Lời nói đầu: Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
Thời Đại Mới:
Hôm nay là 30-4, ngày kỷ niệm chấm dứt chiến tranh ở Việt
Nam. Năm ngoái, anh đã có một bài trò chuyện với VietnamNet.
Năm nay, chúng tôi cũng mời anh tiếp tục chuyện trò như thế,
không phải vì một mục tiêu chính trị nào, mà để góp phần vào
việc nghiên cứu nghiêm túc các phong trào tranh đấu ở các đô
thị miền Nam cũ, nghiên cứu sử hiện đại. Đề nghị anh nói về
phong trào Phật giáo, tuy biết anh rất ngần ngại. Tại sao
anh ngần ngại?
Cao Huy Thuần:
Vì nhiều lẽ. Một, là tôi luôn luôn hướng về tương lai, không
thích vấn vương những chuyện quá khứ. Hai, là nói đến phong
trào Phật giáo tất phải bắt đầu bằng cuộc nổi dậy chống
chính quyền Ngô Đình Diệm năm 1963, và như thế thì bắt buộc
phải động đến vai trò của Thiên chúa giáo dưới thời ông
Diệm. Vấn đề tôn giáo là vấn đề nhạy cảm số một, nếu ngày nay
tôi còn quan tâm là vì có liên quan đến an ninh của nhà
nước, nhưng chuyện của ngày xưa thì tôi muốn quên, cần quên,
phải quên, vì nhu cầu hòa hợp dân tộc cũng là vấn đề hệ
trọng không kém. Ba, là nếu muốn viết lại lịch sử phong trào
Phật giáo thì phải viết cả cuốn sách, việc đó tôi làm không
nổi. Tôi không biết có nên nói thêm một lẽ thứ tư không, có
lẽ nên, để xưng tụng một từ ngữ hoạt kê đầy tính tượng hình:
"chụp mũ". Phong trào Phật giáo từng bị chụp mũ "thân Mỹ",
"thân Cộng", lắm khi đội hai cái mũ một lần. Trả cái mũ về
cho cái mũ thì cái đầu thảnh thơi hơn, tội gì bắt cái đầu
phải nhớ lại chuyện cũ?
TĐM:
Chụp mũ là chuyện thường tình, trừ khi anh không có cái đầu.
Trót có cái đầu thì ráng chịu. Sở dĩ TĐM đặt lại với anh vấn
đề nghiên cứu phong trào Phật giáo là vì, như anh Ngô Vĩnh
Long vừa nói, chưa có nghiên cứu tốt về phong trào này. Anh
có nghĩ như vậy không?
CHT:
Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng vì một cái nhìn có lẽ khác với
anh Ngô Vĩnh Long. Các bài viết về phong trào Phật giáo cho
đến nay chưa làm rõ ra được cái cốt lõi của phong trào. Cốt
lõi ấy không phải là chính trị mà là văn hóa, đạo đức. Nói
ra thì rất dài, ở đây tôi chỉ có thể tóm tắt thôi. Nhưng nếu
nhìn phong trào với con mắt chính trị thì chỉ thấy ngoài da,
không thấy tận gan tận ruột. Đặc tính văn hóa, đạo đức ấy
xuyên suốt phong trào trong cả hai giai đoạn: giai đoạn
chống độc tài, độc tôn và giai đoạn chống chiến tranh, đòi
hòa bình. Giai đoạn đầu (1963-65) là giai đoạn vàng son,
chống chế độ Diệm và các chế độ quân nhân sau Diệm. Giai
đoạn sau, từ 1966, từ lúc Mỹ can thiệp rần rộ vào chiến
tranh, là giai đoạn suy vi, vừa bị người Mỹ giúp ông Kỳ đàn
áp thẳng tay ở miền Trung, vừa bị chính quyền Thiệu-Kỳ chia
rẽ hàng ngũ bằng cách dựng lên một nhánh Phật giáo đối
nghịch. Dù thịnh dù suy, phong trào không mất quần chúng và
cũng không rời khỏi phương châm văn hóa, đạo đức. Mà suy
cũng là lẽ tất nhiên khi chiến tranh leo thang tàn khốc, mọi
tiếng nói hòa bình phải bị bóp nghẹt.
