Bài viết
đăng trên Tạp chí “Quan hệ quốc tế hiện đại”, Trung Quốc. Phần một tập
trung vào hai vấn đề chính: khảo sát về mối liên hệ giữa tính chu kỳ
ngoại giao và diễn biến chiến lược ngoại giao của Trung Quốc trong
khoảng thời gian từ những năm đầu thế kỷ XX cho đến nay. Với nhận định
về sự biến đổi mang tính chu kỳ này của ngoại giao Trung Quốc “không
phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà có tính tất yếu nội tại của nó,
đằng sau có căn nguyên sâu sắc”.
Từ
năm 1919 tới nay, ngoại giao Trung Quốc có những thay đổi mang tính chu
kỳ, mỗi chu kỳ khoảng 30 năm, cho đến nay đã trải qua 3 chu kỳ năm
1919, 1949 và 1979, cuối mỗi chu kỳ lại có một lần điều chỉnh mang tính
chiến lược. Bài viết sẽ khảo sát mối liên hệ giữa tính chu kỳ ngoại giao
và diễn biến chiến lược ngoại giao của Trung Quốc, đồng thời nghiên cứu
thảo luận nguyên nhân sâu xa của những biểu hiện mang tính chu kỳ này
cũng như vấn đề Trung Quốc chuyển đổi mô hình ngoại giao.
I – Chu kỳ ngoại giao và diễn biến chiến lược ngoại giao
Chu
kỳ 30 năm đầu tiên của ngoại giao Trung Quốc bắt đầu vào năm 1919, với
đặc điểm là Trung Quốc tìm kiếm độc lập và toàn vẹn chủ quyền. Cuối thế
kỷ 19 đầu thế kỷ 20, để giành giật thuộc địa và thị trường nguyên vật
liệu, mâu thuẫn giữa các cường quốc trở nên gay gắt hơn, dẫn tới Chiến
tranh thế giới thứ Nhất. Khi đó phương Tây ở vào thế mạnh, còn Trung
Quốc ở thế yếu; phương Tây ở trong quá trình bành trướng ra bên ngoài,
còn Trung Quốc bị buộc phải tiến hành phòng ngự chiến lược. Và chính do
sự xâm lược của phương Tây, Trung Quốc đã biến thành nhà nước nửa phong
kiến, nửa thuộc địa. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ Nhất kết thúc, là
nước chiến thắng nhưng Trung Quốc lại không thực sự được hưởng sự đãi
ngộ của nước thắng trận. Hội nghị hòa bình ở Pari tháng 1/1919 hoàn toàn
là một hội nghị để các đế quốc phân chia của cải, còn Trung Quốc lại
liên tục gặp khó khăn tại các hội nghị hòa bình. Sự thất bại về mặt
ngoại giao đã dẫn tới “phong trào Ngũ Tứ”, Trung Quốc bước vào thời kỳ
cách mạng chủ nghĩa dân chủ mới. Sau đó, Trung Quốc hết sức thất vọng
với phương thức giải quyết ngoài hội nghị của Hội nghị Oasinhtơn về “vấn
đề Sơn Đông”, vấn đề “điều thứ 21”, quyền đứng ngoài pháp luật của các
nước đế quốc ở Trung Quốc, không được giải quyết. Nội dung chủ yếu của
ngoại giao Trung Quốc thời kỳ đó là yêu cầu xóa bỏ hiệp ước bất bình
đẳng.
Năm
1929, các nước tư bản chủ nghĩa xảy ra một cuộc khủng hoảng kinh tế
chưa từng có, những tệ nạn của “Hệ thống Vécxai-Oasinhtơn” được thiết
lập sau Chiến tranh thế giới thứ Nhất dần lộ rõ. Năm 1930, để củng cố
quyền thống trị, Tưởng Giới Thạch lấy lòng chủ nghĩa đế quốc, vứt bỏ
chính sách “liên kết với Liên Xô, liên kết với cộng sản, nâng đỡ công
nông”, thực hiện quốc sách cơ bản “chống ngoại xâm trước tiên phải ổn
định trong nước”. Năm 1931, Nhật Bản phát động “sự biến 18/9” ở Đông Bắc
Trung Quốc, từ lúc này, chống đế quốc Nhật trở thành chính sách ngoại
giao chủ yếu của Trung Quốc. Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ Hai bùng
nổ, tình hình quốc tế biến đổi nhanh. Cùng với sự lớn mạnh không ngừng
của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc chiến kháng Nhật cộng với cuộc
đại chiến đang lan khắp châu Âu, Tưởng Giới Thạch hy vọng thông qua tìm
kiếm viện trợ nước ngoài và sự thay đổi của tình hình quốc tế để giải
quyết chiến tranh Trung-Nhật, mưu cầu hợp tác với Mỹ và Anh. Năm 1945,
Nhật Bản thua trận đầu hàng, Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc. Qua
hơn 3 năm nội chiến, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập năm
1949, Trung Quốc cuối cùng đã giành được chủ quyền độc lập và tự chủ
trong các công việc trong và ngoài nước, ngoại giao Trung Quốc do đó có
những thay đổi mang tính bước ngoặt.
Chu
kỳ 30 năm lần thứ hai của ngoại giao Trung Quốc bắt đầu từ năm 1949,
thời kỳ này Trung Quốc gặp nhiều khó khăn trong việc thoát khỏi tình
cảnh bế quan tỏa cảng. Sau khi nhà nước mới thành lập, nhiệm vụ chủ yếu
của ngoại giao Trung Quốc là trên cơ sở đảm bảo chủ quyền và độc lập
quốc gia không bị xâm phạm, phá vỡ sự cô lập và phong tỏa ngoại giao,
tạo môi trường có lợi phát triển trong nước. Nhưng bối cảnh đặc biệt khi
đó đã khiến Trung Quốc không thể hoàn thành sự chuyển dịch chiến lược,
thậm chí đã xuất hiện chính trị lệch hướng. Trong nước khi đó là một
chính quyền mới thành lập, về mặt quốc tế là cục diện Chiến tranh Lạnh
Mỹ-Xô sau Chiến tranh thế giới thứ Hai. Trước sự bao vây và phong tỏa
của phe tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mỹ, Trung Quốc đã đưa ra 3 quyết
sách ngoại giao lớn lấy “nghiêng về một bên” làm nòng cốt, gồm “xóa bỏ
hoàn toàn tàn tích làm lại từ đầu”, “quét sạch tàn dư rồi mới thiết lập
quan hệ ngoại giao” và “nghiêng về một bên”. Đặc trưng chủ yếu trong
chính sách ngoại giao của Trung Quốc thời kỳ này là nghiêng về phe xã
hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu.
