướng trở nên nghiêm trọng, nhưng thực sự Manila
chưa bao giờ thúc đẩy yêu sách đó. Thực ra, ai đó có thể tranh luận
rằng hầu như các nước ở Đông Nam Á sau khi độc lập không cố gắng sử dụng
vũ lực để thay đổi các đường biên giới mà họ thừa kế. Theo nghĩa này,
các đường biên giới chính trị ở Đông Nam Á đều dựa vào các đường biên
giới thuộc địa được thừa kế, phần lớn là đường biên giới đất liền và các
lãnh hải trực tiếp.[27]
Khác với Mỹ La Tinh và châu Phi, mặc dù khái niệp hợp pháp của uti
possidetis juris (quyền đối với lãnh thổ - “ vì bạn sở hữu chúng nên bạn
sẽ sở hữu chúng”) không chính thức được ASEAN thông qua, việc các nước
Đông Nam Á ngầm chấp nhận uti possidentis juris chưa bao giờ bị bất kì
nước nào trong khu vực thách thức. Vì vậy, nguyên tắc uti possidetis
juris là nguyên tắc cơ bản về chủ quyền và hòa bình ở Đông Nam Á. Như
ICJ đã nhấn mạnh trong một quyết định năm 1986 rằng, mục tiêu của uti
possidetis juris là nhằm “ bảo đảm sự tôn trọng đối với biên giới lãnh
thổ tồn tại ngay khi giành độc lập”.[28]
Do đó, Uti possidetis juris là nguyên tắc biến các biên giới thuộc địa
thành biên giới quốc tế với mục tiêu cơ bản là bảo đảm sự ổn định giữa
các nước mới giành độc lập.
Ý
nghĩa của nguyên tắc uti possidetis là việc nguyên tắc này đã kết hợp
các khái niệm về không can thiệp và sự quyết dựa trên lãnh thổ ( trong
trường hợp của ASEAN, thì đó là các đường biên giới lãnh thổ thuộc địa)
“chứ không phải dựa trên các tuyên bố về dân tộc”.[29]
Theo khái niệm uti possidetis juris, quyền tự quyết và chủ quyền được
xác định dựa trên sự thừa nhận tầm quan trọng của các đường biên giới
thuộc địa đối với bản sắc dân tộc, văn hóa, tôn giáo hay thậm chí cả các
đường biên giới trước thuộc địa. Do đó, quyền đối với lãnh thổ thuộc
địa đã tạo nên cơ sở pháp lí cho các quy tắc ASEAN về chủ quyền và không
can thiệp. Từ trước đến nay chưa một nước thành viên ASEAN nào thực sự
thách thức tính pháp lý của các đường biên giới Đông Nam Á sau thuộc
địa, ngoài trường hợp tuyên bố chủ quyền đối với North Borneo (bây giờ
là Sabah) năm 1962, khi đó Malina lập luận rằng Sultan của Sulu vẫn có
quyền đối với phía Đông nước Ma-lai-xi-a ở Mindanao. Nhưng mỉa mai thay,
khu vực được coi là đã tuyên bố chủ quyền này vẫn dựa vào các đường
biên giới thuộc địa của Anh. In-đô-nê-xi-a cũng tuyên bố chủ quyền với
Papua New Guinea của Hà Lan bởi vì Papua New Guinea là một phần của địa
phận Hành Chính Đông Ấn Hà Lan và cũng là một phần của vương quốc Tidore
trước khi Hà Lan thống trị.[30]
Minh
chứng cho việc các nước thành viên ASEAN coi uti possidetis juris là
nguyên tắc chính được phản ánh trong nhiều cuộc tranh cãi pháp lý khác
nhau về vấn đề tuyên bố chủ quyền biển trong khu vực. Ví dụ, tranh chấp
Sipadan – Ligitan giữa Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a, cả hai nước đều
trích dẫn hiệp định năm 1891 giữa Anh và Hà Lan, hiệp định phân định
đường biên giới giữa Hà Lan và Anh ở Borneo, như là cơ sở pháp lí cho
tuyên bố chủ quyền của họ trước ICJ năm 2001.[31]
Tương tự, Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-pore đưa ra các tuyên bố chủ quyền và
phản đối tuyên bố đối với Pulau Batu Putith hoặc Pedra Branca trước ICJ
năm 2007 cũng dựa trên các đường biên giới thuộc địa hành chính của
Anh. Lập luận để giải quyết tranh chấp đường biên giới giữa Thái Lan và
Căm-pu-chi-a, có biểu tượng đền cổ Preah Vihear mà ICJ năm 1962 đã quyết
định thuộc về phía Căm-pu-chi-a, cũng dựa trên việc nên căn cứ vào bản
đồ của Pháp vẽ đường biên giới hay ngôn từ của hiệp định năm 1904 miêu
tả đường biên giới.[32]
Cũng như các chuẩn mực của ASEAN được áp dụng chủ yếu trên đất liền,
quan niệm chủ quyền của ASEAN (hay Westphalian) về chủ quyền cũng được
áp dụng rộng rãi đối với đất liền, và vùng tiếp giáp với các lãnh hải.
Thực
ra, việc ASEAN nhấn mạnh nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội
bộ của các thành viên khác không chỉ tập trung vào sự xâm phạm lãnh thổ,
điều mà rất hiếm khi xảy ra ở khu vực này. Các nước quốc gia ASEAN lo
lắng đối với sự can thiệp “mềm”, ví dụ như phê bình tiêu chuẩn quản trị
của các quốc gia khác, buộc tội các quốc gia về vi phạm nhân quyền, phá
hoại các dân tộc hoặc các nhóm thiểu số, hay ủng hộ nhóm nổi loạn ở địa
phương và khích động sự bất bình trong nước nhằm xúi giục một cộng đồng,
hay các nhóm trong cộng đồng đó đứng dậy chống lại chính quyền. Do đó,
không can thiệp cũng có nghĩa là không ủng hộ các nhóm chống đối ở các
nước láng giềng về mặt chính trị, tinh thần, vật chất và giúp các nước
này dẹp các nhóm phá hoại.[33]
Như
vậy, quy tắc không can thiệp của ASEAN không chỉ liên quan đến việc tôn
trọng biên giới, mà còn coi cộng đồng, những người sống trong biên giới
đó là điểm mấu chốt. Như McCorquodale và Pangalangan đã nhấn mạnh, các
đường biên giới không chỉ phân định khu vực hay “chủ quyền nhà nước mà
còn xác định cả dân cư ở đó”.[34]
Theo đó, có thể lập luận rằng không gian vật lí hay các đường biên giới
địa lý thật sự trên đất liền không phải là mục tiêu chính của quy tắc
không can thiệp. Mục tiêu chính ở đây là cộng đồng dân cư bởi nhiều nước
thành viên ASEAN là thuộc địa mới giành được độc lập có dân cư được
hình thành nên bởi các tộc người với ngôn ngữ khác nhau. Các tộc người
này thường có chung dòng máu và có quan hệ tôn giáo với họ hàng với các
nước láng giềng, nay bị phân chia rẽ bởi đường biên giới thuộc địa. Vì
vậy, mục tiêu tối cao của quy tắc không can thiệp là không cho phép các
chủ thể bên ngoài lợi dụng tình trạng náo động hiện tại, hay tình trạng
náo động tiềm ẩn ở trong nước như vấn đề về nhân quyền, và bảo đảm rằng
chính quyền của nước đó không bị lật đổ bằng bạo lực.[35]
Do
đó, việc đơn phương mở rộng khu vực biển của các nước thành viên ASEAN
không thách thức chủ quyền quốc gia truyền thống vì một số lí do. Thứ
nhất, việc các nước ASEAN ngấm ngầm chấp thuận uti possidetis juris
khiến các tuyên bố chủ quyền đơn phương vào những năm 1960 và 1970 không
ảnh hưởng đến các đường biên giới đã được thiết lập, điều này được coi
là điểm cốt lõi của ASEAN về chủ quyền hay về lãnh thổ. Thứ hai, các khu
vực biển đang bị tranh chấp không có nhiều điểm dân cư. Lý do này quan
trọng do việc đơn phương mở rộng khu vực biển không thách thức quy tắc
không can thiệp của ASEAN cũng như các chỉ trích của tổ chức này đối với
việc tạo ra các nhóm chống đối trong nước và lật đổ chính phủ của các
nước láng giềng. Theo đó, quy tắc về chủ quyền và không can thiệp của
ASEAN chỉ áp dụng chủ yếu đối với lãnh thổ của các nhóm, ví dụ các đường
biên giới thừa kế từ Pháp, Anh, và Hà Lan được coi là bất khả xâm phạm.