TĐM:
Cả từ hai phía?
CHT:
Hãy nói từ phía kề cận, hãy nói từ trong lòng chế độ quân
nhân, từ trong lòng bộ máy chiến tranh của Mỹ, từ phía người
Mỹ. Không dễ gì cất lên tiếng nói hòa bình khi họ quyết định
đánh cho đến cùng. Chỉ chừng đó đã lao đao rồi, nói gì thêm!
Nhưng chính trong lao đao mà bản chất văn hóa, đạo đức của
phong trào lại càng rõ. Giữ cho được bản chất đó, ôi, bao
nhiêu khó khăn, bao nhiêu bầm dập, bao nhiêu cái mũ phải đội
trên đầu. Nhưng, gạt qua một bên những chuyện hời hợt hoa lá
cành, nhìn nhựa chảy bên trong thân cây, thì dù khi lên khi
xuống, người nghiên cứu sẽ thấy lồ lộ hai ý tưởng chính nuôi
dưỡng phong trào: một, là phải trả lại cho Việt Nam văn hóa
truyền thống của dân tộc; hai, là Phật giáo phải làm sáng tỏ
ra rằng mình biểu hiện lương tâm của dân tộc. Anh có thể
đồng ý hay không đồng ý với hoài bão của các người lãnh đạo
phong trào, nhưng đấy mới là cốt lõi của vấn đề, mới là động
cơ thúc đẩy hành động của họ.
TĐM:
Giai đoạn đầu, ai cũng biết: Phật giáo khởi đầu phong trào
lật đổ ông Diệm. Dù muốn dù không, thế là chính trị! Có phải
lật đổ ông Diệm là mục tiêu của phong trào?
CHT:
Không phải. Chính xác mà nói, Phật giáo không chống ông Diệm
mà chống chính sách kỳ thị tôn giáo của ông ấy. Đây
không phải chỉ là lời nói đầu môi; đây là thâm sâu tận bên
trong triết lý của đạo Phật. Đạo Phật chỉ xem hành động là
có, còn tất cả đều không. Chống, là chống hành động, không
chống con người. Cho nên sự chống đối ấy, từ đầu, mang tính
văn hóa, đạo đức, chứ không phải chính trị. Các người lãnh
đạo nói: đạo Phật là đạo của dân tộc Việt Nam từ xưa, đã làm
nên văn hóa Việt Nam, sao bây giờ ông Diệm lại bắt cả cái
dân tộc đó phải hát suy tôn ông khi chào cờ "xin Thượng đế
ban phước lành cho Ngưởi"? Văn hóa truyền thống Việt Nam
không có khái niệm "thượng đế", không có ngôn từ "ban phước
lành". Ai có khái niệm đó thì cứ xin, sao lại bắt ai ai cũng
phải nhất tề xin, mà lại xin trước cái biểu tượng thiêng
liêng là ngọn quốc kỳ? Thượng đế và quốc kỳ là một? Nhà nước
và Nhà thờ là chung? Cái nhục ấy, trước tiên, là nhục văn
hóa hay là nhục chính trị? Uất ức chồng chất trong chín năm
không phải vì ông Diệm là tín đồ của một tôn giáo nào, mà vì
ông đã cuồng tín tôn giáo đến mức làm nhục một gia tài văn
hóa trong đó Phật giáo là một bộ phận chính. Ấy chỉ là một
ví dụ trong trăm ngàn uất ức chồng chất như non. Từ đó, lộ
ra đặc tính đạo đức. Đạo đức ở đây là chống bất công.