Do
chịu ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng cực “tả”, năm 1958 Trung Quốc đã
tiến hành phong trào “Đại nhảy vọt” ở trong nước, về mặt quốc tế từng
bước từ bỏ chiến lược “nghiêng về một bên”. Trung Quốc và Liên Xô chia
rẽ là sự thay đổi chủ yếu nhất của ngoại giao Trung Quốc trong thời gian
này. Năm 1959, Liên Xô ra “Tuyên bố Tass”, bất đồng Trung-Xô công khai
lộ rõ trước thế giới. Sau đó, với việc Liên Xô rút toàn bộ chuyên gia
khỏi Trung Quốc, quan hệ Trung-Xô trở nên xấu đi. Lúc này, Mỹ tiếp tục
nhúng tay vào Đài Loan, can thiệp công việc nội bộ của Trung Quốc, xâm
lược Việt Nam . Trước mối đe dọa xâm lược của Liên Xô và Mỹ, Trung Quốc
buộc phải áp dụng chiến lược “chống Mỹ chống Liên Xô”. Chính do sự ra
đời và phát triển của phong trào giải phóng dân tộc thời kỳ này, Mao
Trạch Đông đã đưa ra tư tưởng ngoại giao “nhân dân cách mạng toàn thế
giới đoàn kết lại, đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, đánh đổ chủ nghĩa xét lại
hiện đại, lật đổ phe phản động ở các nước”. “Trọng điểm của ngoại giao
Trung Quốc thời kỳ này là phát triển quan hệ với châu Á, châu Phi và Mỹ
Latinh rộng lớn, tức là tính đơn nhất; chính sách ngoại giao coi đánh đổ
3 kẻ thù lớn là chính, tức là tính đấu tranh; mục tiêu ngoại giao là
đẩy mạnh cách mạng thế giới, tức là tính thế giới”. Tháng 5/1966, Trung
Quốc xảy ra “Cách mạng văn hóa”, ở trong nước “lấy đấu tranh giai cấp
làm cương lĩnh”; về mặt ngoại giao, Trung Quốc xảy ra tranh chấp ngoại
giao với rất nhiều nước, gần như ở vào trạng thái cô lập trên thế giới.
Chiến lược quốc tế của Trung Quốc năm đó là lấy việc thúc đẩy giá trị
phổ quát siêu việt làm cơ sở, những giá trị phổ quát này đòi hỏi không
chỉ dựa trên nguyên tắc cơ bản của quan hệ quốc gia mà còn dựa trên “chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp vô sản” lật đổ trật tự của chủ nghĩa đế
quốc, cho phép những người vô sản và nhân dân cách mạng toàn thế giới
vùng lên giải phóng mình.
Cuối
những năm 60 thế kỷ 20, ngoại giao Trung Quốc có một loạt điều chỉnh,
từ bỏ chiến lược đối ngoại “ hai mũi tiến công ” (tức là dựa vào đông
đảo các nước Á-Phi-Mỹ Latinh, chống lại chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu
và chủ nghĩa xét lại do Liên Xô đứng đầu với phe phản động ở các nước),
đi theo con đường cùng Mỹ kiềm chế bá quyền Liên Xô. Sau cuộc chiến ở
đảo Trân Bảo tháng 3/1969, Trung Quốc đứng trước sức ép lớn của mối đe
dọa Liên Xô, còn Mỹ bắt đầu ở thế phòng thủ trong đối kháng Mỹ-Xô, lại
hy vọng thông qua cải thiện quan hệ với Trung Quốc kiềm chế Liên Xô bành
trướng, bởi vậy Trung Quốc và Mỹ đã xích gần nhau về mặt chiến lược.
Ngày 1/5/1969, Mao Trạch Đông đã gặp gỡ một số sứ giả nước ngoài ở Lầu
thành Thiên An Môn, bày tỏ Trung Quốc mong muốn cải thiện và phát triển
quan hệ với các nước trên thế giới. Trong bối cảnh này, tháng 7/1971, cố
vấn an ninh quốc gia Mỹ Kissinger đã bí mật tới thăm Trung Quốc, tới
tháng 10 Kissinger lần đầu tiên công khai tới thăm Trung Quốc; tháng
2/1972 Tổng thống Nixon cũng công khai tới thăm Trung Quốc, quan hệ
Trung-Mỹ do đó có những thay đổi mang tính bước ngoặt. Tháng 2/1973,
trong cuộc hội đàm với đặc sứ Mỹ Kissinger, Mao Trạch Đông đã đưa ra
chiến lược ngoại giao “một trục” (Trung Quốc, Nhật Bản, Pakixtan, Iran,
Thổ Nhĩ Kỳ, châu Âu, Mỹ), và “một mảng khối lớn” (tức là tất cả các nước
xung quanh trục này cùng nhau đoàn kết chống lại và kiềm chế sự mở rộng
đối ngoại của Liên Xô) để kiềm chế bá quyền Liên Xô. Sự xích lại gần
nhau giữa Trung Quốc và Mỹ đã giúp cải thiện đáng kể môi trường ngoại
giao của Trung Quốc, tháng 10/1971 chiếc ghế hợp pháp của Trung Quốc ở
Liên Hợp Quốc được khôi phục, tiếp theo đó Trung Quốc lần lượt thiết lập
quan hệ ngoại giao với các nước phát triển phương Tây.
Chu
kỳ ngoại giao thứ ba của Trung Quốc bắt đầu từ năm 1979, đặc điểm của
thời kỳ này là Trung Quốc cải cách mở cửa, tiếp tục phát triển, không
ngừng hướng tới thế giới, địa vị quốc tế ngày một nâng lên. Bối cảnh
trực tiếp để ngoại giao Trung Quốc bước vào chu kỳ thứ ba là, Hội nghị
toàn thể trung ương 3 khóa 11 của Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 12/1978
đã chấm dứt đường lối tư tưởng “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” ở
trong nước, xác lập chiến lược cải cách mở cửa lấy xây dựng kinh tế làm
trung tâm; Trung Quốc đưa ra chủ đề thế giới hòa bình và phát triển,
nhấn mạnh ngoại giao phục vụ cho xây dựng kinh tế trong nước. Năm 1980,
Trung ương quyết định thiết lập các đặc khu kinh tế Thâm Quyến, Chu Hải,
Sán Đầu và Hạ Môn, “ngoại giao đối ngoại” của Trung Quốc chính thức
khởi động. Cục diện mở cửa đối ngoại từ các đặc khu kinh tế tới mở cửa
các vùng duyên hải, vùng ven sông, các dải dọc tuyến, khu vực nội địa
từng bước hình thành. Tuy nhiên, cuối những năm 80 thế kỷ 20, sóng gió
quốc tế thay đổi bất ngờ. Đông Âu biến động, Liên Xô tan rã, tình hình
quốc tế có những thay đổi căn bản. Tháng 6/1986 Trung Quốc xảy ra làn
sóng biểu tình sinh viên “4/6”, phe phương Tây đứng đầu là Mỹ lập tức
thực thi trừng phạt Trung Quốc. Trước cục diện này, Đặng Tiểu Bình đã
đưa ra phương châm chỉ đạo quan hệ đối ngoại “lặng lẽ quan sát, giữ vững
trận địa, bình tĩnh ứng phó, giấu mình chờ thời, đồng thời nói “phải
bình tĩnh, bình tĩnh, bình tĩnh hơn, miệt mài làm việc, làm tốt mọi việc
là việc của chúng ta”. Thời kỳ này, các công việc ngoại giao của Trung
Quốc luôn kiên trì phương châm và lập trường của mình khi phải đối mặt
với các sức ép lớn. Sau đó, cùng với những thay đổi của tình hình trong
và ngoài nước, ngoại giao Trung Quốc bắt đầu chú trọng ngoại giao xung
quanh, ngoại giao đối tác và ngoại giao đa phương, ngoại giao nước lớn
của Trung Quốc bắt đầu nổi rõ.
Năm
1997, Đông Á xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ, Chính phủ Trung Quốc
đã kiên trì không để đồng nhân dân tệ mất giá, tránh làm cho tình hình
tài chính quốc tế xấu đi. Trung Quốc từ lúc này bắt đầu tích cực chủ
động tham gia tiến trình nhất thể hóa Đông Á, đây là một sự thay đổi lớn
của ngoại giao Trung Quốc, điều này cũng khiến hình tượng nước lớn có
trách nhiệm của Trung Quốc xuất hiện trên vũ đài quốc tế, “Thuyết về mối
đe dọa của Trung Quốc” từng hung hăng ngang ngược đã thu hẹp lại. Năm
1999, quan hệ Trung-Mỹ đột ngột xấu đi do Chiến tranh Côxôvô và sứ quán
Trung Quốc ở Nam Tư bị ném bom, sau đó quan hệ giữa hai nước lại trải
qua các sự kiện lớn như “sự kiện va chạm máy bay” tháng 4/2001 cũng như
tháng 10/2001 Mỹ đưa quân tới Ápganixtan và tháng 3/2003 xâm lược Irắc.