Chủ quyền biển và việc tạo lập đường biên giới
Trái
với các đường biên giới lãnh thổ, các khu vựng rộng lớn ở Biển Đông và
Biển Celebes không có các đường biên giới thuộc địa. Thế kỉ 19 và đầu
thế kỉ 20 là thời kỳ thống trị của Anh trên biển cùng với việc nhấn mạnh
của nước này về tự do thương mại và tự do hàng hải. Chế độ biển mở đã
tồn tại được gần 300 năm vì các cường quốc về biển trên thế giới nhận
thấy rằng tự do hàng hải sẽ có lợi cho tất cả các bên. Chế độ biển mở
nghĩa là không có nước nào sở hữu biển, trừ vành đai duyên hải rất hẹp
thường rộng 3 hải lí. Do đó các đường biên giới biển thuộc địa ít khi mở
rộng quá 3 hải lí từ đường bờ biển. Tuy nhiên, điều này đã thay đổi
cùng với cải tiến công nghệ khai thác dưới đáy biển và sự phát triển về
số lượng của các quốc gia ven biển mới giành độc lập sau thời kỳ thuộc
địa. Các quốc gia mới này coi các biển gần kề là nguồn gốc quan trọng
của sự thịnh vượng. Mong muốn được khai thác biển trực tiếp yêu cầu
không chỉ việc tiếp cận với nguồn tài nguyên mong muốn mà khả năng loại
được các nước khác trong hoạt động khai thác, ví dụ khả năng thiết lập
chủ quyền và quyền sở hữu.[36]
Kết quả là các nước ven biển, bao gồm cả các nước Đông Nam Á đều muốn
mở rộng tuyên bố chủ quyền về lãnh hải từ giới hạn là 3 hải lí lên 6, 12
và thậm chí là 200 hải lí. Điều này giải thích tại sao các nước lại vội
vàng đơn phương “bảo vệ” biển vào những năm 1960, và việc cần phải
thiết lập một chế độ biển mới để khôi phục trật tự trên biển, mà cuối
cùng đã dẫn đến Công ước Luật biển 1982 của Liên hợp Quốc (UNCLOS).
Tuy
nhiên, UNCLOS đã không thể và không thiết lập chế độ sở hữu đối với
biển. Thay vào đó, UNCLOS đưa ra các điều khoản quy định về mở rộng và
tuyên bố chủ quyền biển sau khi chủ quyền đối với lãnh thổ được thành
lập. Kết quả là, không có đường biên giới biển nào thực sự tồn tại ở
Biển Đông. Việc phân biệt được giữa đường biên giới/ranh giới
biển(boundary or border) và phân giới (frontier) là quan trọng. Ranh
giới hay đường biên giới biển là đường phân định giới hạn về chính trị,
phân giới (frontier) có xu hướng linh động hơn, vì chúng bao gồm các khu
vực địa lí nơi mà các nước chưa thiết lập được sự kiểm soát toàn bộ về
mặt chính trị, hay đang trong tiến trình thực hiện điều đó. Do đó, phần
lớn các khu vực biển được tuyên bố chủ quyền khác nhau ở Đông Nam Á có
thể coi là các khu phân giới.
Có
4 bước cơ bản để tiến hành tạo đường biên giới. Đầu tiên, các nước sẽ
xác định phạm vi của các tuyên bố chủ quyền, như tuyên bố/miêu tả đường
biên giới. Nếu việc tuyên bố/miêu tả đường biên giới không bị tranh cãi
thì cuối cùng đường biên giới sẽ được vẽ lên bản đồ, sau đó coi như đã
được xác định. Tiếp theo, đường biên giới sẽ được coi là đã phân định
nếu các cột mốc biên giới được đặt trên đất liền, và các mốc chuyển
hướng, không bị tranh chấp, đã được đánh dấu lên bản đồ cho khu vực
biển. Quan trọng hơn, tranh chấp có thể sẽ xảy ra đối với cả đường biên
giới đã được xác định vì “những cắt nghĩa đối với các miêu tả khác nhau
về đường biên giới bằng lời nói hay bằng bản đồ”.[37]
Bước cuối cùng trong việc thiết lập quyền đối với đường biên giới đã
được phân định là quản lí hành chính lãnh thổ. Theo đó, hầu hết các chủ
thể tuyên bố chủ quyền mới chỉ xác định đường biên giới ở Biển Đông.
Thực ra, “ý nghĩa của luật quốc tế trong việc giải quyết tranh chấp có
vẻ hạn chế” trong khi bản thân UNCLOS cho rằng vấn đề chủ quyền đã được
giải quyết.[38]
Do đó, dù đã có các đường biên giới, Biển Đông vẫn chỉ được xác định
bởi các khu phân giới, có thể được định nghĩa như là một khu vực hay
“một dải đất phân cách các trung tâm của hai chủ quyền”.[39]
Theo
mạch tranh luận của “chủ quyền trung tâm” và “chủ quyền ngoại vi”, sự
đe dọa đối với chủ quyền ASEAN có thể được phân thành đe dọa đối với
chủ quyền quốc gia (sự đe dọa đối với khu trung tâm) và sự đe dọa đối
với biển ngoại vi hay khu phân giới biển. Ví dụ, trong một nghiên cứu
đối chiếu sự thống nhất của ASEAN khi phản ứng với việc Việt Nam đưa
quân vào Căm-pu-chi-a và việc Trung Quốc chiếm đóng Đảo Vành Khăn
(Mischief Reef – nd), Sharpe đã nhấn mạnh rằng, trong trường hợp sau,
việc “Trung Quốc xâm phạm là không rõ ràng [bởi vì] Đảo Vành Khăn là
lãnh thổ tranh chấp của Phi-líp-pin”.[40] Trái lại, ASEAN coi việc Việt Nam đưa quân Căm-pu-chi-a năm 1978 là sự vi phạm rõ ràng hai quy tắc chính của TAC
đó là cấm sử dụng vũ lực và can thiệp vào công việc nội bộ của nước
khác. Năm 1995, khi Phi-líp-pin biết được rằng Trung Quốc đã thiết lập
tiền đồn quân sự ở Đảo Vành Khăn, Manila chỉ đưa ra được một bản tuyên
bố khá mờ nhạt Cuộc họp các Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của ASEAN, thậm chí
bản tuyên bố đó còn không ám chỉ rằng Trung Quốc đã làm sai điều gì đó.[41]
Tất nhiên có thể là các nước thành viên ASEAN không muốn làm một cường
quốc đang mạnh lên như Trung Quốc trở nên xa lánh chỉ vì cuộc tranh cãi
biển nhỏ nhặt này.[42]Mặc
dù vậy, cũng rất có thể là do sự kiện Vành Khăn không gây tác động mạnh
đến ASEAN vì sự kiện này không gây tổn hại đến chủ quyền trung tâm của 1
thành viên ASEAN.