Buồn cười không thể tưởng tượng về cái Dụ số 10: Dụ này
không xem Phật giáo như một tôn giáo mà chỉ như một hiệp
hội, ngang hàng với các hiệp hội từ thiện, mỹ nghệ, tiêu
khiển, thể thao! Tôn giáo thì chỉ có một thôi, là Thiên chúa
giáo vì Thiên chúa giáo không nằm trong Dụ số 10. Lại cũng
buồn cười không kém cái lý do mà ông Diệm gạt ngày Phật Đản
ra khỏi danh sách nghỉ lễ hàng năm: khi Phật sinh ra, Phật
chưa là Phật, còn khi Chúa sinh ra, Chúa đã là Chúa. Phật
giáo phải đứng dậy để đòi cái gì? Buồn cười ra nước mắt: đòi
dẹp bỏ Dụ số 10 để mình được làm… tôn giáo như ai! Không
nhận ra cái bất công khủng khiếp này thì không hiểu được cái
nhục mà tôi gọi là cái nhục gia tài, cái nhục không riêng gì
của thế hệ lúc đó mà nhục cả cha ông từ bao nhiêu thế hệ
trước. Thành công của phong trào Phật giáo trong vụ nổi dậy
năm 1963 là do ở chỗ dân chúng cảm lây cái nhục đó. Từ một
động cơ có tính văn hóa và đạo lý, chống đối ông Diệm trở
thành chính trị khi quần chúng và sinh viên phát triển tranh
đấu đòi bình đẳng tôn giáo lên thành tranh đấu chống độc tài
gia đình trị.
TĐM:
Dụ số 10 không phải có từ thời ông Diệm mà đã có từ thời Bảo
Đại. Ông Diệm chỉ thừa hưởng.
CHT:
Đúng vậy! Và chính vì vậy mà cái nhục của Phật giáo được dân
tộc san sẻ, trở thành cái nhục chung. Một đạo dụ, ban hành
dưới thời bán thuộc địa Liên Hiệp Pháp, xếp tôn giáo truyền
thống của dân tộc vào loại vô tôn giáo, lại được một chính
quyền mang tiếng là độc lập trân trọng giữ y nguyên văn, áp
dụng triệt để, như thể là con thừa tự! Độc lập chỗ nào? Nhục
cho cả nước. Dân chúng miền Nam bị tròng hai cái ách vào cổ:
cái ách độc tài chính trị và cái ách độc tài tôn giáo. Ông
Diệm muốn độc chiếm cả cái đầu lẫn con tim. Được người Mỹ
nâng lên hàng lãnh tụ thế giới, ông tuyên bố thẳng thừng:
muốn chống lại miền Bắc cộng sản, miền Nam phải trở thành
Thiên chúa giáo, Nhà thờ là "thành trì chống lũ về tâm linh
của dân tộc"[1].
Không phải riêng gì miền Nam, cả các nước Á châu khác nữa.
Trước Đại hội Liên đoàn các nước Á châu chống Cộng họp tại
Sài Gòn năm 1957, ông dõng dạc xuất khẩu cái chân lý ấy:
"Chúng ta không được ngần ngại trong việc áp dụng khí giới
của chân lý mà Thiên chúa giáo đã trao lại cho chúng ta.
Biết áp dụng khí giới đó phải là mục tiêu của Liên Đoàn"[2].
Tôi không muốn dài dòng về chuyện
này vì ai cũng biết. Nói chừng đó là đã đau lòng lắm rồi.
Đau lòng cho Phật giáo vì khơi lại một vết thương. Đau lòng
cho cả các bạn Thiên chúa giáo vì tôn giáo cao quý của các
bạn bị cả một gia đình và cả một lực lượng quá khích lạm
dụng để cai trị và đàn áp. Thế chẳng phải là văn hóa? Thế
chẳng phải là đạo lý?
TĐM:
Đúng là ở Việt Nam, khác với các nước thuộc địa khác, không
có một giai đoạn mà người nghiên cứu gọi là giai đoạn giải
thực, decolonisation. Vừa độc lập đã chiến tranh. Vừa
hết chiến tranh với Pháp đã tiếp nối chiến tranh với Mỹ.