Trong thời gian này, Trung Quốc bình tĩnh đối mặt, kiên trì một cách có
lý, có lợi, có hạn độ, ngoại giao Trung Quốc có xu hướng nhuần nhuyễn,
và từng bước chuyển từ bị động tiêu cực sang tích cực chủ động, ngoại
giao nước lớn của Trung Quốc ngày càng tiến bộ hơn.
Trước
cuộc khủng hoảng tài chính mang tính toàn cầu đột ngột xảy ra, từ tháng
9/2008 tới nay, Trung Quốc đã cùng Mỹ và các nước thảo luận về việc làm
thế nào đối phó với khủng hoảng, bối cảnh này khiến chính sách ngoại
giao đối ngoại của Trung Quốc có những điều chỉnh mới. Hiện nay, việc
giải quyết rất nhiều vấn đề quốc tế ngày càng cần sự tham gia của Trung
Quốc như “đàm phán sáu bên”, “vấn đề Dafur”, “cướp biển Xômali” và khủng
hoảng tài chính thế giới. Về phần mình, một mặt Trung Quốc đã tổ chức
Thế vận hội Bắc Kinh, phóng “Thần Châu 7”, thực hiện ngoại giao có trách
nhiệm, thể hiện hình tượng mới với thế giới, mặt khác do nhiều vấn đề
tồn tại trong nước nên Trung Quốc bị can thiệp bởi những tiếng nói không
hữu nghị trên trường quốc tế. Làm thế nào để các nước và người dân của
họ hiểu được Trung Quốc? Làm thế nào đối phó với tình hình quốc tế ngày
càng phức tạp, tạo môi trường quốc tế tích cực phát triển trong nước,
duy trì sự bình đẳng lợi ích giữa các nhóm khi Trung Quốc cải cách phát
triển? Làm cách nào duy trì sự cân bằng quan hệ giữa Trung Quốc với thế
giới khi Trung Quốc trỗi dậy hòa bình? Điều này đòi hỏi Chính phủ Trung
Quốc phải thực thi chính sách đối nội đầy sức mạnh và chính sách ngoại
giao thiết thực khả thi hơn.
II- Nguyên nhân ngoại giao Trung Quốc thay đổi mang tính chu kỳ
Những
thay đổi mang tính chu kỳ của ngoại giao Trung Quốc không phải là một
hiện tượng ngẫu nhiên mà có tính tất yếu nội tại của nó, đằng sau có căn
nguyên sâu sắc, chủ yếu gồm: những thay đổi về so sánh thực lực giữa
Trung Quốc và các lực lượng quốc tế khác, mối liên hệ tác động giữa tình
hình quốc tế và tình hình Trung Quốc cũng như sự thay đổi, trưởng thành
của các thế hệ lãnh đạo của Trung Quốc.
Thứ nhất,
sự so sánh thực lực giữa Trung Quốc với các lực lượng quốc tế khác liên
tục có những thay đổi lớn, là nguyên nhân chủ yếu khiến ngoại giao
Trung Quốc có những điều chỉnh mang tính chu kỳ. Từ năm 1912-1949, Trung
Quốc liên tiếp xảy ra loạn lạc, môi trường xấu đi, kinh tế nổi lên
trạng thái phát triển bất thường, Trung Quốc khi đó dù về thực lực kinh
tế hay thực lực quân sự đều có khoảng cách rất lớn so với các cường quốc
phương Tây. Huống hồ khi đó một số nước lớn chủ yếu lại liên kết với
nhau xâm lược Trung Quốc, khiến Trung Quốc phải ở trong trạng thái nửa
cô lập. Do đó, thoát khỏi sự kiểm soát của phương Tây giành lại chủ
quyền và độc lập hoàn toàn là nhiệm vụ chủ yếu của ngoại giao Trung Quốc
trong thời kỳ này. Từ năm 1952-1979, ngoài một vài năm tăng trưởng âm
do “Đại nhảy vọt” và “Cách mạng văn hóa” mang lại, GDP của Trung Quốc
tăng trưởng ổn định, tăng gần 300 tỷ nhân dân tệ trong khoảng 30 năm. 30
năm phát triển làm cho thực lực của Trung Quốc tăng lên mạnh mẽ, cộng
với việc năm 1964 thử nghiệm thành công bom nguyên tử, năm 1967 lại thử
nghiệm thành công bom khinh khí, Trung Quốc đã có ngón sở trường đúng
lúc để đáp trả mối đe dọa quân sự của nước ngoài, địa vị và ảnh hưởng
trên thế giới ngày một nâng lên. Thực lực tăng lên khiến chính sách đối
ngoại của Trung Quốc có những điều chỉnh lớn, ngoại giao Trung Quốc đã
thực hiện bước nhảy vọt về chất từ kết liên minh với Liên Xô tới liên
kết với Mỹ, cho tới không liên kết thật sự. Từ năm 1979-2008, kinh tế
Trung Quốc tiếp tục phát triển với tốc độ cao, GDP tăng trưởng 9,8%/năm,
tổng lượng GDP năm 2008 vượt trên 30.000 tỷ nhân dân tệ, tương đương
với 1651,2% năm 1978, chiếm tỉ trọng GDP thế giới từ 2,49% năm 1979 lên
7,23% năm 2008. Trong thời gian này, sự so sánh thực lực kinh tế giữa
Trung Quốc và Mỹ cũng có những thay đổi lớn. GDP của Trung Quốc năm 1979
chỉ bằng 10,19% GDP của Mỹ ở cùng thời điểm. Tỉ lệ này nâng lên 24,1%
năm 2007, 30,38% năm 2008. Thực lực tăng lên có nghĩa là lợi ích quốc
gia của Trung Quốc được xác định lại, cũng khiến tư duy ngoại giao của
các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thay đổi lớn, chiến lược và chính sách
ngoại giao của Trung Quốc theo đó sẽ được điều chỉnh.
Thứ hai,
sự tác động lẫn nhau giữa tình hình trong nước với những thay đổi của
tình hình quốc tế thúc đẩy ngoại giao Trung Quốc có những thay đổi mang
tính chu kỳ. Chính trị nội bộ và ngoại giao Trung Quốc có mối liên hệ
hết sức mật thiết với nhau, có thể nói ngoại giao là một phương thức
biểu hiện khác của chính trị nội bộ. Vì vậy, ngoại giao không những có
liên quan với ảnh hưởng ở cấp quốc tế, mà còn liên quan chặt chẽ tới
những thay đổi của các nhân tố trong nước, sự thay đổi của ngoại giao
Trung Quốc chính là kết quả của những ảnh hưởng tổng hợp của hai mặt
này.
Một
mặt, chính trị trong nước thay đổi và xã hội phát triển thúc đẩy ngoại
giao Trung Quốc không ngừng điều chỉnh. Những thay đổi trong nội bộ một
nước có quy luật riêng của nó, thường không thay đổi theo ý chí con
người. Sau khi phát triển tới một mức độ nhất định, những thay đổi này
tương ứng sẽ làm cho chính trị trong nước hoặc các lĩnh vực lớn khác
trong xã hội có những thay đổi sâu sắc, Nhà nước do đó sẽ phải xác định
lại lợi ích quốc gia, từ đó điều chỉnh tương ứng chính sách ngoại giao
nước mình.
