Eo
biển Malắcca có vị trí vô cùng quan trọng về kinh tế, chính trị, quân
sự. Do vậy, việc kiểm soát, tìm kiếm sự ảnh hưởng, duy trì an ninh eo
biển này luôn là mối quan tâm hàng đầu của 3 quốc gia Malayxia, Xingapo,
Indonexia – các quốc gia sở hữu và là những nước chủ yếu bảo vệ an ninh
eo biển, cũng như lôi kéo mối quan tâm của các cường quốc biển như Mỹ,
Trung Quốc, Ấn Độ.
I) Sự hình thành cơ chế an ninh
Từ
xưa đến nay, biển Malắcca luôn là nơi có vị trí hiểm yếu về quân sự. Để
kiểm soát eo biển này, khống chế con đường huyết mạch thương mại quốc
tế, giành lợi ích kinh tế to lớn, mấy thế kỷ gần đây, vương quốc Mã Lai
cổ đại, thực dân châu Âu và Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai
đều thay nhau chiếm lĩnh một phần hoặc toàn bộ khu vực này. Sau Chiến
tranh thế giới thứ hai, Inđônêxia và Malaixia lần lượt giành được độc
lập, trở thành quốc gia dân tộc. Năm 1965, bang tự trị Xinhgapo của
Malaixia cũng tuyên bố độc lập. Từ đó, vùng ven bờ eo biển Malắcca với ý
nghĩa hiện đại do ba nước này chính thức xác lập. Tuy nhiên, do lập
trường không giống nhau, ba nước đã xảy ra tranh chấp nhiều lần trong
vấn đề phân chia vùng nước eo biển. Trong đó, Inđônêxia là nước coi
trọng chủ quyền eo biển sớm nhất. Năm 1957, nước này đưa ra “Tuyên bố
quốc đảo”, lần đầu tiên khẳng định eo biển Malắcca thuộc phạm vi lãnh
hải của Inđônêxia theo “Nguyên tắc nội thủy quốc gia quần đảo”, có chủ
quyền và quyền quản lý đối với eo biển. Tiếp đó, Malaixia khẳng định chủ
quyền và quyền quản lý đối với eo biển Malắcca theo “Công ước Giơnevơ
về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải” và “Công ước Giơnevơ về thềm lục
địa” của Liên hợp quốc năm 1958. Sau khi Xinhgapo giành được độc lập,
vấn đề chủ quyền vùng eo biển cũng rất cứng rắn, không hề nhượng bộ. Vì
thế, ba nước xảy ra tranh chấp vùng eo biển này. Sau khi ASEAN thành
lập, các nước ven biển đàm phán vấn đề phân giới vùng biển trong khuôn
khổ ASEAN. Năm 1971, tổ chức này đưa ra tuyên bố chung phản đối quốc tế hoá eo biển Malắcca và Xinhgapo. Tuyên
bố nêu rõ: 1) Eo biển Malắcca và Xinhgapo không phải là eo biển quốc
tế; (2) Giao thông qua hai eo biển này phải được áp dụng nguyên tắc đi
qua không gây hại. Sau đó qua nhiều vòng đàm phán, trong thập niên 1970,
ba nước cuối cùng đã giải quyết được tranh chấp trong vấn đề phân giới
chủ quyền eo biển Malắcca. “Công ước Liên hợp quốc về Luật biển” được ký
kết năm 1982 cũng xác lập và giới hạn đối với “nguyên tắc vùng nội
thuỷ” quốc gia quần đảo. Điều này có nghĩa là cộng đồng quốc tế thừa
nhận địa vị pháp lý quốc tế của eo biển Malắcca không thuộc “eo biển
quốc tế” cũng như ba nước eo biển có chủ quyền và quyền quản lý an ninh
eo biển Malắcca. Do đó, ba nước ven biển này cũng trở thành những quốc
gia sở hữu và là những nước chủ yếu bảo vệ an ninh eo biển.