Dù
cho Phi-líp-pin phản đối, Trung Quốc vẫn tiếp tục mở rộng và phát triển
cơ sở quân sự trên Đảo Vành Khăn trong khi ASEAN giữ im lặng, không
giống việc ASEAN đưa ra quan điểm mạnh mẽ và thống nhất đối với việc
Việt Nam đưa quân vào Căm-pu-chi-a, sự kiện liên quan đến hai nước đều
không phải là thành viên ASEAN. Nói cách khác, việc Việt Nam đưa quân
vào Căm-pu-chi-a vi phạm điều “chủ quyền trung tâm” của một quốc gia
Đông Nam Á, trong khi Đảo Vành Khăn chỉ có thể được xem là thách thức
đối với khu phân giới, hay “ngoại vi” của một thành viên ASEAN. Hơn nữa,
tranh chấp Quần đảo Trường Sa không tạo nên vấn đề “đe doạn chế độ” đối
với các nước ASEAN.[43]
Sự thừa nhận mờ nhạt của ASEAN rằng đường biên giới biển trên thực tế
chính khu phân giới được thể hiện qua các nỗ lực của In-đô-nê-xi-a trong
việc phân định và quản lí các đảo xa sau khi ICJ quyết định Sipadan và
Ligitan thuộc về Ma-lai-xi-a . Mặc dù theo hầu hết các nguồn thì năm
2001 In-đô-nê-xi-a có 15 000 đảo, nhưng sau khi mất Sipadan và Ligitan,
nhưng chính quyền In-đô-nê-xi-a tuyên bố rằng nước này có hơn 17 000
đảo. Theo sau lời tuyên bố đó là động thái đặt tên và đăng kí 9 000 đảo
với Liên Hợp Quốc.[44] Hơn nữa, Jakarta
cũng đã khuyến khích người dân In-đô-nê-xi-a chuyển đến và định cư ở
các đảo xa vì “việc mất thêm các đảo gây nguy cơ phải vẽ lại các đường
biên giới lãnh thổ của quần đảo”.[45]
Hơn nữa, một chính trị gia cao cấp của In-đô-nê-xi-a đã coi vụ va chạm
giữa thuyền chiến của In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a ở Ambalat năm 2005 là
biểu hiện của “sự yếu kém về mặt pháp lý đối với các đường biên giới
ngoài xa của In-đô-nê-xi-a” và nhấn mạnh rằng “đây là vấn đề về chủ
quyền của In-đô-nê-xi-a. Chúng ta phải bảo đảm chủ quyền này”.[46]
Việc
hai loại chuẩn mực về chủ quyền – một loại áp dụng cho đất liền và loại
kia áp dụng cho khu vực phân giới biển – cùng tồn tại trong khu vực
ASEAN giải thích tại sao các nước ở ASEAN có thể vi phạm các chuẩn mực
đã được chấp thuận của TAC. Có lẽ Ma-lai-xi-a là nước thành viên ASEAN
dám vi phạm nhiều nhất. Phi-líp-pin đã cảm thấy bị lừa dối khi
Ma-lai-xi-a chiếm đóng Bãi Thám Hiểm và Đá En ca năm 1999, hành động
được coi là đã đi ngược lại tuyên bố của ASEAN năm 1992 về Biển Đông,
tuyên bố nhấn mạnh việc giải quyết tất cả các xung đột một cách hòa
bình.[47]
Quan
trọng không kém là việc các chuẩn mực của ASEAN về tham vấn và đồng
thuận cũng có vẻ như thất bại trong việc giảm căng thẳng ở Biển Đông. Vì
quân sự của Phi-líp-pin quá yếu nên không thể chống lại Trung Quốc, sau
đó là Ma-lai-xi-a nên nước này đã nhờ đến đường lối ngoại giao trong
khu vực và quốc tế để giải quyết các vụ xâm phạm “chủ quyền” của
Phi-líp-pin. Mặc dù nước này đã tìm kiếm được một bản tuyên bố mờ nhạt
về giải quyết xung đột đảo Bãi Vành Khăn một cách thân thiện, từ Cuộc
họp các Bộ trường Bộ Ngoại giao ASEAN năm1995 nhưng đến năm 1999 sự
thống nhất của ASEAN về tình hình ở Quần đảo Trường Sa trở nên “mỏng
manh”.[48]Ma-lai-xi-a
đã ngăn cản các nỗ lực bàn bạc về việc phát triển ở Quần đảo Trường Sa
của Phi-líp-pin trong Cuộc gặp các Bộ trưởng Bộ Ngoại giao năm 1999 và
nhấn mạnh rằng chỉ nên có cuộc bàn thảo song phương. Ma-lai-xi-a cũng
đứng về phía Trung Quốc ở ARF với lập luận rằng ARF không phải là “nơi
phù hợp” để bàn thảo tranh chấp Biển Đông.[49] Nếu thể hiện điều gì thì đây là một ví dụ về sự rạn nứt của ASEAN trong vấn đề liên quan đến chủ quyền ở khu vực ngoại vi.
Thất bại trong hợp tác biển
Từ
trước đến nay nỗ lực bền bỉ trong việc thúc đẩy hợp tác biển đem lại
rất ít kết quả ngoại trừ vùng nước đóng có giới hạn của Vịnh Thái Lan,
dù cho ASEAN đã chính thức cho rằng hợp tác trên biển là trụ cột chính
trong nỗ lực thiết lập một Cồng đồng An ninh ASEAN (ASC). Quan điểm này
lần đầu được đề cập đến trong đoạn 5, phần A của Tuyên bố trong Hiệp ước
ASEAN II năm 2003 (Hiệp ước Bali II), đặc biệt nhấn mạnh rằng “hợp tác
trên biển giữa các nước thành viên ASEAN sẽ đóng góp cho sự phát triển
của ASC”.[50]
Tại cuộc gặp các Bộ trưởng Bộ Ngoại giao ASEAN ở Jakarta tháng 6 năm
2004, hợp tác biển của ASEAN tiếp tục được nhấn mạnh. Cuộc họp nêu bật
rằng hợp tác biển là “rất cần thiết đối với sự phát triển của ASC” và
đồng ý xem xét việc thành lập một diễn đàn về biển.[51]
Một giả định được đưa ra là, bởi vì các vấn đề biển luôn luôn là các
vấn đề xuyên biên giới vì vậy sẽ có các lợi ích chung tồn tại ở biển, về
lí thuyết điều này sẽ khiến cho việc thể chế hóa các hợp tác về biển ở
Đông Nam Á trở nên dễ dàng và khả thi hơn.[52]Tuy
nhiên, dù đã cố gắng hết sức, nỗ lực của khu vực nhằm thúc đẩy hợp tác
biển và giảm căng thẳng giữa các quốc gia chỉ đạt được thành công hạn
chế, trừ thành công ở Vịnh Thái Lan.