Kinh
tế, chính trị bên trong một nước thay đổi càng mạnh mẽ, chính sách đối
ngoại của nước đó sẽ càng có nhiều thay đổi. Những thay đổi về chính trị
và xã hội trong nước do các nhân tố khách quan dẫn tới này có một quá
trình biến đổi từ lượng sang chất. Nhìn từ quỹ đạo phát triển của lịch
sử Trung Quốc, thường cứ 10 năm các mâu thuẫn kinh tế xã hội lại tập
trung hiện ra, cơ bản cứ 30 năm lại có những thay đổi về xã hội mạnh mẽ.
Việc Trung Quốc hoàn thành cơ bản chính sách chống đế quốc và xác lập
chính sách độc lập tự chủ từ năm 1919-1949 chính là quyết sách chiến
lược của Trung Quốc sau khi đã trải qua hàng chục năm xã hội rối ren và
sự tùy tiện xâm lược của thế giới bên ngoài. Việc thực thi chống chủ
nghĩa đế quốc Mỹ, chống chủ nghĩa xét lại của Liên Xô với
chính sách cách mạng thế giới và đưa ra chính sách cải cách mở cửa cũng
là sự lựa chọn tất yếu trong bối cảnh để Trung Quốc thoát khỏi sự cô
lập quốc tế và “phù hợp với tình hình cách mạng trong nước”.
Mặt
khác, những thay đổi mang tính chu kỳ của tình hình quốc tế cũng thúc
đẩy ngoại giao Trung Quốc liên tục điều chỉnh. Lâu nay, cộng đồng quốc
tế luôn ở trong trạng thái vô chính phủ, còn mỗi nước thì nỗ lực tìm
kiếm sức mạnh, an ninh và lợi ích cho mình. Sự thay đổi về cơ cấu quyền
lực, cơ cấu an ninh và quan hệ cơ cấu lợi ích giữa các nước, đặc biệt là
giữa các nước lớn, trên mức độ rất lớn đã thúc đẩy môi trường quốc tế
thay đổi. “Nếu quan hệ quyền lực chỉ thay đổi theo kiểu duy trì phân
phối theo tỉ lệ như trước đây, thì hệ thống này có thể tiếp tục ở trong
trạng thái cân bằng vô thời hạn. Tuy nhiên, bất luận là tình hình trong
nước hoặc quốc tế thay đổi, đều tất sẽ phá vỡ tính ổn định của hiện
trạng này.” Sự thay đổi, phát triển mang tính chu kỳ của cộng đồng quốc
tế trên mức độ rất lớn đã ảnh hưởng tới những thay đổi và điều chỉnh
trong quan hệ đối ngoại của Trung Quốc, đặc biệt là những thay đổi có
mối liên quan mật thiết với lợi ích và an ninh quốc gia trong môi trường
quốc tế. Ví dụ, những sự kiện lớn như hai cuộc đại chiến thế giới,
Chiến tranh Lạnh trong thế kỷ 20, sự bành trướng quyền lực và mở rộng ra
bên ngoài của Liên Xô hồi những năm 60-70 thế kỷ 20, Liên Xô-Đông Âu
biến động cuối những năm 1980, khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và
khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008…. đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới
lợi ích và an ninh quốc gia Trung Quốc, buộc ngoại giao Trung Quốc phải
có những điều chỉnh mang tính chiến lược. Nói tóm lại, sự thay đổi liên
tục và tác động lẫn nhau của tình hình trong nước và quốc tế về mặt
khách quan đã dẫn tới ngoại giao Trung Quốc nổi lên đặc trưng mang tính
chu kỳ “10 năm một biến động nhỏ, 30 năm một biến động lớn”.
Thứ ba,
sự thay đổi, trưởng thành của các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc cũng là
căn nguyên quan trọng khiến ngoại giao Trung Quốc xuất hiện quy luật
thay đổi mang tính chu kỳ. Năm 1912, triều đại phong kiến thống trị
Trung Quốc 2000 năm diệt vong, Trung Hoa dân quốc được thành lập. Khi đó
do vừa thoát khỏi thể chế triều đại, hơi thở của các triều đại vẫn có
ảnh hưởng tới Trung Hoa dân quốc, do vậy đã xuất hiện màn kịch khôi phục
đế chế (chẳng hạn sự khôi phục của Viên Thế Khải năm 1915 và sự khôi
phục của Trương Huân năm 1917), sau đó mới dần xác lập địa vị thống trị
của Quốc Dân đảng ở Trung Quốc. Sau cuộc Bắc phạt, Tưởng Giới Thạch trở
thành nhà lãnh đạo chủ chốt của Trung Hoa dân quốc. Trung Quốc khi đó
rời rạc như cát vụn, thời đại đã tạo ra Tưởng Giới Thạch. Tuy nhiên do
Tưởng Giới Thạch “dân chủ quá trớn, độc tài vô độ”, vì vậy Trung Quốc
khi đó không hình thành sự thống trị tuyệt đối coi quyền lực trung ương
là nòng cốt, các lực lượng trong nước thừa thế xông lên, đám quân phiệt
hỗn chiến với nhau, lệ thuộc nghiêm trọng vào Mỹ và châu Âu. Đây là một
trong những căn nguyên của chính sách do Tưởng Giới Thạch làm đại diện
như “phe ôn hòa”, “dựa vào Hội Quốc Liên” (tiền thân của Liên Hợp Quốc),
“ổn định trong nước chống giặc ngoại xâm”, “tuyệt đối không chống lại”.
Tưởng Giới Thạch là người theo chủ nghĩa dân tộc, “phàm là một quốc gia
luôn cần có tinh thần dân tộc”, do đó, Tưởng Giới Thạch “liên kết với
Mỹ nhưng không thân Mỹ”, liên kết với Anh đồng thời lại cảnh giác nước
Anh.
Quốc
Dân đảng tháo chạy tới Đài Loan tuyên bố sự thống trị thất bại đối với
Trung Quốc, ngoại giao cân bằng và ngoại giao mềm yếu của Trung Hoa dân
quốc giữa các nước đế quốc cũng tuyên bố chấm dứt. Ngoại giao độc lập tự
chủ trở thành khởi điểm mới của ngoại giao Trung Quốc do nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa thành lập năm 1949, Trung Quốc từ đó bước vào thời kỳ
lãnh đạo của tập thể lãnh đạo thế hệ thứ nhất của Đảng Cộng sản Trung
Quốc do Mao Trạch Đông làm nòng cốt. Mao Trạch Đông là một chính trị gia
theo chủ nghĩa lãng mạn, tràn đầy lý tưởng cao cả đối với tương lai,
thấu hiểu tình cảnh đói nghèo, theo đuổi bình đẳng, khi đó là thời kỳ
Chiến tranh Lạnh, quan hệ đối ngoại của Trung Quốc ở trong trạng thái
căng thẳng. Những nhân tố này đều có ảnh hưởng sâu sắc tới các chiến
lược và chính sách của Trung Quốc như lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, “Đại
nhảy vọt”, “công xã nhân dân”, “Cách mạng văn hóa”, “nghiêng về một
bên”, “một trục” và ngoại giao cách mạng.
Năm
1976, các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc là Mao Trạch Đông, Chu
Ân Lai, Chu Đức lần lượt qua đời, sau 2 năm trì hoãn, nước Trung Quốc
mới bước vào thời kỳ lãnh đạo của tập thể lãnh đạo thế hệ thứ hai do
Đặng Tiểu Bình làm nòng cốt. Thế giới lúc này đang chuyển từ thời đại
chiến tranh và cách mạng sang thời đại hòa bình và phát triển, một Đặng
Tiểu Bình kiên nghị, quả cảm, có tính quyết đoán, có ma lực đã nắm được
cơ hội lịch sử này, chiến lược quốc gia của Trung Quốc đã thực hiện bước
chuyển ngoặt vĩ đại từ “chính trị đứng đầu” sang “ưu tiên kinh tế”.