Tuy
nhiên, việc xác định quyền sở hữu không giải quyết được vấn đề an ninh
eo biển, những nhân tố phức tạp ảnh hưởng đến an ninh eo biển luôn gây
khó khăn cho ba nước và các quốc gia có liên quan. Những nhân tố này bao
gồm hai cấp độ là biểu hiện khách quan và lo ngại chủ quan. Nội dung
liên quan đến nhiều lĩnh vực như tuyến đường biển, cướp biển, chủ nghĩa
khủng bố, buôn lậu, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, bệnh truyền
nhiễm, đói nghèo, di cư bất hợp pháp và mối lo ngại nước ngoài có thể
can dự vào eo biển này. Hiện nay, Inđônêxia, Malaixia và Xinhgapo là
nước sở hữu hợp pháp quyền kiểm soát, là bên liên quan lợi ích trực tiếp
của an ninh eo biển. An ninh eo biển có ảnh hưởng quan trọng đến lợi
ích kinh tế, tính mạng nhân dân, an ninh tài sản của ba nước. Trong
thời kỳ đầu, mỗi nước một kiểu, thực hiện riêng rẽ nhiều biện pháp để
bảo đảm an ninh eo biển. Tính chất phức tạp trong vấn đề an ninh eo biển
Malắcca khiến ba nước ven biển ý thức được rằng dựa vào sức mạnh của
một nước thì không thể giải quyết được mọi vấn đề mà phải xây dựng cơ
chế hợp tác với các quốc gia có liên quan để cùng ứng phó.
Trong
quá trình tìm kiếm biện pháp xây dựng cơ chế, do lịch sử, văn hoá, sức
mạnh đất nước và vị trí địa lý khác nhau, lợi ích cơ bản từ eo biển và
tính toán nội bộ của mỗi nước cũng khác nhau, do đó, họ có trọng điểm
khác nhau, thái độ và biện pháp khác nhau về vấn đề an ninh eo biển
trong phối hợp an ninh cũng vừa có hợp tác, vừa có xung đột và đấu
tranh. Trong đó, Xinhgapo do diện tích nhỏ, dân số ít, nên về góc độ an
ninh, nước này luôn có thái độ nghi kỵ với hai nước Hồi giáo lớn
Inđônêxia và Malaixia về an ninh. Do đó, Xinhgapo luôn hoan nghênh các
nước bên ngoài khu vực can dự vào công việc an ninh ở eo biển Malắcca,
hy vọng qua đó để cân bằng thế lực. Tuy nhiên, do bị thực dân đô hộ và
trải qua quá trình gian khổ giành độc lập, về mặt chủ quan, Malaixia và
Inđônêxia không muốn có sự can dự của thế lực bên ngoài vào khu vực.
Điều này đã tạo ra các cơ chế nhiều cấp độ, nhiều hình thức xung quanh
an ninh eo biển Malắcca.
II) Sự cấu thành cơ chế an ninh eo biển Malắcca
Một là cơ chế phối hợp quốc gia ven biển.
Sự
phối hợp của ba nước ở eo biển này trong vấn đề eo biển Malắcca bắt đầu
từ thập niên 70 của thế kỷ XX. Năm 1971, để giải quyết vấn đề chủ quyền
vùng nước, ba nước sau khi đàm phán đã ra tuyên bố chung phản đối quốc tế hoá eo biển Malắcca và Xinhgapo. Đây là sự khởi đầu chuyển từ đấu tranh sang dàn xếp phối hợp của ba nước trong vấn đề eo biển.
Những
nhân tố đe doạ có thể ảnh hưởng đến an ninh eo biển tăng lên, ba nước
ven bờ cũng từng bước phối hợp và hợp tác nhiều hơn. Đầu năm 1992, để
ngăn chặn hoạt động cướp biển ở eo biển Malắcca và tuyến đường biển phía
tây nam Xinhgapo, Inđônêxia, Malaixia và Xinhgapo đã đàm phán thúc đẩy
hành động chống cướp biển, xây dựng trung tâm chống cướp biển ở Cuala
Lămpơ. Hải quân Inđônêxia và Xinhgapo ký “Hiệp định tuần tra chung”
tháng 7/1992 cùng bảo vệ an ninh trên biển. Hai nước này còn xây dựng kế
hoạch hành động chung trên eo biển Malắcca. Tháng 4/2007, ba nước
Xinhgapo, Malaixia, Inđônêxia bắt đầu phối hợp tuần tra chung, trao đổi
tình hình kế hoạch tuần tra, chỉ huy, trình tự kiểm soát mỗi bên và vị
