Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2011

LUẬN ĐIỂM “KHOA HỌC TRỞ THÀNH LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRỰC TIẾP” CỦA C.MÁC VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một số nội dung cơ bản trong luận điểm của C.Mác dự báo khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đồng thời, tác giả đã phân tích và luận chứng vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong xã hội hiện đại, cho rằng khoa học – công nghệ và sản xuất đang có xu hướng nhất thể hóa. Trên cơ sở đó, luận chứng một số giải pháp để phát huy hiệu quả của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
 
Cách đây trên 160 năm, C.Mác đã đưa ra nhận định về xu thế nhất thể hoá giữa khoa học và sản xuất bằng luận điểm nổi tiếng: "Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”. Điều này đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ và trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của nền sản xuất hiện đại trên thế giới. Khoa học và công nghệ hiện đại ngày càng đóng vai trò quan trọng, to lớn trong nền sản xuất xã hội và trong đời sống nhân loại, đồng thời là một đặc điểm nổi bật của thời đại ngày nay và là yếu tố đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Về luận điểm “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác, đến nay vẫn có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, ý kiến khác lại cho rằng khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thậm chí có ý kiến cho rằng C.Mác không nói như vậy. Theo chúng tôi, luận điểm “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác có nghĩa là khoa học trực tiếp tham gia vào việc sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.(*)Bởi vì, khoa học (biểu hiện ở các tri thức khoa học, thành tựu của khoa học, phát minh khoa học) là sản phẩm sáng tạo của tư duy con người, khi được con người ứng dụng trong hoạt động sản xuất, hay nói cách khác là khi được chuyển hoá, được “vật chất hoá” thành công cụ sản xuất và được con người sử dụng trong hoạt động lao động để tạo ra của cải vật chất thì nó trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Còn khoa học với tính cách một hình thái ý thức xã hội thì nó là yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng chứ không thể là lực lượng sản xuất hay thành tố của lực lượng sản xuất được. Trong các tác phẩm của mình, C.Mác đã nhiều lần khẳng định vai trò cũng như sức mạnh cải tạo thế giới của tri thức khoa học khi nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đồng thời, ông cũng chỉ rõ rằng, tự bản thân khoa học không thể gây ra bất kỳ một tác động tích cực hay tiêu cực nào đối với thế giới, mà phải thông qua sự vận dụng vào hoạt động thực tiễn của con người thì nó mới phát sinh tác dụng. Trong Gia đình thần thánh, C.Mác chỉ rõ: Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn. Trong Lời nói đầu Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác một lần nữa khẳng định: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”(1).
Trong các yếu tố cấu thành và quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất thì công cụ lao động giữ vị trí rất quan trọng, nó là cái quyết định năng suất lao động, biểu hiện khả năng chinh phục và làm chủ tự nhiên của con người, Ph.Ăngghen gọi nó là khí quan của bộ óc người, là sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá, nhằm nối dài bàn tay và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người, còn C.Mác thì chỉ rõ: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”(2), “Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”(3). Yếu tố trực tiếp quyết định sự phát triển của công cụ lao động chính là khoa học và công nghệ, bởi nhờ có thành tựu khoa học (những phát kiến khoa học) và công nghệ, công cụ lao động được cải tiến không ngừng nhằm giảm nhẹ lao động cơ bắp của con người và làm cho lao động đạt hiệu quả cao hơn. Do đó, có thể nói, sự phát triển của khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến cuộc cách mạng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất.(1)
Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại và là yếu tố không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Các thành tựu khoa học và công nghệ ngày càng xâm nhập sâu vào quá trình sản xuất và trở thành lực lượng trực tiếp sản xuất; thời gian ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất trực tiếp ngày càng ngắn dần. Nói cách khác, quá trình nhất thể hoá giữa khoa học và công nghệ với sản xuất đang ngày càng rõ nét và trở thành xu thế tất yếu. Thực tiễn cho thấy, nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển trên thế giới chủ yếu dựa vào tri thức khoa học với các tiến bộ khoa học và công nghệ. Trong điều kiện hiện nay, bất kỳ quốc gia nào muốn trở thành nước phát triển thì không thể không chú trọng hàng đầu vấn đề này.
