Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một số nội dung cơ bản trong luận điểm
của C.Mác dự báo khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đồng thời, tác
giả đã phân tích và luận chứng vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội trong xã hội hiện đại, cho rằng khoa học – công nghệ và
sản xuất đang có xu hướng nhất thể hóa. Trên cơ sở đó, luận chứng một số giải
pháp để phát huy hiệu quả của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển của
lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
Cách đây trên
160 năm, C.Mác đã đưa ra nhận định về xu thế nhất thể hoá giữa khoa học và sản
xuất bằng luận điểm nổi tiếng: "Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp”. Điều này đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ và trở thành xu thế tất yếu trong
sự phát triển của nền sản xuất hiện đại trên thế giới. Khoa học và công nghệ
hiện đại ngày càng đóng vai trò quan trọng, to lớn trong nền sản xuất xã hội và
trong đời sống nhân loại, đồng thời là một đặc điểm nổi bật của thời đại ngày
nay và là yếu tố đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Về luận điểm
“khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác, đến nay vẫn có
những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, khoa học đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, ý kiến khác lại cho rằng khoa học đang trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, thậm chí có ý kiến cho rằng C.Mác không nói như vậy. Theo chúng
tôi, luận điểm “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác có
nghĩa là khoa học trực tiếp tham gia vào việc sản xuất ra của cải vật chất cho
xã hội.(*)Bởi vì, khoa học (biểu hiện ở các tri thức khoa học, thành tựu của
khoa học, phát minh khoa học) là sản phẩm sáng tạo của tư duy con người, khi
được con người ứng dụng trong hoạt động sản xuất, hay nói cách khác là khi được
chuyển hoá, được “vật chất hoá” thành công cụ sản xuất và được con người sử dụng
trong hoạt động lao động để tạo ra của cải vật chất thì nó trở thành “lực lượng
sản xuất trực tiếp”. Còn khoa học với tính cách một hình thái ý thức xã hội thì
nó là yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng chứ không thể là lực lượng sản xuất
hay thành tố của lực lượng sản xuất được. Trong các tác phẩm của mình, C.Mác đã
nhiều lần khẳng định vai trò cũng như sức mạnh cải tạo thế giới của tri thức
khoa học khi nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đồng thời, ông cũng chỉ
rõ rằng, tự bản thân khoa học không thể gây ra bất kỳ một tác động tích cực hay
tiêu cực nào đối với thế giới, mà phải thông qua sự vận dụng vào hoạt động thực
tiễn của con người thì nó mới phát sinh tác dụng. Trong Gia đình thần thánh,
C.Mác chỉ rõ: Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực
hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn. Trong Lời
nói đầu Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác một lần nữa
khẳng định: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán
của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất;
nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào
quần chúng”(1).
Trong các yếu tố
cấu thành và quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất thì công cụ lao
động giữ vị trí rất quan trọng, nó là cái quyết định năng suất lao động, biểu
hiện khả năng chinh phục và làm chủ tự nhiên của con người, Ph.Ăngghen gọi nó là
khí quan của bộ óc người, là sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá, nhằm nối
dài bàn tay và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người, còn C.Mác thì chỉ rõ:
“Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà
là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”(2), “Cái
cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi
nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”(3). Yếu tố trực tiếp quyết định
sự phát triển của công cụ lao động chính là khoa học và công nghệ, bởi nhờ có
thành tựu khoa học (những phát kiến khoa học) và công nghệ, công cụ lao động
được cải tiến không ngừng nhằm giảm nhẹ lao động cơ bắp của con người và làm cho
lao động đạt hiệu quả cao hơn. Do đó, có thể nói, sự phát triển của khoa học và
công nghệ sẽ dẫn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất; cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ sẽ dẫn đến cuộc cách mạng trong sự phát triển của lực lượng sản
xuất.(1)
Trong thời đại
ngày nay, khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại và là yếu tố không thể thiếu
trong sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Các thành tựu khoa học và
công nghệ ngày càng xâm nhập sâu vào quá trình sản xuất và trở thành lực lượng
trực tiếp sản xuất; thời gian ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản
xuất trực tiếp ngày càng ngắn dần. Nói cách khác, quá trình nhất thể hoá giữa
khoa học và công nghệ với sản xuất đang ngày càng rõ nét và trở thành xu thế tất
yếu. Thực tiễn cho thấy, nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển trên
thế giới chủ yếu dựa vào tri thức khoa học với các tiến bộ khoa học và công
nghệ. Trong điều kiện hiện nay, bất kỳ quốc gia nào muốn trở thành nước phát
triển thì không thể không chú trọng hàng đầu vấn đề này.