Nỗ lực nổi bật nhất trong việc thúc đẩy hợp tác biển của khu vực là loạt hội thảo do Indonesia về quản lý các xung đột tiềm ẩn trên Biển Đông, hội thảo đầu tiên diễn ra vào năm 1990.[53]Mục
đích của loạt hội thảo về Biển Đông là giảm căng thẳng giữa các nước
yêu sách chủ quyền đối với Quần đảo Trường Sa thông qua thúc đẩy hợp tác
thiết thực và đặt vấn đề hóc búa về chủ quyền sang một bên. Tuy nhiên,
dù đã cố gắng rất nhiều, các hội thảo về Biển Đông do In-đô-nê-xi-a tổ
chức, và được tài trợ bởi Cananda đã không giúp các nước tuyên bố chủ
quyền làm việc với nhau một cách có ý nghĩa. Một trong những vật cản đối
với sự hợp tác này ngắn gọn là do việc các nước như Ma-lai-xi-a hầu như
rất vui vẻ với hiện trạng của Biển Đông, trong khi các nước khác chưa
sẵn sàng để đặt hợp tác trước các tuyên bố về chủ quyền. Kết quả là, năm
2001 Canada quyết định ngừng tài trợ cho hội thảo về Biển Đông vì “thiếu kết quả cụ thể”,[54] trong khi Hashim Djalal, người đưa ra sáng kiến về cuộc hội thảo được cho là đã “không bi quan” từ năm 1998.[55] Đặc biệt, vấn đề chủ quyền được cho là nhân tố chính khiến cho các nước yêu sách chủ quyền không thể hợp tác.
Sẽ
rất khó để có thể đạt được hợp tác trên Biển Đông vì các nước tin rằng
sự giàu có của biển có thể sẽ làm giàu cho nền kinh tế của nước sở hữu
khu vực biển “chính xác”. Nói ngắn gọn, quyền sở hữu các khu vực biển
được cho là giàu có vẫn bị coi là thuật ngữ được ăn cả, ngã về không.
Mặc dù nỗ lực ban đầu của Trung Quốc, Việt Nam và Phi-líp-pin trong việc
hợp tác khai thác địa chấn ở Biển Đông có vẻ như chứng minh được rằng
hợp tác thiết thực là khả thi, nhưng các sự kiện sau đó lại cho thấy
điều ngược lại. Phi-líp-pin và Trung Quốc kí kết Hiệp định song phương
năm 2004 về Khai thác dầu chung ở Biển Đông. Năm 2005, Việt Nam quyết định tham gia khảo sát cùng với Trung Quốc, và Philipipin, biến hiệp định đó thành hiệp định ba bên.[56]
Thỏa thuận Khảo sát Địa chấn Biển chung (the Joint Marine Seismic
Undertaking, JMSU) ban đầu được ca ngợi như bước tiến quan trọng và là
bước ngoặt cho ngoại giao, là biểu hiện của “mức độ phát triển của niềm
tin và lòng tin giữa các nước tuyên bố chủ quyền ở [Biển Đông] và cam
kết của các nước trong việc tìm kiếm các giải pháp hòa bình”.[57]
Tuy nhiên, sau đó hiệp định này bị chỉ trích như là một biểu hiện khác
của mối quan hệ đang rạn nứt giữa các thành viên ASEAN thay vì là một
bằng chứng của lập trường thống nhất đối với ASEAN đối với Trung Quốc.[58]
Nhưng
sự phản đối mạnh mẽ nhất đối với hiệp định này lại xuất phát từ chính
trong nước Phi-líp-pin. Trong khi sự phản đối này có thể liên quan rất
nhiều đến chính trị nội bộ, thì hầu hết những người phản đối lại chỉ
trích và coi JMSU là bán đứng chủ quyền của Phi-líp-pin. Thượng Nghị sĩ
đảng đối lập, ông Antonio Trillanes IV thậm chí còn cáo buộc tổng thống
Arroyo về ‘tội phản quốc khi ký kết hiệp định này với Trung Quốc và Việt
Nam’.[59]
Các nhà phê bình khác thì thấy rằng bởi vì khu vực khảo sát JMSU chiếm
80% Vùng Đặc quyền Kinh tế của Phi-líp-pin, nên Hiệp định ám chỉ rằng
Phi-líp-pin ‘thừa nhận khu vực này (khu vực có liên quan) là khu vực bị
tranh chấp’.[60]Do
đó, sẽ làm yếu đi yêu sách chủ quyền của quốc gia này ở Biển Đông. Việc
ba nước ở Biển Đông nỗ lực hợp tác một cách thiết thực đã gây ra rất
nhiều tranh cãi, cho thấy vấn đề chủ quyền vẫn là một vấn đề khó giải
quyết. Mặc dù những người ủng hộ cho hợp tác này có thể tranh luận rằng
sự bất đồng liên quan đến sự phản đối trong nước đối với chính quyền
Arroyo nhiều hơn, nhưng những lời buộc tội về việc bán đứng chủ quyền
của Phi-líp-pin không thể bị làm ngơ.
Tại sao Vịnh Thái Lan lại là một ngoại lệ
Những
người đề xuất hợp tác thiết thực thường đưa Vịnh Thái Lan ra làm ví dụ
về việc làm thế nào “ý chí chính trị” có thể vượt qua được vấn đề của
yêu sách chủ quyền chồng chéo ở Biển Đông.[61]Diễn
giải của riêng tôi về những phát triển tích cực ở Vịnh Thái Lan là mặc
dù ý chí chính trị quan trọng, thì hầu hết các vấn đề về chủ quyền ở
Vịnh đã được giải quyết do các nước ven biển đã chấp nhận nguyên tắc
then chốt uti possidetis juris. Thực dân Pháp và Anh đã cho phép Thái
Lan tiếp tục tồn tại một cách độc lập bởi vì các nước này cần trung gian
nằm giữa các khu vực quyền lợi của họ ở Đông Nam Á.[62]Hiệp định Anh – Pháp năm 1904 rõ đã “quyết định phạm vi ảnh hưởng của Anh và Pháp ở Kra Isthmus và bán đảo Ma-lai-xi-a”.[63]
Hiệp định Anh – Siam năm 1909 không chỉ nhượng lại bốn bang phía Nam
của Thái cho Anh, mà còn vẽ lên, trên giấy mực, giới hạn của đường biên
giới giữa Thái Lan và Ma-lai-xi-a thuộc địa.[64]Điều
quan trọng là, Nghị định thư về Biên giới được đính kèm vào Hiệp định
năm 1909 cũng bao gồm sự phân định, hoặc chỉnh sửa ranh giới lãnh hải
giữa Thái Lan và Ma-lai-xi-a của Anh.[65]
Người Pháp và người Anh cũng đặt giới hạn đường biên giới cho Thái Lan,
Căm-pu-chi-a và Nam Kỳ. Mặc dù sự phân định này hết sức không công bằng
nhưng sau khi thoát khỏi thực dân Pháp và Anh, Thái Lan, Ma-lai-xi-a,
Việt Nam và Căm-pu-chi-a đều đã chấp nhận các đường biên giới này như là
đường biên giới của chính các nước đó.