Tất nhiên, cần lưu ý rằng, thứ nhất, sức mạnh và tiềm lực của khoa học và công nghệ bao gồm sức mạnh của khoa học (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn) và sức mạnh của công nghệ (bao gồm công nghệ chiến lược, công nghệ quản lý và công nghệ kỹ thuật). Thứ hai, khoa học và công nghệ có thể là động lực phát triển kinh tế, nhưng tự nó không trở thành động lực phát triển xã hội. Nó chỉ trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội khi được định hướng, quản lý nhằm đem lại lợi ích chung cho quần chúng nhân dân, vì mục tiêu phát triển, công bằng và tiến bộ xã hội. Nếu đi ngược mục tiêu đó, nó sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn xã hội, thúc đẩy sự phân hoá xã hội và cản trở sự phát triển bền vững của xã hội, thậm chí trở thành nhân tố phá hoại sự tiến bộ xã hội. Thứ ba, khoa học và công nghệ phải được kết hợp chặt chẽ với yếu tố con người thì mới phát huy được tác dụng tích cực của nó. Trong trường hợp khoa học và công nghệ quá lạc hậu hoặc vượt quá xa so với năng lực của người sử dụng thì đều không đưa lại hiệu quả mong muốn trong thực tiễn. Thứ tư, không chỉ những tri thức khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, mà cả tri thức khoa học xã hội và nhân văn cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình sản xuất. Nó là cơ sở lý luận cho việc quản lý các quá trình sản xuất hiện đại, công nghệ hiện đại, nhằm sử dụng mọi nguồn lực một cách có hiệu quả, tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững.
Trong lịch sử không phải bao giờ khoa học cũng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Điều này có nguyên nhân từ cách phân chia truyền thống đối với hoạt động nghiên cứu khoa học thành: nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu triển khai và dự án sản xuất thử - thử nghiệm. Cách phân chia này đã coi khoa học và công nghệ và sản xuất là hai lĩnh vực riêng biệt. Vì vậy, trong suốt một thời gian dài, người ta chỉ tập trung ưu tiên cho phát triển khoa học và công nghệ ở các viện, trường, sau đó mới tìm cách “gắn kết” khoa học và công nghệ với sản xuất. Điều này đã tác động tiêu cực đến sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng như sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá trên thị trường. Cho đến đầu thế kỷ XIX, khoa học vẫn chỉ đóng vai trò gián tiếp trong quá trình sản xuất. Mặc dù vậy, C.Mác với bộ óc thiên tài của mình đã khẳng định, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng như sản xuất, xu thế nhất thể hoá giữa khoa học với sản xuất sẽ trở thành tất yếu. Dự báo khoa học đó đã trở thành hiện thực khi xuất hiện phổ biến một dạng nghiên cứu mới - nghiên cứu sản xuất (R&P - Research & Production). Nếu như kết quả của nghiên cứu lý thuyết là các sản phẩm mang tính lý thuyết, kết quả của nghiên cứu triển khai là các sản phẩm thử nghiệm mang tính khoa học và kỹ thuật, thì kết quả của nghiên cứu sản xuất là các sản phẩm mang tính xã hội và hàng hoá, là kết tinh các thuộc tính khoa học, kỹ thuật, pháp luật, thẩm mỹ... Nói cách khác, sản phẩm của nghiên cứu sản xuất chính là công nghệ sản xuất. Nghiên cứu sản xuất ra đời gắn liền với sự chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế tri thức ngày nay, nghiên cứu sản xuất lại càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Thông qua nghiên cứu sản xuất, hàm lượng chất xám trong mỗi sản phẩm hàng hoá ngày một gia tăng. Nói cách khác, khoa học đã kết tinh và thăng hoa trong mỗi sản phẩm hàng hoá.