Không có một giai đoạn nào ngưng nghỉ để cả dân tộc suy nghĩ
lại về cái được cái mất, xét về khía cạnh văn hóa, trong
thời thuộc địa. Nhưng dù vậy đi nữa, Phật giáo đã hồi sinh
năm 1930. Phật giáo đã hồi sinh trong một bối cảnh chính trị
và văn hóa bất lợi. Cũng vậy, trong hoàn cảnh chính trị và
văn hóa bất lợi của năm 1963, phong trào Phật giáo đã có thể
nổi dậy, hồi sinh. Ngoài cái nhục mà anh đã nhấn mạnh như là
động cơ, còn có những yếu tố văn hóa gì đến từ bên ngoài hỗ
trợ cho động cơ đó?
CHT:
Cuộc nổi dậy 1963 bắt đầu ở Huế, sau khi xe bọc sắt của ông
Diệm nổ súng vào quần chúng tụ tập trước đài phát thanh để
nghe truyền lại buổi lễ Phật đản, giết chết 7 em bé. Máu đã
chảy ra tại Huế, tất nhiên phong trào bắt đầu từ Huế. Nhưng
nếu phong trào bùng lên được, chính là nhờ vị thế văn hóa
của Huế, đặc biệt hơn ở đâu khác. Huế là đất của chùa. Đại
đa số dân chúng là Phật tử. Một thành phố hiền lành. Một
thành phố tiểu công chức, tiểu thương gia, vừa đủ tiền để
cho con ăn học và lấy học thức làm thước đo đạo đức và thành
công.. Nơi con đường chính của thành phố, ngắn chỉ vài trăm
thước, có đến hai ba nhà sách, tấp nập khách học trò. Thành
phố này là thành phố học trò, đẹp nhờ học trò, hoa bay bướm
lượn thanh khiết tà áo học trò. Nếu muốn tìm một thành phố
cổ truyền đẹp thuần túy Việt Nam hồi đó, Huế là tiêu biểu.
Lạ một điều là quân đội Mỹ biết đặc diểm đó hơn ai cả. Trong
suốt chiến tranh, họ biến Đà Nẵng thành ra một thành phố đầy
lính và phụ nữ phục vụ lính, nhưng ở Huế, lính Mỹ đóng bản
doanh ở ngoại ô, không được phép vào thành phố. Ngoài sách
vở, báo chí và nhà trường, cả cái thành phố tiểu công chức
ấy mua vui trí thức hàng ngày với cái đài BBC. Trong cuộc
nổi dậy 1963, lính của ông Diệm có thể vây chùa Từ Đàm,
nhưng vây hàng ngàn cái máy thu thanh thì vô kế khả thi.
Biết Huế là thành phố văn hóa, và
văn hóa Phật giáo, ông Diệm đánh một chưởng văn hóa bằng
cách thành lập Đại Học Huế, đại học thứ hai sau Sài Gòn.
Hành động này hợp lý và đáng khen, vì cả miền Trung không có
đại học, con em nhà nghèo không có đường tiến thân. Nhưng
thâm ý của tổng giám mục Ngô Đình Thục không phải thế: đại
học Huế phải là nơi truyền đạt triết lý tôn giáo của chế độ,
khác với đại học Sài Gòn lúc đó hãy còn giữ phần nào ảnh
hưởng văn hóa phóng khoáng của Pháp. Chưa đủ thời gian để
thực hiện chính sách, ông Diệm đã lấy gậy ông đập lưng ông:
Đại học Huế cung cấp một lượng giáo sư và sinh viên đủ tâm
huyết để lao vào phong trào 1963. Trong thành phố học trò
ấy, tiếng nói của các ông giáo có một sức động viên đặc biệt
và máu nóng của sinh viên truyền hăng hái vào mọi gia đình.
