|
Sau đây chúng tôi xin giới thiệu tham luận của Marc
Fumaroli nói về môn văn tại hội thảo bàn về Làm thế nào để nối kết được việc
giảng dạy các kiến thức thuộc tất cả các môn khác nhau trong nhà trường ở
Pháp năm 1998. Đương nhiên ở đây tác giả nói về giảng dạy văn học trong
trường ở Pháp, cho nên ông nói trực tiếp đến việc dạy tiếng Pháp và các ngôn
ngữ có quan hệ “mã di truyền” với nó, như tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp… Điều
quan trọng là cách quan niệm về giảng dạy văn học trong nhà trường được trình
bày ở đây, dạy văn học để làm gì, dạy như thế nào…, một quan niệm có thể gợi
cho chúng ta nhiều điều đáng suy nghĩ. Bài viết này có nhan đề là Văn học:
con đường dẫn tới cá nhân. Đầu đề trên đây là của chúng tôi. (Tia sáng)
Tôi
muốn bác bỏ ngay định kiến cho rằng cấp trung học cứ nhất nhất phải là một
khuôn nhằm tạo cho học sinh sớm thích ứng với thị trường việc làm. Trước hêt,
bởi vì thị trường này đã trở nên cực kì cơ động, luôn thay đổi, không thể dự
kiến trước: một kiểu nhà trường nhằm vào việc làm luôn có nguy cơ bị lệch pha
so với sự phát triển nhanh chóng của thị trường. Lại nữa, còn bởi vì chức
năng không thể thay thế được của bậc trung học là cung cấp cho những thiếu
niên các yếu tố và các qui chiếu thiết yếu, không chỉ cho mọi cuộc sống nghề
nghiệp, dù thuộc bất cứ ngành chuyên môn nào, mà còn – và đây là một chiều
kích giáo dục không bao giờ được quên – cho cuộc sống liên hệ (xã hội) tương
lai của họ, cuộc sống riêng tư của họ, cho việc sử dụng một cách tinh nhạy và
chín chắn các món giải trí của họ.
Trong
số những yếu tố và những quy chiếu thiết yếu cho thành công trong cuộc sống
nghề nghiệp cũng như trong đời sống riêng tư đó, tôi không ngần ngại mà đặt
lên hàng đầu việc làm chủ một cách hoàn hảo về mặt nữ pháp đối với nôn
ngữ tự nhiên (tức tiếng mẹ đẻ), cùng với các khả năng biện minh, thuyết phục,
gây xúc động, gây thích thú của nó; và cỉ có việc làm quen với các tuyệt tác
văn học, theo tôi, mới có thể cho phép ta có được một ý niệm chính xác về các
khả năng biểu đạt nhiều sắc thái khác nhau của ngôn ngữ chúng ta.
Cần
nghĩ rằng ngay chính bậc sơ học đã phải chuẩn bị một cách có chiều sâu môi
trường cho việc này, bằng môn học ngữ pháp của ngôn ngữ tự nhiên, môn tập đọc
một cách có chiều sâu và môn tập làm văn viết. Không có những cơ sở chắc chắn
đó, mọi sự sẽ hỏng ngay từ đó mất rồi và có thể sẽ không còn cứu chữa được
nữa.
Nhưng
trên những nền tảng đó rồi, vẫn còn đòi hỏi học ngôn ngữ, học đọc và hiểu các
tuyệt tác văn chương, làm những bài tập biểu đạt bằng viết và nói dưới nhiều
dạng khác nhau nhằm kéo học sinh và sinh viên trong suốt cuộc đời của họ ra
khỏi tình trạng làng nhàng vô vị của ngôn ngữ, và khiến họ có thể sống trong
ngôn ngữ mẹ đẻ một cách thoải mái, sử dụng nó một cách lưu loát. Một trong
những điều từ lâu ta thường nghe những người sử dụng nhân công thuộc mọi nghề
nghiệp, và những người dạy đại học thuộc mọi ngành, đặc biệt là các ngành
khoa học kêu trách, là việc một số ngày càng đông những người đã tốt nghiệp
cử nhân không có khả năng diễn đạt rõ ràng và khúc chiết, không soạn thảo
được một văn bản chặt chẽ, phân biệt được một văn bản minh bạch với một văn
bản rỏm, một văn bản phong phú với một văn bản nghèo nàn ý nghĩa: thông đạt
thôi thì chưa đủ, còn phải có ý thức về hình thức của diễn từ và ảnh hưởng
của nó đến người khác nữa.