Chiến lược mở cửa với bên ngoài của Trung Quốc được xác lập là do chịu
ảnh hưởng của quan niệm coi trọng phát triển kinh tế của Đặng Tiểu Bình.
Tháng 12/1978, dưới sự chủ trì của Đặng Tiểu Bình, Hội nghị toàn thể
trung ương 3 khóa 11 của Đảng Cộng sản Trung Quốc cuối cùng đã phá vỡ
được sự ràng buộc của “cánh tả”, xác lập chiến lược cải cách mở cửa.
Đặng Tiểu Bình được khen ngợi là “tổng công trình sư” của cải cách mở
cửa của Trung Quốc.
Bước
sang thế kỷ mới, Trung Quốc từng bước xác lập tập thể lãnh đạo do Hồ
Cẩm Đào làm nòng cốt, tình hình chính trị nội bộ, ngoại giao của Trung
Quốc do đó đã có những nét đổi mới. Trong thế kỷ mới và thời đại mới,
rất nhiều nước coi Trung Quốc là nước láng giềng có mối quan hệ ổn định
và hòa bình, vì cái mà Trung Quốc cần chỉ là sự hòa bình và hài hòa của
thế giới. Sự ôn hòa, thận trọng và tự tin của tập thể lãnh đạo mới đã
tạo ra quan niệm mới thế giới hài hòa và hòa bình phát triển. Tháng
11/2003, Trung Quốc lần đầu tiên đưa ra khái niệm “trỗi dậy hòa bình”.
Nửa cuối năm 2004, Trung Quốc sửa đổi chiến lược “trỗi dậy hòa bình”
thành chiến lược “hòa bình phát triển” ôn hòa hơn. Tháng 4/2005, Chủ
tịch Hồ Cẩm Đào tham gia Hội nghị cấp cao Á-Phi, lần đầu tiên đưa ra chủ
trương xây dựng thế giới hài hòa. Ngày 15/9/2005, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào
lần đầu tiên chính thức công khai tuyên bố rõ ràng với thế giới Trung
Quốc sẽ nỗ lực thúc đẩy xây dựng thế giới hài hòa. Việc đưa ra chiến
lược hòa bình phát triển và quan niệm thế giới hài hòa có nghĩa là ý
tưởng ngoại giao hòa bình của Trung Quốc đã phát triển và trở nên sâu
sắc hơn.
Đứng
trước những đòi hỏi, thay đổi của bối cảnh quốc tế cũng như trong
nước, ngoại giao Trung Quốc hiện đang trong thời kỳ chuyển đổi mô hình.
Nhiều dấu hiệu cho thấy cuộc cải tổ đợt mới của ngoại giao Trung Quốc đã
bắt đầu được khởi động và có thể dẫn đến những thay đổi sâu sắc về cơ
cấu quyền lực quốc tế, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước xung quanh.
III- Những thay đổi của ngoại giao Trung Quốc hiện nay
Tình
hình bên trong và ngoài Trung Quốc hiện đang trải qua những biến đổi
lớn, ngoại giao Trung Quốc lại đến thời khắc then chốt thay đổi có chu
kỳ, ở vào thời kỳ mới chuyển đổi mô hình ngoại giao.
Xét
về chu kỳ thời gian, 2009 là thời kỳ cuối của 30 năm lần thứ 3 của
ngoại giao Trung Quốc kể từ năm 1919, chu kỳ thời gian báo hiệu ngoại
giao Trung Quốc sẽ có những thay đổi và điều chỉnh mạnh mẽ, thậm chí là
mang tính cách mạng. Điều này không hẳn dựa vào tình tiết các con số đơn
giản hoặc chủ nghĩa kinh nghiệm mù quáng, mà do xu thế quy luật tự
nhiên và đặc trưng xã hội cùng quyết định.
Xét
về bối cảnh quốc tế, cuộc khủng hoảng tài chính mang tính toàn cầu do
khủng hoảng cho vay thứ cấp tháng 9/2008 dẫn tới cần được Trung Quốc
tham gia đối phó, chính sách ngoại giao của Trung Quốc do đó cũng cần
được điều chỉnh. Về chính trị, tình hình quốc tế sau khi Chiến tranh
Lạnh kết thúc nổi lên xu thế “nhất siêu đa cường”. Bước sang thế kỷ 21,
mặc dù ảnh hưởng của các cơ chế quốc tế đang không ngừng tăng lên, nhưng
trạng thái vô chính phủ của cộng đồng quốc tế vẫn không thay đổi, cộng
đồng quốc tế chứa đầy các nhân tố bất ổn, “bất cứ một cuộc khủng hoảng
mang tính toàn cầu nào đều có khả năng dẫn tới rối ren thậm chí tổ chức
lại cục diện quốc tế, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay đúng là
như vậy.” Cùng với toàn cầu hóa được đẩy mạnh hơn, cơ cấu sức mạnh quốc
tế đang có những thay đổi lớn. Ưu thế tương đối của Mỹ đang dần giảm
đi, trong khi ưu thế tương đối của Trung Quốc đang tăng lên. Việc giải
quyết rất nhiều vấn đề quốc tế ngày càng cần sự tham gia của Trung Quốc,
những động hướng mới của tình hình quốc tế kêu gọi Trung Quốc cần phải
thay đổi mô hình ngoại giao.
Về
bối cảnh trong nước, Trung Quốc đã thực hiện công cuộc cải cách mở cửa
được hơn 30 năm. Đặc biệt từ khi bước vào giai đoạn chót 10 năm đầu tiên
của thế kỷ 21, tình hình quốc tế đã có những biến đổi lớn. Năm
2006-2009, thị trường cổ phiếu Trung Quốc sụt giá đột ngột, thị trường
nhà ở bắt đầu xuất hiện bong bóng, khủng hoảng kinh tế thế giới lan tới
Trung Quốc. Năm 2008 và 2009, Trung Quốc lần lượt xảy ra các sự kiện
“bão tuyết lớn”, “sự kiện Tây Tạng 13/4”, “động đất ở Vấn Xuyên ngày
12/5”, “sự kiện sữa Tam Lộc” và “sự kiện Tân Cương ngày 5/7”… Cũng trong
năm 2008, Trung Quốc đã tiến hành một loạt cải cách kinh tế, “lưu
chuyển đất đai” được coi là cuộc cải cách kinh tế lớn nhất, điều này
khiến giai cấp xã hội có những thay đổi to lớn, phân hóa hai cực sẽ trở
nên gay gắt hơn. Nhưng chế độ bảo hiểm y tế và bảo hiểm dưỡng lão của
Trung Quốc hiện vẫn chưa kiện toàn, đây cũng là nguyên nhân khiến xung
đột xã hội tăng lên trong mấy năm gần đây. Thực hiện lợi ích bình đẳng,
thể hiện công bằng xã hội sẽ là mấu chốt để Trung Quốc duy trì xã hội ổn
định, cũng là mấu chốt để Trung Quốc có thể tiếp tục phát triển hay
không. Hàng loạt thay đổi của tình hình trong nước hiện nay đều ngầm cho
thấy chính trị nội bộ và ngoại giao Trung Quốc sẽ bước vào một thời kỳ
mới.