Phong trào tranh đấu nào cũng có
biểu tượng. Thật lạ kỳ: xe bọc sắt của ông Diệm bắn bừa vào
quần chúng, vậy mà 7 xác chết là 7 em bé, 7 em học trò. Biểu
tượng của phong trào là 7 em bé trắng trong. Trắng trong như
biểu ngữ trương ra sau đó: tuyệt nhiên chỉ đòi hỏi bình đẳng
tôn giáo. Trong thành phố mà linh hồn là học trò, cái chết
của 7 em bé học trò gây một ấn tượng mạnh trong tuổi trẻ:
sinh viên đứng dậy với quần chúng Phật tử vì bạo quyền bắn
vào lý tưởng của họ, bắn vào chính cái trong trắng của tuổi
trẻ. Ấn tượng càng mạnh hơn khi bác sĩ Wulff, giáo sư đại học
Đức qua dạy tại Huế, bồng trong tay xác các em bé máu me
nhầy nhụa.
TĐM:
Nhưng quan trọng hơn nữa là 7 cái áo lam của 7 em bé…
CHT:
Đúng vậy. Máu chảy thấm ướt áo lam. Một biểu tượng văn hóa
không gì mạnh hơn. Bởi vì, tôi lại nói như một điệp khúc,
bắn vào áo lam là bắn vào văn hóa, không phải riêng gì của
Phật giáo, mà của truyền thống, của dân tộc. Các nhà lãnh
đạo phong trào nhìn vấn đề như vậy. Và chính cái nhìn đó tạo
nên sức mạnh tinh thần ghê gớm, bất chấp mọi đàn áp, mọi hy
sinh. Sài Gòn đã từng là trung tâm phản đối chính trị: nào
là của nhóm các nhân sĩ Caravelle, nào là đảo chánh 1960,
nào là ném bom trên Dinh Độc Lập năm 1962… Nhưng đối kháng
chính trị chẳng ăn nhằm gì đâu so với đối kháng văn hóa. Đối
kháng văn hóa mới là đối kháng từ cốt tủy. Lịch sử đã chọn
đúng Huế để nổ ra đối kháng đó. Và lịch sử cũng đã chọn đúng
người để lãnh đạo đối kháng.
TĐM:
Hòa thượng Trí Quang?
CHT:
Vâng, lúc đó hãy còn là thượng tọa. Dưới đây, tôi gọi bằng
"thầy" cho tiện. Ai ở trong giai đoạn lịch sử đó, dù ở trong
phe bạn hay phe nghịch, dù là chính trị gia hay tướng tá
quân nhân, dù là Việt, dù là Mỹ, đều nói: đây là một nhà
lãnh đạo xuất chúng. Một sức thu hút không ai bì được. Một
charisma, đúng nghĩa của Weber. Nhưng trước hết là
một lòng tin sắt đá. Tin rằng Phật giáo và văn hóa Việt Nam
là một. Tin rằng Phật giáo phải luôn luôn tự mình xứng đáng
để vẫn là một với Việt Nam. Muốn hiểu phong trào Phật giáo
lúc đó phải hiểu con người này. Phải đọc những gì ông viết,
hoặc đã in ra, hoặc chưa in.
TĐM:
Chưa in thì làm thế nào mà đọc?
CHT:
Nguyễn Du than thở: "bất tri tam bách dư niên hậu". Nhưng
chưa đầy ba trăm năm sau thiên hạ đã khóc Tố Như rồi. Lịch
sử là một tấm gương, cái gì rốt cuộc rồi cũng phản chiếu vào
đó. Tôi đọc một đoạn nhỏ trong tấm gương đó nhé, chưa in hay
in rồi không quan trọng:
"Phật giáo không thích ứng với
chính trị mà thích ứng với văn hóa. Phật giáo tồn tại bởi
dân tộc, không như tôn giáo khác tồn tại vì chính quyền. Hồi
nhỏ, một hôm tôi xuống đò ngồi với một số người. Trong khi
chờ qua sông, họ đua nhau kể ra những hoạt động đêm qua của
kháng chiến. Đang kể bỗng im bặt. Họ thấy một giáo sĩ cũng
sắp xuống đò qua sông. Họ không e ngại một tăng sĩ mà e ngại
một giáo sĩ. Chuyện này củng cố cho tôi sự nhận định về vị
trí của Phật giáo. Phật giáo dại gì đánh mất niềm tin cậy
của dân gian?"