Ví
dụ, Hiệp định về Dòng nước Lịch sử giữa Việt Nam và Căm-pu-chi-a năm
1982 một lần nữa đã giải quyết tranh chấp chủ quyền giữa hai nước đối
với các đảo khác nhau ngoài bờ biển bằng cách truy lại các đường biên
giới hành chính thuộc địa trước đây. Theo Hiệp định này, cả hai nước đã
chấp nhận đường gọi là đường Brievie năm 1939 của Chính quyền thực dân
Pháp, lúc đó đường này đã xác định rằng “một số đảo nhỏ” nằm dưới quyền
pháp lý của Căm-pu-chi-a trong khi đảo Phú Quốc thì thuộc về Nam Kỳ,
Việt Nam ngày nay.[66]Dù Thái Lan đã phản đối ngoại giao, thì Hiệp định vẫn đã giải quyết tranh chấp chủ quyền mang tính quyết định giữa Việt Nam và Căm-pu-chi-a.[67]
Về
cơ bản, các quốc gia ở Vịnh Thái Lan đã đi trước một bước các bên yêu
sách Biển Đông trong việc quyền sở hữu chủ quyền đối với lãnh thổ, gồm
cả các đảo nhìn chung không bị tranh chấp vì nguyên tắc uti possidetis
juris. Clive Schofield gợi ý dù có tranh chấp biển một lý do tại sao các
hiệp định về cùng chia sẻ tài nguyên trên Vịnh lại thành công, là do có
nguồn dự trữ hidro đã được chứng thực ở Vịnh. Hiệp định chung không chỉ
tạo điều kiện cho việc tiếp cận các nguồn này, mà còn loại trừ được khả
năng một nước cuối cùng chỉ sở hữu được khu vực không có nguồn tài
nguyên nào cả.[68]Nói cách khác, lợi ích tuyệt đối là trên hết.
Tuy
nhiên, nhiều “xung đột” ở Vịnh mà Schofild nói đến là các xung đột về
kĩ thuật chứ không phải xung đột về chủ quyền. Các xung đột này bao gồm
các tranh cãi kĩ thuật về việc sử dụng điểm chuyển hướng hay đường cơ sở
nào làm cơ sở cho yêu sách chủ quyền trên biển của một nước. Ví dụ,
tranh chấp Vịnh giữa Thái Lan và Ma-lai-xi-a tập trung vào việc xem Ko
Losin của Thái Lan là đá hay đảo, điều sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc
Thái Lan có thể yêu sách chủ quyền trong khu vực biển rộng bao nhiêu.[69]Nếu
Ko Losin là đá Ma-lai-xi-a tuyên bố, thì Ko Losin chỉ tạo ra lãnh hải
12 hải lí cho Thái Lan. Tuy nhiên Thái Lan lập luận rằng Ko Losin là một
đảo, khi đó nó sẽ tạo thêm vào cho cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa cho Thái Lan. Cũng như vậy, các tuyên bố trùng nhau của
Ma-lai-xi-a và Việt Nam
trong Vịnh là do các nước đã sử dụng các đảo khác nhau làm điểm cơ sở
để mở rộng tuyên bố chủ quyền đối với thềm lục địa. Ví dụ, Ma-lai-xi-a
đã sử dụng các đảo ngoài khơi để tạo ra một loạt các khu biển trong khi
không đếm xỉa đến đảo Hòn Đá (A: Rocky Island – nd) của Việt Nam như là một điểm cơ sở pháp lí.[70]Tranh
chấp giữa Ma-lai-xi-a và Việt Nam không phải về vấn đề nước nào sở hữu
các đảo mà về việc đảo nào được sử dụng làm điểm kĩ thuật cho việc mở
rộng thềm lục địa của mỗi nước, vì nó sẽ ảnh hưởng đến việc mỗi nước có
thể tuyên bố chủ quyền đối với thềm lục địa rộng bao nhiêu.
Do
đó, tóm lại, tôi cho rằng hợp tác thiết thực và phân định các đường
biên giới ở Vịnh của Thái Lan sẽ dễ đạt được hơn bởi vì nó không liên
quan đến các vấn đề chủ quyền then chốt, không như ở Biển Đông. Tranh
chấp biển xảy ra không phải do tranh chấp chủ quyền đối với đất liền và
các đảo, mà về việc một vùng biển đã được tuyên bố và phân định lãnh thổ
có thể rộng bao nhiêu theo UNCLOS. Do đó, các cuộc tranh cãi này luôn
chủ yếu tập trung vào vấn đề pháp lý và kĩ thuật. Tuy nhiên, UNCLOS
không đưa ra hướng dẫn chính xác để xử lý các yêu sách biên giới biển
chồng lấn. Thay vào đó, UNCLOS chỉ buộc các bên đang tranh chấp phải sử
dụng luật quốc tế để “đạt được giải quyết công bằng”. Tuy nhiên, bởi vì
có rất ít tranh chấp về vấn đề cốt lõi của chủ quyền ở trên lãnh thổ,
nên ở Vịnh các yêu sách chủ quyền biển đối với biển không bị quân sự
hóa.
Kết luận
Điều
khiến cho lĩnh vực biển khác với lĩnh vực đất liền đó là tranh chấp về
chủ quyền biển rất gay gắt. Cùng với tranh chấp, các nước thành viên
ASEAN cũng dính líu đến “tiến trình xung đột” liên quan đến việc quân sự
hóa các tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Tiến trình này bao gồm cả việc
công khai triển khai các đơn vị quân sự, đối đầu giữa các hải quân trong
khu vực tranh chấp và ngấm ngầm sử dụng các biện pháp đe dọa. Những
người theo thuyết kiến tạo lập luận rằng “tiến trình xung đột” này chưa
trở thành chiến tranh công khai cho thấy phương cách ASEAN và các quy
tắc của TAC
vẫn còn hiệu lực và hoạt động tốt. Tuy nhiên, vấn đề còn tồn đọng là
trên biển các đối đầu quân sự vẫn đang xảy ra, trái ngược với các nỗ lực
giải quyết các vấn đề trên đất liền một cách hợp tác và hòa bình. Vì
các đe dọa tiềm ẩn, Ma-lai-xi-a đang nỗ lực triển khai toàn bộ hiệp định
INCSEA với tất cả các láng giềng. Ngụ ý của tiến trình xung đột biển
trong khu vực ASEAN là các nỗ lực thành lập hợp tác trên biển, thậm chí
hợp tác thiết thực và đặt vấn đề chủ quyền sang một bên rất có thể sẽ
thất bại. Như trường hợp JMSU đã cho thấy, Hiệp định Hợp tác thiết thực
có thể bị xem là đã làm yếu đi tuyên bố chủ quyền của một nước. Mặc dù
lãnh đạo các nước có thể đồng ý hợp tác thực sự, thì các nhà phê bình ở
các nước thành viên ASEAN dân chủ hơn sẽ có thể chỉ trích bất kì hiệp
đình nào và coi đó là sự “bán đứng”. Hơn thế nữa, các nước đã khai thác
được nguồn dự trữ dầu và khí ở các khu vực biển tranh chấp rất có thể sẽ
bị coi là không thể có sự hợp tác thực sự. Tóm lại, tại sao họ nên chia
sẻ nguồn tài nguyên tìm được “thuộc chủ quyền” của họ để thúc đẩy hợp
tác đa phương trong khu vực Đông Nam Á hay các khu vực biển tranh chấp
khác?