Pascal
đối lập đầu óc tinh tế với đầu óc hình học. Việc khai tâm đối với “cái phức
tạp” (của cuộc sống), ở bậc trung học, trước hết thuộc về trách nhiệm của
người thầy dạy môn tiếng Pháp và văn học Pháp, ông ta có thể dựa vào tác phẩm
của các nhà văn lớn để chỉ ra rằng những gì nằm ngoài tầm của luận lý, nhưng
gì thộc về trực cảm tổng hợp dẫu sao cũng vẫn có thể biểu hiện thành hình ảnh
và biểu đạt ra được. Các tác phẩm giàu ý nghĩa này dạy cho ta biết phân định
đạo lý, và rèn cho ta khả năng phán xét để phân biệt giữa hiện tượng và thực
tế, giữa cảm xúc chân thật và xúc cảm giả tạo. Bên cạnh việc dạy lý thuyết và
thực hành nghệ thuật viết và nói tiếng Pháp đó (được tước bỏ đi mọi thứ thông
thái rởm và mọi biệt ngữ: đấy còn là một nghệ thuật tư duy), có thể và cần
phải quan niệm một lối dạy tương tự như thế bằng các ngoại ngữ nữa. Tôi không
hiểu tại sao các ngoại ngữ lại phải bị coi thường, chỉ nhằm để giao tiếp đơn
thuần thực dụng mà thôi.
Và
về vấn đề này, tôi muốn nói rõ : cần phải để cho học sinh trung học được tự
do củng cố nền tảng hiểu biết văn học Pháp của họ bằng việc học tiếng Latinh
hay tiếng Hy Lạp được chọn một cách tương ứng, việc học này chính nó cũng chủ
yếu thông qua các tuyệt tác văn chương. Không gì có lợi cho việc hiểu biết
tính phức hợp của các hiện thực nhân văn bằng phép so sánh, ngay từ tuổi niên
thiếu, với các thế giới ngôn ngữ, các hình thức và các nền minh triết cách xa
nhau trong thời gian, và tuy vậy vẫn còn sức khơi động tươi nguyên đối với
nhân loại. Trong một đất nước như đất nước chúng ta, ở đó hệ “mã di truyền”
văn học và đạo đức là tiếng Pháp - Latinh – Hy Lạp , một phần không nhỏ các
thế hệ trẻ vẫn còn liên hệ trực tiếp với di sản của họ. Tôi muốn nói thêm, để
ủng hộ cho tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp, rằng đó không chỉ là những ngôn ngữ
thơ và lịch sử, mà còn là ngôn ngữ triết học. Sự quan tâm trở lại hiện nay ở
Pháp và trên thế giới đối với Platon và Aristote, cũng như đối với minh triết
của một Séneque và một Horace, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sớm khám phá
các tác giả ấy trong chính ngôn ngữ của họ.
Để
làm phong phú thêm việc dạy học, chúng ta cũng có thể nghĩ đến một sự liên
kết mạnh mẽ hơn nữa giữa tiếng Pháp và các ngoại ngữ: một sự kết hợp tiếng
Pháp – Anh – Latinh, càng tạo dễ dàng cho việc học tiếng Ý và tiếng Tây Ban
Nha, và một sự kết hợp tiếng Pháp – Đức – Ý hay Tây Ban Nha, chẳng hạn. Trong
mỗi công thức ấy cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các giáo sư, theo nguyên
tắc là các ngôn ngữ được dạy ở trường trung học hay cao đẳng đều phải thông
qua các tuyệt tác văn chương và nhằm mục đích không chỉ đơn thuần để giao tiếp,
mà còn là niềm vui biểu đạt.
Cần
phải coi rằng cái cực văn học này có khuynh hướng chiếu tỏa sang các môn học
lân cận, và lại nhận được những sự tiếp sức từ chúng, miễn là chúng ít nhiều
được phân phối theo một sự phối hợp mang tính tu từ học và có chất thơ, chứ
không phải theo một kiểu phương pháp luận kiêu kì và giáo điều. Sự tinh tế về
văn chương vốn rất gần gụi với thị hiếu tốt; hình tượng thơ và văn học là bà
con gần với hình tượng của họa sĩ, của nhà điêu khắc, người vẽ đồ họa. Vì
những lí do đó và những lý do khác nữa, tất cả đều khiến chúng ta phải phối
hợp chặt chẽ việc dạy các ngôn ngữ và các nền văn học với việc khai tâm đối
với các ngành nghệ thuật. Cũng như, tầm quan trọng về mặt di sản cần phải chú
trọng trong việc dạy văn học và nghệ thuật tất yếu đòi hỏi phải cho học sinh
làm quen với khoa niên đại học và địa lý học của văn học và nghệ thuật. Các
yếu tố định vị lịch sử đó cần được phối hợp chặt chẽ với việc dạy môn lịch sử
và địa lý đại cương; tôi còn nhấn mạnh thêm rằng, điều người ta thường quá
hay quên, lịch sử và địa lý cũng là những thể loại văn học. Các sử gia và các
nhà địa lý lớn đều là những nhà văn lớn, và không có gì có ích cho việc rèn
luyện văn phong bằng nghiên cứu các tác phẩm của họ. Một Julien Gracq không
hề quên một chút gì trong nguồn gốc nhà sử học – địa lý học của ông khi ông
mô tả một thành phố hay một cảnh quan. Vả chăng lịch sử luôn cầu viện đến các
tư liệu tạo hình, các đồng tiền (cổ) và các bản khắc, cùng các bằng chứng
băng hình ảnh.