trí tàu tuần tra. Tháng 5/2005, Xinhgapo và Malaixia tăng cường hợp tác,
đã khởi động “hệ thống giám sát hình ảnh trên biển” (SURPIC), hải quân
hai nước bắt đầu thực hiện tình huống thực tế ở eo biển Malắcca. Tháng
9/2005, Xinhgapo, Malaixia, Inđônêxia và Thái Lan cùng tuần tra trên
không với tên gọi “Con mắt không trung”, cùng tăng cường giám sát trên
không khu vực eo biển Malắcca. Máy bay trinh sát hải quân chở nhân viên
quân sự bốn nước tuần tra vùng trời eo biển này theo định kỳ, nếu phát
hiện có vấn đề, nơi xảy ra sự vụ sẽ để nước có liên quan điều động xử
lý. Tháng 4/2006, quan chức quân sự của ba nước Xinhgapo, Malaixia,
Inđônêxia tổ chức “Hội nghị phối hợp tuần tra chung eo biển Malắcca” tại
đảo Batan Inđônêxia, đã quy định rõ hơn vấn đề hợp tác an ninh khu vực
eo biển này. Năm 2008, ba nước chính thức thực hiện cơ chế hợp tác có
liên quan đến eo biển Malắcca và eo biển Xinhgapo, cùng bảo vệ an ninh
hàng hải và môi trường ở eo biển. Ngày 14/10/2009, Diễn đàn Hợp tác an
ninh hàng hải và bảo vệ môi trường eo biển Malắcca lần thứ hai tổ chức
tại Xinhgapo, đại biểu ba nước ven biển và Tổ chức Biển quốc tế đã tập
trung thảo luận vấn đề an ninh và thông suốt của tuyến đường eo biển
này. Cũng vào ngày hôm đó, ba nước và tổ chức trên đã ký một hiệp định
kỹ thuật chung, xây dựng “Quỹ Ủy thác eo biển Malắcca của Tổ chức Biển
quốc tế", nhằm hỗ trợ hợp tác giữa các bên có lợi ích liên quan ở eo
biển, bảo vệ môi trường và an ninh hàng hải eo biển Malắcca.
Hai là cơ chế an ninh eo biển trong khuôn khổ Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF).
Sau
khi chấm dứt cục diện hai cực, đa số các nước châu Á – Thái Bình Dương
cho rằng cần thúc đẩy đối thoại an ninh đa phương. Năm 1994, các nước
ASEAN đàm phán phi chính thức về vấn đề an ninh chính trị khu vực tại
Diễn đàn ARF tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan). Về cơ chế hợp tác đa
phương, đặc biệt là ở cấp độ chính trị ngoại giao, Diễn đàn ARF ngày
càng phát huy vai trò quan trọng. Trong Diễn đàn ARF, hợp tác trên biển
tại khu vực được hưởng ứng rộng rãi, đã thành lập một số tiểu ban hợp
tác an ninh biển. Hội nghị ARF tổ chức trong hai ngày 30-31/3/2004 đã
thảo luận việc chống Tổ chức khủng bố Jemaah Islamiyah và các tổ chức
khủng bố khác tấn công tuyến đường biển và công trình quan trọng trên
biển. Các đại biểu tham dự hội nghị ra tuyên bố, các nước thành viên
quyết tâm thực hiện biện pháp chống khủng bố, tăng cường phối hợp về kỹ
thuật, lập pháp, tấn công khủng bố, bảo đảm an ninh hàng hải. Phải nói
rằng, ba nước ven biển đều có thái độ hoan nghênh các nước ASEAN tham
gia công việc an ninh eo biển Malắcca. Việc làm này có thể giảm bớt khó
khăn của ba nước ven biển, nhất là sức mạnh hải quân của Malaixia,
Inđônêxia chưa đủ mạnh. Mặt khác, đối với Malaixia và Inđônêxia, có thể
tạm thời ngăn ngừa các nước lớn bên ngoài khu vực như Mỹ, lấy cớ sức
mạnh hải quân của ba nước còn hạn chế để can dự vào eo biển Malắcca.
Ba là xây dựng cơ chế hợp tác an ninh cho vấn đề an ninh eo biển Malắcca.
Một
số vấn đề về an ninh eo biển chưa được giải quyết tận gốc, một phần là
do thiếu thống nhất về thể chế và cấp độ pháp lý của các nước ven biển.