TĐM:
Tuy vậy, tuy không ham chính trị, nhưng có lẽ vì con người
của hòa thượng Trí Quang quá sắc bén nên các ký giả Mỹ và cả
nhà cầm quyền Mỹ vẫn cứ thắc mắc về hai câu hỏi có liên hệ
với nhau: một, là hòa thượng có phải muốn Phật giáo trở lại
vị thế quốc giáo không, và hai, có thể có chiến tranh giữa
Phật giáo và Thiên chúa giáo không? Báo Mỹ lúc đó viết về
hòa thượng như là "Makarios của Đông Nam Á". Makarios là
tổng giám mục và tổng thống đầu tiên của Cộng Hòa Chypre năm
1960.
CHT:
Sự thực không có gì đơn giản hơn. Các ký giả Mỹ cũng đã hỏi
thầy: "Bản thân thượng tọa ưa muốn gì?" Câu trả lời là: "Là
dịch sách Phật giáo. Việc làm như bây giờ chỉ là bất đắc dĩ,
rất bất đắc dĩ". Muốn kiểm chứng xem câu nói đó có trung
thực không, chỉ cần nhìn thầy sống như thế nào từ 1975 đến
nay: đóng cửa, không tiếp khách nào, không màng thế sự,
không hơn thua, không thị phi, suốt ngày chỉ dịch kinh, bình
chú. Bởi vậy, đừng xem câu trả lời sau đây của thầy về
chuyện "quốc giáo" là nói kiểu ngoại giao: "Vị thế quốc giáo
xưa của Phật giáo quả thực tráng lệ mà siêu thoát. Dầu là
quốc giáo, Phật giáo đã không độc tôn, không kỳ thị, bao giờ
cũng là đóa sen không nhuốm bẩn. Truyền thống đó, Phật giáo
phải bảo trọng. Chính vì bảo trọng truyền thống đó mà, thời
nay, Phật giáo phải bảo thủ vị thế tôn giáo thuần túy của
mình".
Còn câu trả lời về "chiến tranh",
có chiến tranh tôn giáo không? Này đây, gọn lỏn: "Không.
Tương tranh còn không thể có, nói chi đến chiến tranh".
Triết lý Phật giáo nhấn mạnh trên "nghiệp". Nghiệp, tức là
hành động. Hành động có thiện, có ác. Chống, là chống cái ác
của hành động, không chống con người, không thù hận với con
người. Với tôn giáo cũng vậy, không có chuyện tôn giáo này
chống tôn giáo kia, chiến tranh tôn giáo là chuyện man rợ,
chuyện của địa ngục. Ai đọc thầy Trí Quang lúc đó sẽ để ý
thầy nhắc lui nhắc tới hoài với quần chúng Phật tử một chữ,
chữ "khác": Phật giáo phải "khác" với các tôn giáo ở
phương Tây về chuyện quyền hành, về chuyện thánh chiến. Dưới
sự lãnh đạo của thầy, phong trào Phật giáo không đi ra khỏi
mục tiêu văn hóa - văn hóa theo nghĩa rộng. Phong trào chống
chiến tranh từ 1966 cũng vậy, cũng chỉ nhắm mục tiêu ấy
thôi.
TĐM:
Trong giai đoạn 1964-66, báo chí Mỹ đặt rất nhiều câu hỏi về
hòa thượng Trí Quang, không hiểu tại sao nhà lãnh đạo này
chống hết chính quyền này đến chính quyền khác. Năm 1966,
ông mở phong trào đòi bầu cử Quốc hội lập hiến. Nhà cầm
quyền Mỹ, cũng như tòa đại sứ Mỹ, nghĩ rằng ông đòi bầu cử
Quốc hội là để chiếm đa số, để hất Thiệu-Kỳ, để khuynh loát
chính trường miền Nam. Họ nói: ông không phải là vua, nhưng
ông muốn là người tạo ra vua. Đúng chăng?