Những
người đề xướng ý tưởng hợp tác thực sự về cơ bản đề xuất giải pháp kĩ
thuật theo cách giải quyết tranh chấp của ASEAN, đó là đặt các vấn đề
chính trị gây nhiều tranh cãi sang một bên và tập trung vào hợp tác kĩ
thuật. Tuy nhiên, đề xuất này đã không tính tới sự thật là vấn đề then
chốt của Biển Đông là vấn đề chính trị cơ bản về chủ quyền của một nước.
Trừ Vịnh Thái Lan nơi mà vấn đề cơ bản về chủ quyền đã được giải quyết,
ngoài ra chỉ có các trường hợp tương đối nhỏ nhặt mới có thể được giải
quyết. Như Vịnh Thái Lan cho thấy, câu hỏi chính trị đối với chủ quyền
của mỗi nước phải được giải quyết trước khi đến được với các hợp tác có ý
nghĩa như khai thác chung và khai thác tài nguyên, hay phát triển khu
vực chung với lượng dầu và khí được tìm thấy. Do đó, triển vọng cho việc
hợp tác có ý nghĩa thiết thực ở Biển Đông không mấy khả quan khi xét
đến vấn đề chính trị cơ bản – chủ quyền biển – phải được giải quyết.
Bản gốc : J.N.Mak, Sovereignty in ASEAN and the problem of maritime cooperation in the South China Sea
Bài trong cuốn " Security and International Politics in the South China Sea: Towards a cooperative management regime", Chủ biên: Sam Bateman và Ralf Emmers, 2009
Người dịch: Nguyễn Thị Tuyên
(Đề
nghị chỉ được dẫn đường link mọi thông tin, bài viết trên
www.nghiencuubiendong.vn, không cắt đăng lại khi chưa có sự đồng ý của
Ban Biên tập Website)
[1] Timo Kivimaki, ‘The Long Peace of ASEAN’, [Hòa Bình Lâu Dài ở Khu Vực ASEAN], Journal of Peace Research 38, 1 (2001), tr.5-55
[2]
Amitav Acharya, ‘Ideas, Identidy, and Institution-Buiding: from the
“ASEAN way” to the “Asia-Pacific way’?’[Quan niệm, bản sắc, và xây dựng
thể chế: từ “phương cách ASEAN” đến “cách thức châu Á-Thái Bình
Dương”?,’] Pacific Review 10, 3 (1997), tr. 319-346; Nikolas Busse,
‘Constructivism and Southeast Asian Security’, [Chủ nghĩa kiến tạo và An
ninh Đông Nam Á], Pacific Review 12, 1(1999), tr. 39-60
[3]
Tobias Nischalke, ‘Does ASEAN Measure Up? Post-Cold War Diplomacy and
the Idea of Regional Community’, [ASEAN có cân nhắc không? Nền ngoại
giao sau Chiến Tranh lạnh và Quan niệm Cộng đồng Khu vực] Pacific Review
15, 1 (2002), tr. 110
[4] Shaun Narine, ‘The English School and ASEAN’, [Trường phán tiếng Anh và ASEAN] Pacific Review 19, 2 (2006), tr. 203-204.
[5] Kivimaki, op. cit, tr. 11-12.
[6]
Christopher Chung, ‘The Spartly Islands Dispute: Decision Units and
Domestic Politics’, [Tranh chấp quần đảo Trường Sa: các đơn vị ra quyết
định va chính trị nội bộ] luận án tiến sỹ không xuát bản, Học viện Lực
lượng Quốc phòng Australia, trường đại học New South Wales, 2004, tr.
310. Chi tiết về sự phát triển trong các tuyên bố về Biển Đông ở tr.
310-348. Xem www.library.unsw.edu.au/~thesis/adt-ADFA/public/adt-ADFA20040722.083333/, truy cập ngày 12, tháng 1 năm 2006.
[7] ‘Thai-Burma border talks positive’, [Thương lượng biên giới giữa Thái Lan và Mi-an-ma khả quan] BBC News, ngày 4 tháng 4 năm 2001, tại http://news.bbc.co.uk/2/hi/asia-pacific/1255640.stm, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2003.
[8]
Clifford McCoy, ‘Capitalizing the Thai-Mi-an-mar Border’, [Lợi dụng
Biên giới Thái Lan và Mi-an-ma] Asia Times Online, ngày 21 tháng 6 năm
2007, tại www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/IF21Ae02.html, truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2008.
[9]
‘Salween Hydropower Project (Thai-Burma Border) Briefing Paper’, [Công
trình nhà máy thủy điện Salween (biên giới Thái Lan-Mi-an-ma) nghiên cứu
vắn tắt] Foundation for Ecological Recovery, tháng 6 năm 2003, tại www.terraper.org/articles/BriefingSalween-Thai-BurmaJune03.pdf, truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2005.
[10]
Frances Harrison, ‘Heritage Bid Unites Border Rivals’, [Giá trị của di
sản gắn kết các kẻ thù biên giới với nhau] BBC News, ngày 4 tháng 3 năm
2008, tại http://news.bbc.co.uk/2/hi/in_depth/7277928.stm , truy cập
ngày 19 tháng 3 năm 2008.
[11]
Diễn văn khai mạc của ông Dato’ Sri Mohd Najib Bin Tun Hj Abdul Razak
đáng kính, phó Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của Ma-lai-xi-a,
đồng chủ tọa tại phiên họp Ban Biên Giới chung (GBC) lần thứ 47 giữa Thái Lan và Ma-lai-xi-a, tại Kuala Lumpur, ngày 21 tháng 6 năm 2007, tại www.mod.gov.my/index.php?option=com_content&task=view&id=68&Itemid=203, truy cập ngày 19, tháng 3 nưm 2008.
[12]
Jonathan Kent, ‘Ma-lai-xi-a Aceh Policy Criticised: Ma-lai-xi-a Does
Not Recognize International Treaties On Refugees’, [chính sách dành cho
người Aceh của Ma-lai-xi-a bị chỉ trích: Ma-lai-xi-a không tán thành các
Điều ước Quốc tế về người tị nạn] BBC News, ngày 2 tháng 4 năm 2004.