Nhiều
dấu hiệu cho thấy cuộc cải tổ đợt mới của ngoại giao Trung Quốc đã bắt
đầu được khởi động, với cốt lõi là dần chuyển từ ngoại giao nhà nước
thông thường sang ngoại giao nước lớn, từ ngoại giao thế yếu chuyển sang
ngoại giao thế mạnh, từ ngoại giao tiêu cực bị động chuyển sang ngoại
giao tích cực chủ động, cụ thể gồm tích cực tham gia các công việc khu
vực, hộ tống tàu thuyền, cam kết gánh vác trách nhiệm nước lớn, thể hiện
văn hóa Trung Quốc … Trung Quốc tích cực tham gia các công việc khu
vực, như tích cực tăng cường quan hệ với ASEAN, tích cực tham gia “đàm
phán 6 bên” về vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên. Trong cuộc khủng hoảng
tài chính châu Á năm 1997, Trung Quốc đã giúp đỡ và ủng hộ ASEAN ngay cả
khi đất nước cực kỳ khó khăn. Khi tham dự Hội nghị các nhà lãnh đạo
ASEAN-Trung Quốc lần thứ 5 tháng 11/2001, Thủ tướng Chu Dung Cơ nêu rõ,
Trung Quốc và ASEAN cần xác lập rõ các lĩnh vực hợp tác trọng điểm trong
thế kỷ mới và xác định mục tiêu xây dựng khu mậu dịch tự do Trung
Quốc-ASEAN. Thái độ phát triển quan hệ với các nước ASEAN của Trung Quốc
trở nên tích cực hơn. Trong vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên, từ khi tham
gia “đàm phán 6 bên” lần thứ nhất tháng 8/2003 đến nay, Trung Quốc luôn
tích cực tham gia giải quyết vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Trong
thời gian xảy ra sóng thần ở Ấn Độ Dương năm 2005, Trung Quốc đã có
chính sách viện trợ tích cực. Tháng 1/2009, Trung Quốc tiến hành hộ tống
tàu thuyền trên biển lần đầu tiên, và trước đó vào cuối năm 2008 Bộ
Quốc phòng Trung Quốc lần đầu tiên tuyên bố đóng tàu sân bay, điều này
chứng tỏ, lợi ích ở nước ngoài đang tăng lên, khiến Trung Quốc càng coi
trọng biển hơn. Tỉ lệ lợi ích quốc gia của Trung Quốc ở nước ngoài trong
thời kỳ mới sẽ ngày càng lớn, người Trung Quốc nhất định phải bước ra
ngoài, mở mang và thực hiện những lợi ích này trong những chặng đường
mới và không gian mới.
Thể
hiện văn hóa Trung Quốc với thế giới bên ngoài là một dấu hiệu quan
trọng trong sự thay đổi của ngoại giao Trung Quốc. Những năm gần đây,
Trung Quốc bắt đầu tích cực thể hiện và tuyên truyền văn hóa Trung Quốc
với bên ngoài. Học viện Khổng Tử chính là một điển hình. Từ khi mở Học
viện Khổng Tử đầu tiên năm 2004 đến nay, Trung Quốc đã thiết lập 256 Học
viện Khổng Tử, 58 Lớp học Khổng Tử ở 81 quốc gia và khu vực tại 5 châu
lục trên thế giới. Năm 2008, Học viện Khổng Tử và Lớp học Khổng Tử cùng
nhau mở hơn 6000 lớp dạy các loại giáo trình Hán ngữ, có 130.000 học
viên đăng ký, tổ chức hơn 2000 lượt các loại hình hoạt động giao lưu văn
hóa, có tới 1.400.000 người tham gia. Hiện vẫn có các trường đại học và
cơ quan của nhiều nước xin lập Học viện Khổng Tử. Ngoài ra, Trung Quốc
còn phối hợp với một số nước tổ chức “Năm Trung Quốc”, “Tiết mục văn hóa
Trung Quốc”, “Tết mục nghệ thuật Trung Quốc”, “Hội làng tết Trung
Quốc”, “Tiết mục di sản văn hóa phi vật thể của Trung Quốc”, thể hiện
tinh thần văn hóa Trung Quốc với thế giới.
Ngoại
giao Trung Quốc thay đổi sẽ dẫn đến những thay đổi sâu sắc về cơ cấu
quyền lực quốc tế, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước xung quanh, mối
quan hệ giữa ý tưởng thế giới của Trung Quốc với hệ thống quốc tế hiện
có.
Thứ
nhất là sự thay đổi của cơ cấu quyền lực quốc tế. Mặc dù có học giả cho
rằng trong 15-20 năm tới, cơ cấu quyền lực của hệ thống quốc tế sẽ
không có những thay đổi mang tính thực chất, “sự so sánh thực lực giữa
châu Âu, Nhật Bản với Mỹ sẽ tiếp tục duy trì như hiện nay, sự chênh lệch
về lực lượng giữa Trung Quốc, Ấn Độ với Mỹ có khả năng sẽ được thu hẹp,
nhưng sẽ không có những thay đổi mang tính quyết định làm thay đổi cục
diện phân phối quyền lực thế giới.” Liệu điều này có nghĩa là 20 năm sau
sẽ có thay đổi. Nếu kinh tế Trung Quốc có thể duy trì tốc độ tăng
trưởng 9%/năm trong 15-20 năm tới, sự so sánh thực lực Trung-Mỹ sẽ có
những thay đổi mang tính căn bản. Tính từ năm 2007, nếu GDP của Mỹ tăng
bình quân 3,5%/năm, tới năm 2017 và 2026, GDP của Mỹ sẽ lần lượt đạt
19,53 nghìn tỷ USD và 26,61 nghìn tỷ USD, trong khi đó GDP của Trung
Quốc sẽ lần lượt đạt 7,7 nghìn tỷ USD và 16,71 nghìn tỷ USD, tương đương
với 39,4% và 62,8% của Mỹ, và sẽ vượt hơn nhiều so với các cường quốc
hạng 2 như Nhật Bản, Đức, Anh và Pháp. Mặc dù GDP bình quân đầu người
của Trung Quốc vẫn có chênh lệch rất lớn so với các cường quốc hạng 2,
nhưng thực lực tổng thể của Trung Quốc sẽ vượt qua những nước này. Có
học giả dự đoán, ở giai đoạn sau của những năm đầu thế kỷ 21, sức mạnh
tổng thể của Trung Quốc có khả năng hơn hẳn bất cứ một nước lớn thực sự
và tiềm ẩn nào ngoài Mỹ. Xu thế lâu dài nói chung của chính trị quốc tế
Đông Á sẽ là quyền thế của Mỹ suy yếu, ảnh hưởng của Trung Quốc tăng
lên, thậm chí cuối cùng có khả năng xảy ra “sự chuyển dịch quyền thế”
mang tính căn bản. Khi thực lực của Trung Quốc tăng lên, cơ cấu quyền
lực quốc tế cũng sẽ được phân phối lại, sự đóng góp chi phí của Trung
Quốc ở Liên Hợp Quốc cũng đã tăng lên. Hội phí và chi phí gìn giữ hòa
bình của Trung Quốc trong năm 2007 tăng đến 42% so với năm 2006, tổng
cộng 270 triệu USD, tỉ trọng hội phí của Trung Quốc tăng đến 2,7%; từ
năm 2010, hội phí và chi phí gìn giữ hòa bình của Trung Quốc ở Liên Hợp
Quốc sẽ lần lượt là 80 triệu USD và 300 triệu USD, chiếm tỉ trọng lần
lượt tăng lên 3,2% và 3,9%. Định mức của Trung Quốc tại Quỹ tiền tệ quốc
tế cũng sẽ tăng lên. Ý tưởng dự trữ tiền tệ siêu chủ quyền Trung Quốc
đưa ra trước thềm Hội nghị G-20 ở Luân Đôn tháng 3/2009 ngầm bày tỏ
những mong muốn của Trung Quốc đối với IMF. Trung Quốc giữ vai trò chủ
đạo trong các cuộc đàm phán 6 bên về vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên, dù
ban đầu Chính phủ Trung Quốc “rất không tình nguyện”. Trên thực tế,
những điều này chính là biểu hiện của địa vị và quyền lực quốc tế của
Trung Quốc đang tăng lên.