Như
vậy có rất nhiều những cầu nối giữa việc dạy văn học, dạy lịch sử các nghệ
thuật với việc dạy lịch sử - địa lý. Các giáo sư cũng như học sinh cần luôn
luôn nhớ đến những chiếc cầu nối đó. Tôi có cần nói thêm không, rằng với các
giáo sư khoa hùng biện ngày xưa, vấn đề nhịp điệu của câu và đoạn câu, vấn đề
hài âm, tóm lại là nhạc tính, đều gắn liền với vẻ đẹp của văn học? Cần làm
sao cho việc dạy văn học và dạy âm nhạc gắn được với nhau và hỗ trợ lẫn nhau,
thay vì chia tách bo bo mỗi bên một mình. Đối với môn triết học cũng vậy.
Tất
cả những điều tôi vừa gợi ra trên đây đều đã có cả trong Quintilien rồi, tôi
đề nghị tất cả các nhà sư phạm nên đọc lại ông ấy, cũng như đọc lại Rousseau
và tác phẩm Émile của ông. Rousseau đã thấy rất đúng rằng, trong thời kỳ hiện
đại, tâm trí trẻ con cần được thức tỉnh cùng lúc về nghệ thuật nói và viết
một cách đúng đắn, và cả về phương pháp của các môn học khoa học. Người đồng
thời với ông là Vico đã hiểu rằng về phần mình khoa học hiện đại, để gìn giữ
các nền tảng và nuôi dưỡng tính sáng tạo của nó, cần không được cắt đứt với
khoa học về con người được văn học tích lũy và được làm cho sống động trong
các bài tập về tu từ và thi pháp mà người ta đòi hỏi ở trẻ con.
Sự
hào hiệp sáng suốt đó của các nhà tư tưởng thế kỉ ánh sáng, ngày nay chúng ta
càng phải học lấy, khi sự cấp bách của thế kỉ mới này đang đòi hỏi chúng ta.
Các nhà khoa học tự nhiên và các công nghệ phát triển rất nhanh. Chỉ có nền
cao học mới có thể ngang tầm với sự phát triển nhanh chóng đó. Hãy cho tất cả
con em chúng ta những phương tiện ít kềnh càng nhất để thích ứng được với
những biến đổi, cũng nhanh chóng như vậy của thị trường việc làm. Cần coi
trọng việc đào tạo về nghề nghiệp và công nghệ như nước Đức đã làm trong các
xí nghiệp hay phối hợp chặt chẽ với các xí nghiệp.
Nhưng
cũng phải nhận thức rằng nhà trường trước hết cần phải có độ lùi trong tương
quan với thế giới của các đòi hỏi khẩn cấp tức thời, và phải xây dựng nên
những con người được chuẩn bị từ bên trong để có thể tự nhận thức được về
chính mình và tự phát triển trong mọi hoàn cảnh, riêng tư cũng như nghề
nghiệp. Chức năng không gì thay thế được của nó là dạy cho người có được lời
nói và cách biểu đạt đúng, là những vật sở hữu cho mãi mãi, vô cùng quí giá
đối với mọi nghề nghiệp và trước mọi bất ngờ của cuộc sống. Hãy khôi phục lại
sự tự do và khả năng lựa chọn đa dạng trong các đào tạo văn học. Hãy chuyển
giao cho tất cả các học sinh ít hơn một chút hay nhiều hơn một chút sự đào
tạo về văn học, nhưng bao giờ cũng là trong ý nghĩa hào hiệp mà tôi đã cố
gắng phác họa ra đó.
Tác giả: Marc Fumaroli |
Marc Fumarol