[13]
Bài phát biểu của Thủ tướng Ma-lai-xi-a, Abdullah Ahmad Badawi tại buổi
tham vấn hàng năm giữa Cộng hòa In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a, ở Putra
Jaya, ngày 11 tháng 1 năm 2008, tại www.kln.gov.my/?m_id=25&vid=594, truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2008.
[14]
Lee Yong Leng, ‘The Razor’s Edge: Boundaries and Boundary Disputes in
Southeast Asia’, [Lưỡi dao: Biên giới và tranh chấp Biên giới ở Đông Nam
Á] Các chú thích về bài nghiên cứu và thảo luận [sic] Bài nghiên cứu số
15, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Xinh-ga-po, 1980, tr.6
[15] Christopher Chung, op.cit.,tr.116.
[16]
Michael Richardson, ‘On Eve of Annual Talks, ASEAN Members Are Split
Over Spratlys Dispute’, [Trước đêm của cuộc đàm phán hàng năm, các nướ
thành viên ASEAN bị chia rẽ vì tranh chấp Biển Đông] International
Herald Tribune, ngày 23, tháng 7, năm 1999.
[17]
Để có được đầy đủ sự mô tả về việc chiếm đóng của Ma-lai-xi-a trên hai
khu vực mới của quần đảo Trường Sa năm 1999, xem Christopher Chung, đã
dẫn, tr.122-145.
[18]
Clive Schofield và Ian Storey, ‘Energy Security and Southeast Asia: The
Impact on Maritime Boundary and Territorial Disputes’, [An ninh năng
lượng và Đông Nam Á: Tác động đối với đường biên giới Biển và tranh chấp
Đất liền], Harvard Asia Quarterly (mùa thu năm 2006), tại www.asiaquarterly.com/index.php?option=com_content&task=view&id=160&Itemid=1,
truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2007. Tác giả cũng cung cấp chi tiết niên
đại của xung đột giữa Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a đối với Ambalat.
[19]
‘Govt Urged to Get tough in Territory Dispute’, [Chính phủ thúc mạnh
tay đối với tranh chấp lãnh thổ’, Jakarta Post, ngày 7, tháng 3 năm
2005.
[20] ‘Ma-lai-xi-an Warships Trespass RI Waters in Ambalat’, Antara, ngày 27 tháng 2 năm 207.
[21]
Richel Langit, ‘Indonesia: Island in the STORM’, [In-đô-nê-xi-a: Các
đảo trong bão] Asia Times Online, ngày 21 tháng 12 năm 2002, tại www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/DL21Ae01.html, truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2003
[22]
‘Ma-lai-xi-a: Human Rights at Risk in Mass Deportation of Undocumented
Migrants’, [Ma-lai-xi-a: Nhân quyền đang bị de dọa trước việc trục xuất
hàng loạt dân nhập cư bất hợp pháp] Amnesty International, tháng 12 năm
2004, tại www.amnestyusa.org/news/document.do?id=a41fbb92a536608380256e7c0062b8af, truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2006.
[23] I Made Andi Arsana, ‘Gosong Niger: Is it Another Ambalat?’ [Gosong Niger: Có phải là một Ambalat khác?] Geopolitical Boundaries, ngày 3 tháng 3 năm 2006, tại http://geo-boundaries.blogspot.com/2006/03/gosong-niger-is-it-another-ambalat.html, truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2006.
[24]Celeste
Lopez và James Conachy, ‘Spratlys Continue to Loom as Asian
Flashpoint’, [Quần đảo Trường sa tiếp tục là điểm nóng ở châu Á] ngày 13
tháng 12 năm 1999, World Socialist Web Site, tại www.wsws.org/articles/1999/dec1999/spara-d13.shtml, truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2001.
[25] Personal Interview, ngày 10 tháng 3 năm 2008.
[26] MALINDO Prevention of Sea Incidents Cooperative Guidelines, introduction 1a, 1b.Kula Lumpur, 2001. Emphasis added.
[27] Michael Leifer, International Traits of the World, tập 2: Malacca, Xinh-ga-po, and Indonesia (Alphen aan den Rijn: Sijthoff và Noordhoff. 1978), tr. 10-11.
[28] Burkina Faso vs. Republic of Mali, ICJ Reports 1986, 565, đã dẫn trong Enver Hasani, ‘Uti Possidentis Juris: From Rome to Kosovo’, International Law Under Fire. Fletcher Forum of World Affairs, Summer/Fall, 2003, tại http://operatioon Kosovo.kentlaw.edu/symposium/resources/hasani-fletcher.dtml, truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2004.
[29] Enver Hasani, đã dẫn
[30] Anthony L. Smith và Angie Ng, ‘Papua: Moving Beyond Internal Colonialism?’ [Papua: vượt lên trên chủ nghĩa thực dân nội bộ?] New Zealand Journal of Asian Studies (tháng 12, năm 2002), tr. 92-97.
[31]
Diễn văn khai mạc của đại diện bên Ma-lai-xi-a, Tan Sri Abdul Kadir
Mohamad, tổng thư ký, bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Tòa án Công lý Quốc tế;
trường hợp giữa Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a lên quan đến chủ quyền đối
với Pulau Ligitan và Pulau Sipadan: áp dụng trong việc cho phép
Phi-líp-pin can thiệp, The Hague, ngày 26, tháng 6, năm 2001; Diễn văn
khai mạc của đại diện phía Phi-líp-pin, tiến sĩ N. Hasan Wirajuda, bộ
trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng Hòa In-đô-nê-xi-a, The Hague, ngày 3
tháng 6 năm 2002, www.indonesia.nl/statements.php?rank=6&art_cat_id=10.
[32] Lee Yong Leng, op. đã dẫn, tr. 17.
[33]
Amitav Acharya, Sovereignty, Non-Intervention, and Regionalism, [Chủ
quyền, Không can thiệp, và Chủ nghĩa khu vực] CANCAPS papier số 15
(Tonronto: York Centre for International and Security Series, York
University, tháng 10 năm 1977), tr. 3.
[34]
Robert McCorquodale và Raul Pangalangan, ‘Pushing back the Limitations
of Territorial Boundaries’, [Thúc đẩy lại giới hạn của đường biên giới
lãnh thổ] European Journal of International Law 12, 5 (ngày 1 tháng 12
năm 2001), tr. 874, sự nhấn mạnh của tôi.
[35] Achrya, op. đã dẫn, tr. 9.
[36]
Daniel Moran, ‘The International Law of the Sea in a Globalized World’,
[Luât biển trong một thế giới toàn cầu hóa] trong Sam J. Tangredi
(bản), Globalization and Maritime Power (Washington, DC: Institute for National Strategic Studies, NationalDefenseUniversity, 202), tr.221-239.
[37] Alastair Lamb, Asian Frontiers: Studies in a Continuing Problem (New York: Frederick A. Prager, 1968), tr. 5.
[38] Leni Stenseth, ‘The Imagined China Threat in the South China Sea’,
[Mối đe dọa Trung Quốc tưởng tượng ở Biển Đông] Centre for Development
and the Enviroment, University of Oslo.(không có ngày tháng), tr. 40.
[39] Alastair Lamb, op. đã dẫn, tr. 6.