Đối với nước ta, quá trong trình xây dựng phương thức sản xuất mới trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu đang là một yêu cầu cấp thiết. Để thực hiện yêu cầu này, Bộ Chính trị đã đề ra một số chủ trương chiến lược quan trọng, trong đó điển hình là chủ trương tập trung xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm tại ba miền Bắc, Trung, Nam nhằm tập trung nguồn lực đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội cả nước. Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết và Quyết định để cụ thể hoá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tại ba vùng kinh tế trọng điểm. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược này, khoa học và công nghệ phải thực sự là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Muốn vậy, trước hết phải tập trung phát triển khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất, nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất và hệ thống hạ tầng kỹ thuật khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất.
Thực tế chỉ ra rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường toàn cầu hoá ngày nay, nền kinh tế của một quốc gia chỉ có thể tồn tại và phát triển khi các sản phẩm hàng hoá của nó luôn được đổi mới và có tính cạnh tranh về chất lượng, giá cả, mẫu mã... Những đòi hỏi như vậy chỉ được đáp ứng khi các cơ sở sản xuất có tiềm lực mạnh về khoa học và công nghệ và nó trực tiếp tham gia sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá. ở Việt Nam, nếu trong nửa cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, “khoán 10” thành công dựa trên cơ sở thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, giải phóng sức lao động của người nông dân, thì cơ sở thành công của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội hiện nay chính là nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất bằng việc kết hợp có hiệu quả giữa tiềm lực người lao động Việt Nam với sức mạnh khoa học và công nghệ hiện đại. Để phát triển lực lượng sản xuất, nhất thiết phải có sức mạnh khoa học và công nghệ, đặc biệt ưu tiên khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất trong các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất.
Trong những năm vừa qua, các thành tựu của khoa học và công nghệ được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong lao động sản xuất và đời sống của người dân Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng cuộc sống của người dân. Không ít phát minh, sáng chế đã trở thành niềm tự hào của người Việt trước cộng đồng quốc tế, điển hình như việc sáng chế máy hút bùn công suất 30m3/h của anh Trần Văn Dũng (Trà Vinh), máy gặt đập liên hợp MGĐ-140 của kỹ sư Nguyễn Minh Hùng (Đồng Nai), hay việc di chuyển các công trình xây dựng của “thần đèn” Nguyễn Cẩm Luỹ... Chúng ta cần đẩy mạnh việc xuất khẩu những “công nghệ” như vậy ra nước ngoài thay vì chỉ xuất khẩu dầu thô, than đá, mủ cao su...
Bên cạnh một số thành tựu đã đạt được trong thời gian vừa qua, việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất trực tiếp vẫn còn tồn tại không ít hạn chế, bất cập. Ngân sách đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ chưa được định hướng ưu tiên trực tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh, chủ yếu dừng lại ở nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu triển khai. Nguồn nhân lực lao động kỹ thuật vừa yếu, vừa phân tán nên chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Đây là tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Bên cạnh đó, với quan niệm cho rằng chỉ các sản phẩm của nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu triển khai mới được coi là sản phẩm của nghiên cứu khoa học, còn các sản phẩm của nghiên cứu sản xuất, cho dù có tính khoa học và kỹ thuật, nếu do các doanh nghiệp thực hiện, tức có thêm tính hàng hoá và tính xã hội, thì cũng chỉ được coi là sáng kiến cải tiến kỹ thuật chứ chưa phải là nghiên cứu khoa học. Do vậy, không tạo ra động lực cho các nghiên cứu sản xuất phát triển và ảnh hưởng đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nhìn chung, hoạt động khoa học và công nghệ thời gian qua chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ có hiệu quả cao cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Sự phối hợp, hợp tác nghiên cứu giữa các tổ chức, cá nhân trong hoạt động khoa học và công nghệ thiếu chặt chẽ, dẫn đến hiệu quả không cao; việc ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất còn chưa lường hết được những tác động tiêu cực của nó nên không có biện pháp chủ động ngăn chặn, làm xuất hiện nhiều vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc, như môi trường sống bị ô nhiễm, đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, lao động giản đơn dư thừa... Đây thực sự là những nguy cơ đe doạ sự ổn định xã hội và phát triển bền vững của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Trên cơ sở các phân tích nêu trên, để hoạt động khoa học và công nghệ thực sự phát huy hiệu quả đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay, cần thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách, luật pháp để xây dựng, sử dụng và phát huy có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật hiện có, nâng cao tính cạnh tranh trong hoạt động của các cá nhân và tổ chức làm khoa học để tạo động lực phát triển khoa học và công nghệ; thu hút có hiệu quả các nguồn lực xã hội, các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước để phục vụ phát triển hạ tầng khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất; tập trung đầu tư xây dựng các khu công nghệ có quy mô hợp lý, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng tỉnh và vùng; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất. Trên cơ sở đó, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các tổ chức khoa học và công nghệ có khả năng nghiên cứu ứng dụng, cải tiến công nghệ nhằm phục vụ trực tiếp nhu cầu sản xuất kinh doanh của xã hội tham gia vào các khu công nghệ này.