CHT:
Lầm to! Trong quá khứ, lúc đó, bây giờ, và mãi mãi, Phật
giáo không dính vào chính trị. Đạo Phật "nhập thế" là nhập
thế vào xã hội, nhắm vào con người mà cho vui, cứu khổ,
nhưng đạo Phật "siêu thoát" thế gian, nhất là siêu thoát
khỏi chính trị. Các quốc sư ngày xưa đã để lại tấm gương
trong sáng vằng vặc. Các vị ấy ở trong núi. Không ở trong
kinh thành. Tại sao thầy Trí Quang đòi bầu cử Quốc hội? Tại
vì có Quốc hội thì mới có cái thế hợp pháp để đòi người Mỹ
chấm dứt chính sách chiến tranh. Người Mỹ lúc đó quyết liệt
chủ trương một đường lối duy nhất là chiến tranh đến cùng,
"hòa bình là chiến tranh tàn lụi", họ nói vậy. Được cái thế
đó, Thiệu-Kỳ trương lên cái bảng hiệu "nội các chiến tranh",
tiền hô hậu ủng với người Mỹ, hai dạ một lòng. Dễ gi nói lên
tiếng nói hòa bình trong tình thế đó! Làm sao nói? Chỉ có
cách là làm cho dư luận ở tận bên Mỹ thấy rằng đó là tiếng
nói, đó là nguyện vọng của dân phát biểu qua cơ quan dân cử.
Kết hợp nguyện vọng hòa bình với ác cảm của quần chúng đối
với các chế độ tướng tá, đòi hỏi Quốc hội lập hiến được dân
chúng nhiệt liệt hưởng ứng, từ khắp các tỉnh đến tận thủ đô
Sài Gòn. Một lần nữa, tiếng nói của Phật giáo đồng hóa với
tiếng nói của quần chúng. Mà tại sao Phật giáo đòi hỏi hòa
bình? Chính trị gì chăng? Không! Văn hóa! Đòi hòa bình vì
chiến tranh đe dọa sự tồn vong của dân tộc, nuôi dưỡng sự
tha hóa của con người. Đòi hòa bình vì Phật giáo luôn luôn
hoài bão rằng mình là lương tâm của dân tộc. Đó là động cơ
văn hóa, đạo đức của phong trào 1966. Phật giáo chủ trương:
chỉ có văn hóa hòa bình. Không thể có "văn hóa chiến tranh".
Không có "văn hóa chém giết", "văn hóa đạn bom".
TĐM:
Dù là đạn bom đến từ phía nào?
CHT:
Câu hỏi này, không thể trả lời ngắn gọn được, xin hẹn một
dịp khác. Nhưng dù trả lời thế nào đi nữa, mục đích của
phong trào Phật giáo vẫn không ở ngoài hai phương châm - hai
phương châm này tóm tắt toàn bộ phong trào Phật giáo từ
1963: bảo vệ "văn hóa dân tộc", bảo vệ "văn hóa hòa bình".
Đơn giản chỉ thế. Tôi trích thêm một câu tâm tư của thầy Trí
Quang để tóm tắt cả lịch sử của giai đoạn biến động ấy và
cũng để soi sáng con người đặc biệt của thầy: "Tổng chi, tôi
có tham vọng không? Có, mà có đến nỗi có người đã nói hơi
chướng nữa. Tham vọng của tôi không mơ mộng Phật giáo trở
lại vị thế quốc giáo như thời xa xưa, càng không muốn Phật
giáo thành một Thiên chúa giáo thứ hai! Tôi chỉ mong ước,
trong cơn nghiêng ngữa của đất nước, ai nhìn vào Phật giáo
cũng nghĩ rằng đất nước này còn có cái ấy".
TĐM:
Thầy có được vừa ý không?