[40] Samuel Sharpe,’An ASEAN Way to Security Cooperation in Southeast Asia?’ [Các thức ASEAN trong hợp tác an ninh ở Đông Nam Á] Pacific Review ngày 16 tháng 2 năm 2003, tr. 239.
[41] ‘Recent Development in the South China Sea (1995)’, [Tiến triển gần đây ở Biển Đông] ngày 18 tháng 3 năm 1995, tại www.aseansec.org/5232.html, truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2001
[42]
Leszek Buszynski, ‘Realism, Institutionalism, and Philippine Security’,
[Chủ nghĩa hiện thực, thuyết thể chế và an ninh của Phi-líp-pin] Asian
Survey,42, 2 (Tháng 5/tháng 6 năm 2002), tr. 491.
[43]
Điều này trực tiếp trái với Trung Quốc, khi một học giả đã lập luận
rằng quần đảo Trường Sa đã trở thành một phần của bản sắc dân tộc Trung
Quốc, và do đó ‘considered an inseparable part of the motherland, and
occupation by others is interpreted as encroachments on Chinese
territory’ [được coi là một phần không thể tách rời của Đại lục, và bất
cứ hành động chiếm đóng nào đều bị coi là xâm phạm lãnh thổ của Trung
Quốc] (Stenseth, op. đã dẫn, tr. 40).
[44]
‘Indonesia to Register Small Islands’ Names to UN on August 18’,
[In-đô-nê-xi-a đăng ký tên các quần đảo nhỏ với Liên Hợp Quốc ngày 18
tháng 8] Tempointeraktif, ngày 23 tháng 7 năm 2007, tại www.tempointeraktif.com/hg/nasional/2007/07/23/brk,20070723-104181,uk.html, truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2007.
[45]
Meidyatama Suryodiningrat, ‘RI Must Make Presence Felton Island’,
Jakarta Post, ngày 13 tháng 3 năm 2006 (điều mà tôi nhấn mạnh).
[46] ‘MPR
Speaker: Indonesia’s Outer Borders Are Weak’, [ Biên giới bên ngoài của
In-đô-nê-xi-a yếu] Tempointeraktif, ngày 13 tháng 4 năm 2005 (bổ sung
sự nhấn mạnh) tại www.tempointeraktif.com/hg/nasional/2005/04/13/brk,20050413-04,uk.html, truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2001.
[47] ‘ASEAN Declaration on the South China Sea’, Manila, Phi-líp-pin, ngày 22 tháng 7 năm 1992, tại www.aseansec.org/1196.htm, truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2001.
[48] Christopher Chung, đã dẫn. tr. 145.
[49] Như trên.
[50] Tuyên bố của Hiệp ước ASEAN II (Hiệp ước Bali II), www.aseansec,org/15159.htm, truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2004.
[51] ‘Indonesia
Presses ASEAN to Pursue Security Bloc’, [In-đô-nê-xi-a hối thúc ASEAN
theo đuổi khối an ninh] Reuters report, International Herald Tribune,
ngày 30 tháng 6 năm 2004.
[52]
Đối với tranh luận về thể chế, xem Mark J. Valencia, ‘Prospects for
Multilateral Regime Building in Asia’, [Triển vọng xây dựng cơ chế đa
phương ở châu Á] trong Sam Bateman (ed.), Maritime Cooperation in the
Asia-Pacific Region: Cureent Situation and Prospects, Canberra Papers on
Strategy and Defence No. 132 (Canberra: Australian National University,
1999), tr. 27-67 tại tr. 40
[53] Xem Liselotte Odgaard, ‘Conflict Control and Crisis Management between China and Southeast Asia: An Analysis of the Workshops on Managing Potential Conflicts in the South China Sea’, [Kiểm soát xung đột và quản lý khủng hoảng giữa Trung Quốc và Đông Nam Á] tại www.southchinasea.org/doc.Odgaard.pdf, truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2001.
[54] Yann-Huei Song, ‘The Overall Situation in the South China Sea
in the New Millennium: Before and After the September 11 Terrorist
Attacks’, [Toàn bộ tình trạng ở Biển Đông trong Thiên niên Kỷ mới: Trước
và Sau tấn công khủng bố ngày 11/9] Ocean Development and International
Law 34, ¾ (2003), tr. 249.
[55]
Leni Stenseth, ‘Nationalism and Foreign Policy – the Case of China’s
Nansha Rhetoric’, luận án tiến sỹ không xuất bản, khoa Khoa học Chính
trị, trường đại học Oslo, năm 1998, hoàn thành ngày 29.
[56]
‘A Tripartite Agreement for Joint Marine Scientific Research in Certain
Areas in the South China Sea By and Among China National Offshore Oil
Corporation and Vietnam Oil and Gas Corporation and Philippine National
Oil Company, 2005’, [Hiệp định ba bên về Nghiên cứu Khoa học Hàng hải
chung trong các khu vực nhất định ở Biển Đông giữa tập đoàn dầu ngoài
khơi quốc gia Trung Quốc và tập đoàn dầu khí Việt Nam và công ty dầu
quốc gia Phi-líp-pin, năm 2005] www.newsbreak.com.ph/index.php?option=com_remository&Itemid=88889273&func=stratdown&id=219, truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2008.
[57]‘Secretary
Romulo Heralds RP-China-Vietnam Agreement on Joint Seismic Survey of
the South China Sea’, trang web chính thức của chính phủ Phi-líp-pin
ngày 14 tháng 3 năm 2005, tại www.gov.ph/news/default.asp?i=7301, truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2008.
[58] Christopher Roberts, ‘China and the South China Sea:
What Happened to ASEAN’s Solidarity?’ [Trung Quốc và Biển Đông: Điều gì
đã xảy ra đối với sự đoàn kết của ASEAN?] IDSS Commentaries, ngày 26
tháng 4 năm 2005.
[59]
Michaela P. del Callar, ‘No Gloria Order to Suspend JMSU: Chinese Ships
to Continue Exploration – Diplomat’, Dialy Tribune, ngày 19 tháng 3 năm
2008, tại www.tribune.net.ph/headlines/20080319hed1.html, truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2008.
[60]Miriam Grace A. Go, ‘A Policy of Betrayal’ [chính sách của sự phản bội] (1 trong 3 phần), ABS-CBNNEWS.com/newsbreak, tại www.abs-cbnnews.com/storypage.aspx?StoryId=112137, truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2008.
[61] Clive Schofield, ‘Unlocking the Seabed Resources of the Gulf of Thailand’, [Khai thác nguồn tài nguyên dưới đáy của Vịnh Thái Lan] Contemporary Southeast Asia 29, 2 (tháng 8 năm 2007), tr. 298.
[62] Lee Yong Leng, đã dẫn. tr. 7
[63] Như trên,tr. 8.
[64] Như trên, tr. 19-20.
[65]
R. Haller-Trost, The Contested Maritime and Territorial Boundaries of
Ma-lai-xi-a: An International Law Perspective, International Boundary
Studies Series (London: Kluwer International Law Limited, 1998) tr.68
[66] Clive Schofield, đã dẫn, tr. 295.
[67] Như trên, tr. 295
[68] Như trên, tr. 288
[69] Như trên, tr. 290
[70] Như trên, tr. 297.