Chẳng hạn, khi truy bắt cướp biển ở vùng biển quốc tế, nếu bọn cướp chạy
vào lãnh hải của Inđônêxia, lực lượng tuần tra trên biển của Xinhgapo
và Malaixia phải ngừng bám đuổi theo “quyền truy bắt” được quy định
trong luật quốc tế. Điều này khiến cho việc truy bắt cướp biển xảy ra ở
khu vực hai nước Xinhgapo và Malaixia không quản lý hoặc khu vực giáp
ranh giữa vùng biển quốc tế với vùng biển một nước nào đó không thể thực
hiện thuận lợi. Để giải quyết vấn đề kỹ thuật này, tháng 11/2004, tại
Tôkyô, Nhật Bản, 16 quốc gia bao gồm 10 nước ASEAN, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Xri Lanca, Bănglađét ký kết “Hiệp ước hợp tác các
nước châu Á về đối phó với cướp biển và cướp có vũ trang” (ReCAAP). Đây
là sáng kiến do Nhật Bản đưa ra vào năm 2001 nhằm tăng cường hợp tác
quốc tế khu vực Đông Nam Á, ngăn chặn cướp biển và cướp có vũ trang.
Theo hiệp định này, các nước đã định nghĩa về hành động “cướp có vũ
trang trên biển”, đồng ý xây dựng một trung tâm trao đổi thông tin lâu
dài nhằm thể chế hóa hiệp định hợp tác. Trung tâm này sẽ trở thành tổ
chức chủ yếu để thực hiện hiệp định, Xinhgapo là nơi đặt địa điểm trung
tâm trao đổi thông tin và là nước lưu trữ các văn kiện. Hiện nay, trung
tâm đã chính thức đi vào hoạt động, có báo cáo đánh giá hàng năm đối với
vấn đề cướp biển.
Bốn
là đưa vấn đề liên quan đến an ninh eo biển Malắcca vào cơ chế an ninh
đa phương. Hai cơ chế an ninh đa phương quan trọng bên ngoài Đông Nam Á
là Liên minh quốc phòng 5 quốc gia (FPDA) gồm Ôxtrâylia, Malaixia, Niu
Dilân, Xinhgapo và Anh, “Diễn đàn hải quân Tây Thái Bình Dương” (WPNS)
đã tham gia tập trận chung chống khủng bố trên biển vào năm 2004, 2005.
Diễn tập an ninh đa phương trên biển đã có vai trò cực kỳ quan trọng để
tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, tăng thêm lòng tin của hải quân các
nước. Từ ngày 6-22/9/2006, FPDA tổ chức cuộc tập trận chung hải lục
không quân với quy mô lớn nhất và nội dung phức tạp nhất từ trước đến
nay. Phía Xinhgapo cho biết, sau này, FPDA sẽ chú trọng tăng cường khả
năng và sự phối hợp của các nước thành viên ứng phó thách thức an ninh
mới, ngoài an ninh truyền thống, còn quan tâm đến mối đe dọa an ninh phi
truyền thống như chủ nghĩa khủng bố, an ninh trên biển.
Malaixia
đã tỏ ý hoan nghênh ba nước thành viên khác của FPDA là Anh, Ôxtrâylia,
Niu Dilân, với tiền đề không xâm phạm chủ quyền quốc gia ven biển, tham
gia chương trình tuần tra chung “Con mắt trên không”, nhưng chỉ giới
hạn cung cấp máy bay và thiết bị trinh sát, việc thực hiện cụ thể do
Malaixia phụ trách.
III) Đặc điểm cơ chế an ninh eo biển Malắcca
Một là ảnh hưởng của các nước lớn.
Do
tầm quan trọng của vị trí chiến lược eo biển, từ xưa đến nay, khu vực
này luôn có bóng đen can dự của nước lớn ngoài khu vực. Mỹ, Nhật Bản, Ấn
Độ xuất phát từ lợi ích khác nhau, luôn có ý đồ can dự vào công việc eo
biển. Sự quan tâm của Mỹ đối với eo biển này có bối cảnh lớn là chuyển
trọng tâm chiến lược từ châu Âu sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương là điểm gặp nhau giữa các lực lượng
chiến lược trên thế giới. Đây là nơi tập trung các nước lớn như Trung
Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, quan hệ rất phức tạp.
Mỹ
phải kiềm chế, thậm chí chèn ép những nước lớn trên, eo biển Malắcca là
một trong những biện pháp quan trọng để Mỹ đạt được mục đích đó. Mỹ vội
vã can dự vào công việc an ninh của eo biển này, mục đích là để tăng
cường ảnh hưởng và sự có mặt về quân sự, giành lợi ích chiến lược và
quyền chủ đạo nhiều hơn ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương cũng như Đông
Nam Á.