Nếu
kinh tế Trung Quốc có thể duy trì phát triển nhanh, tới khoảng năm
2039, GDP của Trung Quốc về tổng lượng sẽ vượt qua Mỹ, chi phí quân sự
của Trung Quốc cũng sẽ xích gần, thậm chí là vượt tỉ lệ 38,2% chi phí
quân sự của Mỹ. Ngân sách quốc phòng năm tài khóa 2007 của Trung Quốc là
355,491 tỷ nhân dân tệ, chiếm 1,38% GDP của năm này, trong đó 2/3 là
những chi phí mang tính duy trì cho đời sống và huấn luyện quân đội; chi
phí quân sự của Mỹ năm 2007 chiếm 4,5% tỉ trọng GDP. Tính toán theo tỉ
trọng GDP, tới năm 2039, chi phí quân sự của Trung Quốc sẽ là 707 tỷ
USD, và Mỹ 1.873 tỷ USD. Cơ cấu sức mạnh giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ có
những thay đổi lớn, sự so sánh thực lực quốc tế cũng sẽ có bước chuyển
ngoặt lớn, ngoại giao của Trung Quốc lúc này sẽ là ngoại giao nước lớn
đích thực.
Thứ
hai, những thay đổi trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước xung
quanh. Về mặt tổng thể, Trung Quốc tích cực tìm kiếm hợp tác với các
nước láng giềng châu Á trong khuôn khổ mới của “chính sách thân thiện,
hữu nghị với láng giềng”, “phần đông các nước châu Á hiện nay coi Trung
Quốc là có thiện ý chứ không phải là ác ý, và đang tiếp nhận sự trỗi dậy
của Trung Quốc.” Tuy nhiên, việc Trung Quốc trỗi dậy và cải tổ ngoại
giao sẽ làm thay đổi quan hệ giữa Trung Quốc với các nước xung quanh.
Nhật Bản là láng giềng phía Đông của Trung Quốc. Việc Trung Quốc tích
cực tham gia các công việc quốc tế và khả năng chủ đạo các công việc thế
giới không ngừng tăng cường sẽ kích động Nhật Bản. Thêm vào đó, Trung
Quốc và Nhật Bản còn có tranh chấp lịch sử, dầu mỏ ở Biển Hoa Đông và
đảo Điếu Ngư. Trước sự thay đổi và phát triển của Trung Quốc, Nhật Bản
có thể sẽ có 3 sự lựa chọn: một là, tăng cường hơn nữa quan hệ đồng minh
với Mỹ để cân bằng vai trò chủ đạo của Trung Quốc đối với các sự vụ ở
Đông Á; hai là, từng bước thoát khỏi sự kiềm chế của Mỹ, trở lại Đông Á,
tăng cường quan hệ với Trung Quốc; ba là, tăng cường thực lực của mình,
đặc biệt là sức mạnh quân sự, tìm kiếm sự cân bằng giữa Trung Quốc và
Mỹ, vừa không dựa vào Mỹ cũng không dựa vào Trung Quốc. Xét về lịch sử,
Nhật Bản nhiều khả năng sẽ lựa chọn dựa vào một quốc gia nào đó. Với
tình hình hiện nay, Nhật Bản sẽ lựa chọn Mỹ, tăng cường hơn nữa quan hệ
đồng minh với Mỹ . Vì, “Trung Quốc chưa thể làm cho Nhật Bản tin tưởng,
sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ không làm cho các nước láng giềng quan
trọng nhất của nước này phải trả giá”. Tuy nhiên, khi thực lực tổng thể
của Trung Quốc xích gần hoặc vượt qua Mỹ và thực hiện ngoại giao nước
lớn, Mỹ sẽ khó có thể gánh vác cái giá phải trả khi đối kháng với Trung
Quốc và lựa chọn chấp nhận Trung Quốc trỗi dậy, còn Nhật Bản có thể sẽ
có sự lựa chọn chiến lược ngoại giao kiểu khác. Vì “khi đồng minh của Mỹ
chấp nhận sự trỗi dậy của Trung Quốc, Trung Quốc sẽ có ảnh hưởng tới
quan hệ giữa Mỹ với những nước này”. Cũng tương tự vậy, khi Mỹ chấp nhận
Trung Quốc trỗi dậy cũng sẽ ảnh hưởng tới quan hệ giữa các đồng minh
của Mỹ với Trung Quốc. Việc Nhật Bản ra sức đẩy mạnh Cộng đồng Đông Á đã
phản ánh ngoại giao Nhật Bản thích ứng được với những biến đổi mới của
cục diện Đông Á.
Nga
là nước láng giềng phía Bắc của Trung Quốc, cũng là nước có thực lực
quân sự lớn mạnh nhất ở xung quanh Trung Quốc. Trong thời kỳ Chiến tranh
Lạnh, quả cân trong quan hệ Trung –Nga (Liên Xô) nghiêng về phía Nga,
nhưng sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc quả cân lại nghiêng về phía
Trung Quốc, dẫn tới việc hai nước thiết lập quan hệ đối tác hợp tác
chiến lược năm 1996. Năm 2001, Tổ chức hợp tác Thượng Hải được thành lập
dưới sự khởi xướng chung của hai nước. Tới năm 2008, hai nước đã hoàn
thành toàn bộ công tác phân chia biên giới, bao gồm việc chuyển giao đảo
Ussuriysk. Trong một thời gian tương đối dài (20-30 năm), hai bên không
tồn tại mối đe dọa chiến lược lẫn nhau. Do sự bao vây chiến lược của Mỹ
và các nước phương Tây đối với Nga, thực lực dần tăng lên của Trung
Quốc sẽ khiến Nga nghiêng về phía Trung Quốc nhằm cân bằng sức ép của Mỹ
và các nước phương Tây. Khi thực lực tổng thể của Trung Quốc xích gần
hoặc vượt qua Mỹ và thực hiện ngoại giao nước lớn, Nga cũng có khả năng
sẽ trở thành nhánh quan trọng để cân bằng quan hệ Trung-Mỹ.
Hàn
Quốc và Bắc Triều Tiên là các nước láng giềng quan trọng ở phía Đông
Trung Quốc, hai bên có lịch sử lâu đời và không có những xung đột căn
bản, sự thống nhất của Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên vẫn cần sự ủng hộ của
Trung Quốc. Hiện nay, Hàn Quốc có khuynh hướng nghiêng về Mỹ, Bắc Triều
Tiên nghiêng về Trung Quốc. Khi thực lực tổng thể của Trung Quốc xích
gần hoặc vượt quá Mỹ, vì lợi ích của mình Hàn Quốc sẽ lựa chọn trung lập
thậm chí nghiêng về Trung Quốc, trong khi Bắc Triều Tiên sẽ tăng cường
hơn nữa quan hệ với Trung Quốc.
ASEAN
sau Chiến tranh Lạnh luôn tìm kiếm cân bằng giữa Trung Quốc, Mỹ và Nhật
Bản. Nếu như hôm nay Trung-Mỹ chia rẽ, ASEAN cũng sẽ xảy ra chia rẽ, có
một số nước sẽ nghiêng về Mỹ, một số nước sẽ nghiêng về phía Trung
Quốc, và nhiều nước sẽ lựa chọn trung lập. ASEAN và Trung Quốc có tranh
chấp trong vấn đề Biển Đông, việc Trung Quốc đề xuất “gác lại tranh
chấp, cùng nhau khai thác” và nhường lợi ích cho ASEAN trong “Khu mậu
dịch tự do Trung Quốc – ASEAN”, giúp tăng cường quan hệ giữa hai bên.