CHT:
Không. Thầy nói: Chuyện của thầy là "Cao cao sơn thượng
hành thuyền / Thâm thâm hải đề mã tẩu". Chuyện "ngựa phi
dưới nước, thuyền chèo trên non".
TĐM:
Hôm nay là ngày 30-4. Anh có ý nghĩ gì để nói thêm? Ít nhất
là về hòa bình, phương châm thứ hai của Phật giáo?
CHT:
Tôi vừa đọc báo Đại Đoàn Kết viết bài để kỷ niệm ngày 30-4
năm nay, 2011. Thú thật, tôi cảm động. Bài báo trích một câu
của cố thủ tướng Võ Văn Kiệt: "Chiến thắng của chúng ta là
vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng
đó bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều
gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân
vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi
cũng như vậy. Vì vậy, một sự kiện liên quan đến chiến tranh
khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu
người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được
giữ lành thay vì lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu". Ông nói
thêm: "Theo tôi, đã đến lúc ta phải nhìn nhận công lao, sự
đóng góp to lớn của các tầng lớp người Việt yêu nước từng
sống trong lòng chế độ cũ, hiện ở trong nước hay ở bên
ngoài. Bản thân tôi cùng với anh em được giao tiếp quản Sài
Gòn năm 1975, một Sài Gòn nguyên vẹn sau một cuộc chiến
tranh như vậy, tôi nghĩ không thể không nói đến vai trò của
các lực lượng chính trị đối lập với Mỹ-Thiệu, có quan hệ với
chính phủ Dương Văn Minh lúc bấy giờ".
Cố thủ tướng gọi chính phủ Dương
Văn Minh là "chính phủ". Và ông vinh danh một "Sài Gòn
nguyên vẹn". Giá như thủ tướng còn sống để đọc một câu hồi
ký của hòa thượng Trí Quang mà tôi trích nguyên văn ở đây
nhân ngày 30-4: "Cuối cùng, vào một buổi chiều, ông Minh gặp
tôi. Ông đưa ra hai mảnh giấy của người ta báo cáo mật cho
ông. Một, cho biết ngân hàng bị rút tiền gần sạch. Một, vẽ
một họa đồ quân sự tuyệt vọng - mảnh giấy ghi chú bằng chữ
Mỹ. Ông nói, nếu vì tiền thì tiền hết rồi, nếu vì chức thì
chức quốc trưởng ông đã làm, nếu vì cứu vãn quân sự thì đã
vô vọng. Nhưng, ông nói, ông phải cứu dân khỏi chết vô ích.
Tôi nói, đại tướng nói y như ý hòa thượng viện trưởng Trí
Thủ mới nói sáng nay. Tôi thuật lại câu nói ấy, và rằng tôi
xin làm chứng cho đại nguyện "thay người chịu khổ" của bản
thân và bằng hữu của đại tướng".
Hòa thượng Trí Thủ nói gì sáng ấy?
Giữa buổi họp đông đảo của Viện Hóa Đạo, hòa thượng nói:
"Tôm cá còn mua mà phóng sinh, huống hồ người chết mà không
cứu?"
Người Pháp có câu nói: "Các đầu óc lớn thường gặp nhau"
("Les grands esprits se rencontrent"). Tất nhiên họ muốn
nói: gặp nhau trên tư tưởng. Tuy vậy, hai đầu óc lớn trên
đây, hai con người cùng đặt Dân Tộc lên trên hết ấy, hai
nhân vật lịch sử ấy dám gặp nhau không phải chỉ trên tư
tưởng. Nhưng một người đã chết quá bất ngờ, một cánh cửa
chưa kịp gõ, và con tàu lịch sử đã rời nhà ga thiếu một hành
khách. Lịch sử vốn vậy, không vô tình nhưng lắm khi trớ
trêu, khiến bao nhiêu cuộc hẹn bỗng thành lỗi hẹn !
Cao Huy Thuần
Chú thích
[1] Extrême-Asie,
26-8-1961.
[2] Révolution Africaine,
n° 20, 15-6-1963.
© Thời Đại Mới