Hai là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và thực hiện xã hội hoá lĩnh vực khoa học và công nghệ đi đôi với xoá bỏ cơ chế quan liêu, độc quyền trong khoa học để tạo điều kiện, môi trường cho cạnh tranh bình đẳng trong lĩnh vực này. Hình thành các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ tập trung để hỗ trợ giải quyết các nhu cầu về công nghệ của doanh nghiệp. Các tổ chức này có thể là đơn vị sự nghiệp công lập, ngoài công lập hoặc doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực lao động kỹ thuật theo hướng thích ứng với nhu cầu thị trường (kể cả với những thị trường công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu quy mô lớn) và phục vụ trực tiếp nhu cầu của doanh nghiệp. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia liên kết đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ cũng như thu hút nhân lực kỹ thuật cao từ nước ngoài. Tiếp tục chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp nghiên cứu khoa học theo mô hình tổ chức khoa học và công nghệ công lập, hoạt động theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
Cần lưu ý rằng, xã hội hoá hoạt động nghiên cứu, đào tạo khoa học và công nghệ là việc làm cần thiết. Tuy nhiên, không thể chỉ dừng lại ở việc tạo thuận lợi trong việc thành lập, tổ chức hoạt động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức này, mà phải tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hoạt động của nó để đảm bảo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước, đồng thời thống nhất công tác quản lý nhà nước giữa hai lĩnh vực khoa học và công nghệ và đào tạo, tránh tình trạng dàn trải ở quá nhiều bộ, ngành, cơ quan.
Ba là, tiếp tục đổi mới công tác lý luận trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, đảm bảo có hệ thống đối với những vấn đề mang tính chiến lược và tính dự báo, làm cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chính sách phát triển khoa học và công nghệ của Chính phủ. Để làm được điều này, việc tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn là hết sức quan trọng. Lý luận trong lĩnh vực khoa học và công nghệ phải có mối liên hệ chặt chẽ và phù hợp với lý luận trong các lĩnh vực khoa học khác, như lý luận về mục tiêu đổi mới thể chế kinh tế, về mục tiêu giáo dục và đào tạo, về chế độ sở hữu, v.v..