Khi thực lực tổng thể của Trung Quốc xích gần hoặc vượt qua Mỹ, nhìn
chung ASEAN có khả năng lựa chọn trung lập hoặc xích gần Trung Quốc, vì
so với quan hệ Mỹ - ASEAN, quan hệ ASEAN – Trung Quốc có lợi ích chiến
lược gắn bó hơn.
Ấn
Độ là nước láng giềng phía Nam của Trung Quốc, hai nước có nhiều điểm
giống nhau: đều là nước có văn minh lịch sử lâu đời, dân số đông, là các
nước đang phát triển, tranh chấp chủ yếu giữa hai nước là ở vấn đề biên
giới, và không có xung đột chiến lược. Khi thực lực tổng hợp của Trung
Quốc xích gần hoặc vượt qua Mỹ và thực hiện ngoại giao nước lớn, dựa
trên những toan tính lợi ích quốc gia, Ấn Độ có khả năng lựa chọn chiến
lược trung lập mà không ủng hộ bất cứ bên nào, sự lựa chọn của Ấn Độ
cũng là chỉ dấu của lịch sử và văn hóa nước này.
Thứ
ba, sự thay đổi giữa ý tưởng thế giới của Trung Quốc với các mối quan
hệ trong hệ thống quốc tế hiện có. Ý tưởng thế giới trong tương lai của
Trung Quốc hiện nay là một thế giới hài hòa khá hiện thực, mục tiêu được
thay thế trước đó là ý tưởng chủ nghĩa cộng sản vĩ đại. Cùng với sức
mạnh tổng hợp tăng lên, vị thế của Trung Quốc trên vũ đài quốc tế ngày
càng tăng lên thậm chí sẽ dần bước tới trung tâm của vũ đài quốc tế.
“Sức mạnh tổng hợp tăng lên nhiều lần và địa vị quốc tế nâng lên nhanh
chóng khiến Trung Quốc đã bước đầu có khả năng và ảnh hưởng tạo dựng hệ
thống quốc tế. Qua mấy thế kỷ, Trung Quốc cuối cùng đã có quyền xét lại
hệ thống quốc tế hiện có và quyền thiết kế hệ thống quốc tế tương lai.” Ý
tưởng thế giới hài hòa của Trung Quốc sẽ có ảnh hưởng và cũng chịu sự
kiềm chế của hệ thống quốc tế hiện nay. “Xu thế thế giới của Trung Quốc
là vừa phòng ngừa và đấu tranh, vừa phối hợp và thuận theo, hơn nữa phối
hợp và thuận theo còn nhiều hơn phòng ngừa và đấu tranh.” Ý tưởng thế
giới hài hòa cần dựa vào các cơ chế quốc tế, mong muốn của nó là phải
trải qua quá trình chuyển đổi từ lý tưởng tới hiện thực, cần thể truyền
dẫn quan trọng của các cơ chế quốc tế. Ý tưởng thế giới hài hòa của
Trung Quốc là muốn cải thiện hệ thống quốc tế hiện có, làm cho hệ thống
này vận hành tốt hơn, có lợi hơn trong việc bảo vệ lợi ích của những
người yếu thế, có lợi cho việc thể hiện giá trị của công bằng, hợp lý,
bình đẳng, hòa bình, ổn định và đa nguyên. Mục tiêu đối ngoại của Trung
Quốc không phải là xây dựng một trật tự thế giới mới khác, mà là liên
tục đưa vào các “nhân tố Trung Quốc” tích cực, có thể đại diện cho tương
lai trong hệ thống thế giới hiện nay. Hệ thống thế giới trong tương lai
chủ yếu sẽ là sự tác động qua lại, chấn chỉnh và thỏa hiệp giữa quan
niệm thế giới hài hòa do Trung Quốc làm đại diện và khái niệm chuẩn mực
do Mỹ làm đại diện. Hoặc bề ngoài là quy tắc phương Tây, bên trong là
hài hòa phương Đông. Hệ thống thế giới của tương lai vừa không phải là
hệ thống phương Tây, cũng không phải là hệ thống phương Đông, mà là hệ
thống thế giới kiểu mới phản ánh những lợi ích đa nguyên. Các cuộc “đàm
phán sáu bên” về vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên đã phản ánh một số dấu
hiệu nào đó của hệ thống này.
Thực
chất của việc Trung Quốc chuyển đổi mô hình ngoại giao là cùng với sức
mạnh tổng hợp tăng lên, Trung Quốc cần thông qua thay đổi mô hình ngoại
giao để bảo vệ lợi ích quốc tế ngày càng tăng lên, bảo vệ những lợi ích
quốc gia trước đây không có khả năng bảo vệ. Khi thực lực và lợi ích
quốc gia thay đổi, quan niệm thế giới của Trung Quốc cũng sẽ thay đổi,
tư cách quốc gia của Trung Quốc theo đó cũng thay đổi, từ người cách
mạng và kẻ bàng quan trong hệ thống quốc tế trước đây biến thành người
xây dựng, tham gia và bên có lợi ích liên quan hiện nay. Điều cần chú ý
là, sự chuyển đổi mô hình ngoại giao của Trung Quốc không phải là đi
đầu, mà là muốn làm hết khả năng trong phạm vi có thể. “Chúng tôi không
bao giờ muốn đi đầu, đây là một quốc sách căn bản.” “Vai trò đầu tàu này
chúng tôi không mang nổi, sức cũng không đủ. Làm cũng chẳng được lợi
lộc gì, rất nhiều cái chủ động đều đã mất.” Ngoại giao nước lớn của
Trung Quốc không nên quá công khai, cần phù hợp với sức mạnh tổng hợp
đất nước, phải hiểu rõ mình vẫn là nước đang phát triển. Dưới tiền đề
vẫn ưu tiên hơn cho các công việc nội bộ hiện nay, Trung Quốc nên duy
trì sự cân bằng giữa các công việc nội bộ với ngoại giao. Ngoại giao
nước lớn của Trung Quốc nên là ngoại giao văn hóa, ngoại giao thiện ý
như vẫn kiên trì trong lịch sử. Sự trỗi dậy của Trung Quốc nhất định là
sự trỗi dậy có văn hóa, Trung Quốc sẽ lấy được lòng tin của “thiên hạ”
bằng cái đức và lòng trân thành của mình.
Nói
tóm lại, ngoại giao của Trung Quốc hiện nay đang trong thời kỳ chuyển
đổi mô hình, các quyết sách ngoại giao của Trung Quốc cần suy tính kỹ
càng và mưu tính có chiến lược, nếu không, lợi ích quốc gia sẽ bị tổn
hại. Trung Quốc cần coi trọng và lợi dụng đặc trưng mang tính chu kỳ của
ngoại giao, xử lý ổn thỏa một loạt vấn đề trong quá trình chuyển đổi mô
hình ngoại giao. Ngoại giao Trung Quốc hoặc có thể sẽ có những thay đổi
lớn hơn vào khoảng năm 2039, khi đó ngoại giao Trung Quốc hoặc sẽ chào
đón những thay đổi và chuyển ngoặt mãnh liệt nhất kể từ thế kỷ 20 đến
nay, hoặc sẽ là một sự thay đổi ngoại giao lớn cơ hội trăm năm có một./.
http://www.nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-trung-quoc/1420-tinh-chu-ky-trong-chinh-sach-ngoai-giao-trung-quoc-tiep-theo
Bài viết đăng trên Tạp chí “Quan hệ quốc tế hiện đại”, Trung Quốc
Thái Thịnh (gt)