Nguyên
nhân quan trọng khiến Nhật Bản quan tâm đến an ninh eo biển là những
tính toán về an ninh năng lượng và kinh tế. Là một quốc đảo thiếu tài
nguyên, Nhật Bản hiểu rất rõ tầm quan trọng của vận tải đường biển đối
với sự phát triển quốc gia. Cục phòng vệ Nhật Bản tuyên bố: “Đông Nam Á
trong đó có eo biển Malắcca, Biển Đông, vùng biển gần Philíppin và
Inđônêxia vô cùng quan trọng đối với việc vận chuyển tài nguyên thiên
nhiên đến Nhật Bản, khu vực này là điểm then chốt để liên kết giao thông
giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương”. Ngoài ra, Nhật Bản quan tâm như
vậy đến vấn đề eo biển Malắcca, còn có ý đồ kinh tế và chính trị mở rộng
ảnh hưởng đến khu vực Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương.
Những
năm gần đây, Ấn Độ cũng tỏ ra rất hào hứng với việc tham gia công việc
an ninh ở eo biển này, nguyên nhân chủ yếu là mong muốn chạy trước trong
cuộc tranh giành quyền kiểm soát eo biển của các quốc gia bên ngoài khu
vực, tránh để quyền kiểm soát này rơi vào tay của những quốc gia không
hữu nghị với Ấn Độ. Do đó, Ấn Độ đã đơn phương chuẩn bị việc thúc đẩy
hợp tác nhiều mặt, nhiều cấp độ với các nước ven bờ eo biển.
Chính
sự quan tâm của các nước lớn bên ngoài khu vực đối với an ninh eo biển
Malắcca đã làm cho việc xây dựng cơ chế an ninh eo biển luôn mang dấu ấn
không thể thoát khỏi cuộc đọ sức nước lớn, ba nước ven bờ eo biển bất
lực, không thể tự mình xây dựng cơ chế an ninh, tránh xa ảnh hưởng của
nước lớn.
Hai là bất đồng của các nước ven bờ eo biển.
Trong
không khí hợp tác an ninh, ba nước ven bờ đều hiểu rõ ổn định an ninh
và việc thông suốt tuyến đường biển có lợi cho bản thân họ, đồng thời
muốn sự hợp tác được cơ chế hóa cao hơn trên cơ sở hiện có. Về tổng thể,
ba nước này luôn có thái độ hoan nghênh sự hợp tác của các quốc gia bên
ngoài khu vực trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống, nhưng đã có
những ý kiến khác nhau đối với sự hợp tác liên quan đến lĩnh vực quân
sự. Inđônêxia và Malaixia không muốn các nước lớn can dự vào vấn đề eo
biển, cho rằng sự tham gia của các nước lớn ảnh hưởng đến chủ quyền quốc
gia của họ, vì thế có khuynh hướng giải quyết vấn đề trong cơ chế ba
nước. Xinhgapo thì lại hoan nghênh sự tham gia của các nước lớn bên
ngoài khu vực, mong muốn lợi dụng vấn đề an ninh eo biển để thực hiện
chiến lược cân bằng nước lớn. Xinhgapo cho rằng nếu Mỹ đóng quân ở eo
biển Malắcca, sẽ có lợi cho việc duy trì trật tự an ninh khu vực này,
khiến các nước không dám manh động.
Ba là hình thức và cấp độ phức tạp.
Vấn
đề liên quan đến an ninh của eo biển Malắcca có lúc dễ nhận thấy, có
lúc tuy không dễ thấy, nhưng lại sâu sắc, có trạng thái khách quan, lại
có sự lo lắng chủ quan, có phạm trù về mối đe dọa an ninh truyền thống,
lại có phạm trù về mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Điều này tạo ra
đặc điểm nhiều cấp độ, nhiều loại hình của cơ chế an ninh eo biển này.
Hiện nay, vừa có cơ chế an ninh của ba nước ven bờ eo biển, cơ chế an
ninh trong khuôn khổ ARF, cơ chế an ninh trao đổi thông tin chuyên về
vấn đề cướp biển và đưa vấn đề an ninh eo biển vào cơ chế an ninh khác
trong phạm vi cần quan tâm. Do nội hàm chủ đề của các cơ chế không hoàn
toàn giống nhau, trong quá trình vận hành thực tế, khó tránh tình trạng
nhu cầu lợi ích và việc gánh vác trách nhiệm của các nước ảnh hưởng đến
nhận thức chung. Xung quanh vấn đề xây dựng cơ chế an ninh eo biển, các
nước vẫn chủ trương nên mở rộng đối thoại, tăng cường sự tin cậy lẫn
nhau. Tóm lại, quan hệ an ninh khu vực eo biển Malắcca vừa hợp tác vừa
cạnh tranh, hợp tác là chủ lưu. Tuy nhiên, mức độ cơ chế hóa hợp tác còn
không cao, càng không thể nói đến vấn đề ở cấp độ xây dựng cộng đồng an
ninh.