Bốn là, căn cứ đặc điểm và tình hình của đất nước, tiềm lực kinh tế - xã hội và trình độ phát triển của khoa học và công nghệ trong từng giai đoạn để xác định mục tiêu trọng điểm và lựa chọn nhiệm vụ trọng tâm tập trung đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học, đảm bảo thiết thực, hiệu quả, tránh ôm đồm vượt quá khả năng hoặc xác định không rõ mục tiêu trọng điểm của việc nghiên cứu, dẫn đến lãng phí nguồn lực. Các phân tích khoa học và thực tế đã chỉ ra rằng, trong 4 yếu tố cơ bản làm cho đất nước phát triển, nếu có nguồn nhân lực và hạ tầng kỹ thuật thì có thể thu hút được vốn và công nghệ. Vì thế, đối với hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay, trước tiên cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ có chất lượng cao và hạ tầng kỹ thuật để đáp ứng tốt đòi hỏi của sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tiễn cho thấy, chỉ các nước lớn, có tiềm lực mạnh về nhiều mặt mới đủ khả năng tập trung cho cả 3 loại nghiên cứu, các nước trung bình chỉ đủ khả năng tập trung cho nghiên cứu triển khai và nghiên cứu sản xuất, một số nước như Hàn Quốc chỉ tập trung cho nghiên cứu triển khai, Trung Quốc tập trung cho nghiên cứu triển khai và nghiên cứu lý thuyết... và điều đó mới đưa lại hiệu quả thiết thực trong thực tiễn. Ngoài ra, việc lựa chọn con đường nghiên cứu khoa học và công nghệ cũng cần cần nhắc trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm của các nước đi trước. Chẳng hạn, ở châu Âu trước đây, việc nghiên cứu khoa học diễn ra theo chu trình thuận từ nghiên cứu lý thuyết đến nghiên cứu triển khai và nghiên cứu sản xuất, tức là từ khoa học đến công nghệ, nhưng ở một số nước châu á lại chọn con đường phát triển theo chu trình nghịch từ nghiên cứu sản xuất đến nghiên cứu triển khai và nghiên cứu lý thuyết, tức là từ công nghệ đến khoa học, và điều này đã đem lại hiệu quả to lớn bất ngờ. Điển hình là trường hợp của Nhật Bản thời Minh Trị đã mua máy móc của phương Tây để sản xuất và bắt chước công nghệ, tiếp theo là cải tiến và xây dựng công nghệ riêng, rồi mới từng bước xây dựng một nền khoa học. Nhờ vậy, chỉ sau một thời gian ngắn, Nhật Bản đã trở thành một quốc gia hùng mạnh về khoa học và công nghệ. Sau này, Hàn Quốc với chính sách phát triển các khu công nghệ, Trung Quốc với quyết tâm trở thành “công xưởng của thế giới”... thực chất đều lựa chọn con đường phát triển khoa học và công nghệ theo chu trình nghịch và đã đạt được những thành tựu to lớn.
Năm là, thúc đẩy và tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, nhất là cơ chế tài chính cho mối liên doanh, liên kết giữa “bốn nhà” (Nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nông) để ứng dụng có hiệu quả khoa học và công nghệ vào sản xuất trong quá trình sản xuất hàng hoá. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo môi trường văn hoá - xã hội và đẩy mạnh công tác truyền thông để người dân hiểu và tôn trọng khoa học và công nghệ cũng như việc ứng dụng nó trong sản xuất và đời sống. Đây cũng là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng một nền văn hoá mới tiên tiến mà ở đó, có sự thống nhất giữa những yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng, trong đó cách mạng trong lĩnh vực khoa học đang vượt trước cách mạng trong lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ đã tạo điều kiện đẩy nhanh tiến bộ công nghệ. Ngược lại, sự tiến bộ của công nghệ lại thúc đẩy khoa học phát triển nhanh hơn nữa và đưa khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trong nền kinh tế toàn cầu hoá. Khoa học và công nghệ đã và đang trở thành động lực phát triển hàng đầu của lực lượng sản xuất ở hầu hết các quốc gia phát triển trên thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ khiến tốc độ thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội diễn ra nhanh tới mức chưa từng xảy ra trong lịch sử nhân loại từ trước tới nay. Bên cạnh mặt tích cực, sự phát triển của nó cũng khiến nhiều quốc gia, các tổ chức và định chế quốc tế lớn khó quản lý hay kiểm soát sự thay đổi đó một cách hiệu quả, đồng thời đặt ra không ít thách thức lớn đối với nhân loại. Để khắc phục và đối phó có hiệu quả với những vấn đề nêu trên, đòi hỏi sự nỗ lực chung và hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia, dân tộc, không phân biệt văn hoá, thể chế chính trị. Trong bối cảnh đó, sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng như xu thế nhất thể hoá giữa khoa học và công nghệ với sản xuất phải được định hướng và quản lý chặt chẽ, nhằm mục tiêu vì con người, vì sự phát triển bền vững và tiến bộ xã hội.
 
---------------------------
(*) Bài Viết của Tiến sĩ. Trần Đức Hiển, Văn phòng Chính phủ.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.580.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.269.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.4, tr.187 
Tạp chí Triết học số 1 (236) năm 2011; http://vientriethoc.com.vn/?vientriet=articles_deltails&id=1352&cat=57&pcat=