IV) Kết luận
Do
lợi ích quốc gia của Trung Quốc ngày càng được mở rộng, việc bảo vệ an
ninh các tuyến đường biển quốc tế quan trọng trong đó có eo biển Malắcca
là nhu cầu tất yếu của Trung Quốc. Bắt đầu từ năm 1993, Trung Quốc đã
từ nước xuất khẩu dầu mỏ trở thành nước nhập khẩu dầu mỏ. Các chuyên gia
dự báo, đến năm 2020 lượng dầu mỏ nhập khẩu của Trung Quốc tối thiểu là
450 triệu tấn, sự phụ thuộc nguồn dầu mỏ bên ngoài có thể lên tới 60%.
80% lượng dầu mỏ nhập khẩu phải vận chuyển thông qua eo biển Malắcca. Do
đó, duy trì tuyến đường vận chuyển dầu mỏ, bảo vệ an ninh eo biển này
có ý nghĩa chiến lược quan trọng thực tế đối với Trung Quốc.
Một
là sử dụng các tổ chức khu vực như ASEAN để thúc đẩy duy trì và phát
triển cơ chế an ninh eo biển Malắcca. Hiện nay, nhiều cường quốc khu vực
và thế giới có lợi ích lớn ở eo biển này đều đang tích cực tham gia hợp
tác an ninh ở eo biển. Việc xây dựng cơ chế hợp tác quốc tế giữ gìn an
ninh eo biển này là một giải pháp mà tất cả cùng có lợi. Do Trung Quốc
là nước lớn láng giềng của Đông Nam Á, lại có quan hệ trong lịch sử với
Đông Nam Á và có đông Hoa kiều ở khu vực này, nên khi thúc đẩy xây dựng
cơ chế an ninh Malắcca, Trung Quốc phải xem xét đầy đủ đến mối quan tâm
của các nước có liên quan, chú ý phương thức, phát huy đầy đủ ảnh hưởng
của Trung Quốc ở ASEAN, sử dụng cơ chế hợp tác hiện có, tích cực thúc
đẩy sự phát triển của cơ chế hợp tác an ninh quốc tế.
Hai
là tích cực thúc đẩy đối thoại an ninh trên biển. Khuôn khổ hợp tác
“10+1” Trung Quốc – ASEAN tạo điều kiện rất tốt để khởi động đối thoại
thẳng thắn chân thành về nhiều vấn đề an ninh trên biển. Đồng thời mở
rộng đối thoại an ninh khu vực, Trung Quốc còn có thể chia sẻ thông tin
và tin tức tình báo với các quốc gia có liên quan. Là một bộ phận để
tăng cường hợp tác an ninh, Trung Quốc còn có thể tìm kiếm kênh hợp tác
thông tin trên biển với các nước ASEAN, trao đổi thông tin và tin tức
tình báo về an ninh hàng hải eo biển Malắcca, vùng biển của khu vực.
Ba
là mở rộng lĩnh vực hợp tác an ninh. Trên cơ sở đối thoại an ninh và
trao đổi tình báo, Trung Quốc còn có thể đi từ hợp tác an ninh mở rộng
sang diễn tập quân sự chung. Nội dung diễn tập có thể chủ yếu là cứu hộ
trên biển, viện trợ nhân đạo, truy bắt tội phạm ma túy. Đầu tháng
5/2007, Trung Quốc và Malaixia đã tiếp tục đàm phán về nội dung cụ thể
trong “Bản ghi nhớ về hợp tác trên biển Trung Quốc – Malaixia”, hai bên
đồng ý mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực như trao đổi thông tin, huấn
luyện đào tạo, cùng bảo vệ vùng biển có liên quan. Tháng 5/2007, tàu
chiến “Nang Phán” của Trung Quốc khi tham gia triển lãm quốc tế tại
Xinhgapo về phòng thủ trên biển và “Diễn đàn hải quân Tây Thái Bình
Dương” đã tham gia diễn tập cứu hộ và chống cướp biển gây được tiếng
vang lớn. Đó cũng là một tiền lệ rất tốt./.
Theo Diễn đàn kinh tế và chính trị thế giới
Văn Cường (gt)