Tất nhiên, cần
lưu ý rằng, thứ nhất, sức mạnh và tiềm lực của khoa học và công nghệ bao gồm sức
mạnh của khoa học (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn) và sức mạnh
của công nghệ (bao gồm công nghệ chiến lược, công nghệ quản lý và công nghệ kỹ
thuật). Thứ hai, khoa học và công nghệ có thể là động lực phát triển kinh tế,
nhưng tự nó không trở thành động lực phát triển xã hội. Nó chỉ trở thành động
lực phát triển kinh tế - xã hội khi được định hướng, quản lý nhằm đem lại lợi
ích chung cho quần chúng nhân dân, vì mục tiêu phát triển, công bằng và tiến bộ
xã hội. Nếu đi ngược mục tiêu đó, nó sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn xã hội, thúc
đẩy sự phân hoá xã hội và cản trở sự phát triển bền vững của xã hội, thậm chí
trở thành nhân tố phá hoại sự tiến bộ xã hội. Thứ ba, khoa học và công nghệ phải
được kết hợp chặt chẽ với yếu tố con người thì mới phát huy được tác dụng tích
cực của nó. Trong trường hợp khoa học và công nghệ quá lạc hậu hoặc vượt quá xa
so với năng lực của người sử dụng thì đều không đưa lại hiệu quả mong muốn trong
thực tiễn. Thứ tư, không chỉ những tri thức khoa học tự nhiên, khoa học kỹ
thuật, mà cả tri thức khoa học xã hội và nhân văn cũng đóng vai trò vô cùng quan
trọng trong quá trình sản xuất. Nó là cơ sở lý luận cho việc quản lý các quá
trình sản xuất hiện đại, công nghệ hiện đại, nhằm sử dụng mọi nguồn lực một cách
có hiệu quả, tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững.
Trong lịch sử
không phải bao giờ khoa học cũng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Điều
này có nguyên nhân từ cách phân chia truyền thống đối với hoạt động nghiên cứu
khoa học thành: nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu triển khai và dự án sản xuất
thử - thử nghiệm. Cách phân chia này đã coi khoa học và công nghệ và sản xuất là
hai lĩnh vực riêng biệt. Vì vậy, trong suốt một thời gian dài, người ta chỉ tập
trung ưu tiên cho phát triển khoa học và công nghệ ở các viện, trường, sau đó
mới tìm cách “gắn kết” khoa học và công nghệ với sản xuất. Điều này đã tác động
tiêu cực đến sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng như sức cạnh tranh của
các sản phẩm hàng hoá trên thị trường. Cho đến đầu thế kỷ XIX, khoa học vẫn chỉ
đóng vai trò gián tiếp trong quá trình sản xuất. Mặc dù vậy, C.Mác với bộ óc
thiên tài của mình đã khẳng định, cùng với sự phát triển của khoa học và công
nghệ cũng như sản xuất, xu thế nhất thể hoá giữa khoa học với sản xuất sẽ trở
thành tất yếu. Dự báo khoa học đó đã trở thành hiện thực khi xuất hiện phổ biến
một dạng nghiên cứu mới - nghiên cứu sản xuất (R&P - Research & Production). Nếu
như kết quả của nghiên cứu lý thuyết là các sản phẩm mang tính lý thuyết, kết
quả của nghiên cứu triển khai là các sản phẩm thử nghiệm mang tính khoa học và
kỹ thuật, thì kết quả của nghiên cứu sản xuất là các sản phẩm mang tính xã hội
và hàng hoá, là kết tinh các thuộc tính khoa học, kỹ thuật, pháp luật, thẩm
mỹ... Nói cách khác, sản phẩm của nghiên cứu sản xuất chính là công nghệ sản
xuất. Nghiên cứu sản xuất ra đời gắn liền với sự chuyển biến từ nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế tri
thức ngày nay, nghiên cứu sản xuất lại càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Thông qua
nghiên cứu sản xuất, hàm lượng chất xám trong mỗi sản phẩm hàng hoá ngày một gia
tăng. Nói cách khác, khoa học đã kết tinh và thăng hoa trong mỗi sản phẩm hàng
hoá.
Đối với nước ta,
quá trong trình xây dựng phương thức sản xuất mới trong bối cảnh toàn cầu hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc nhanh chóng phát triển lực lượng sản
xuất đi đôi với từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất để phát triển kinh tế - xã
hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu đang là một yêu cầu cấp thiết. Để thực hiện yêu
cầu này, Bộ Chính trị đã đề ra một số chủ trương chiến lược quan trọng, trong đó
điển hình là chủ trương tập trung xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm tại ba
miền Bắc, Trung, Nam nhằm tập trung nguồn lực đẩy mạnh phát triển lực lượng sản
xuất, trên cơ sở đó đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội cả nước. Thực hiện chủ
trương của Bộ Chính trị, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Nghị
quyết và Quyết định để cụ thể hoá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tại ba
vùng kinh tế trọng điểm. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược này, khoa
học và công nghệ phải thực sự là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Muốn vậy,
trước hết phải tập trung phát triển khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất,
nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất và hệ thống hạ tầng kỹ
thuật khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất.
Thực tế chỉ ra
rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường toàn cầu hoá ngày nay, nền kinh tế của
một quốc gia chỉ có thể tồn tại và phát triển khi các sản phẩm hàng hoá của nó
luôn được đổi mới và có tính cạnh tranh về chất lượng, giá cả, mẫu mã... Những
đòi hỏi như vậy chỉ được đáp ứng khi các cơ sở sản xuất có tiềm lực mạnh về khoa
học và công nghệ và nó trực tiếp tham gia sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá. ở
Việt Nam, nếu trong nửa cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, “khoán 10” thành
công dựa trên cơ sở thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, giải phóng sức lao động của
người nông dân, thì cơ sở thành công của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế -
xã hội hiện nay chính là nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất bằng việc kết
hợp có hiệu quả giữa tiềm lực người lao động Việt Nam với sức mạnh khoa học và
công nghệ hiện đại. Để phát triển lực lượng sản xuất, nhất thiết phải có sức
mạnh khoa học và công nghệ, đặc biệt ưu tiên khoa học và công nghệ trực tiếp sản
xuất trong các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất.
Trong những năm
vừa qua, các thành tựu của khoa học và công nghệ được ứng dụng ngày càng rộng
rãi trong lao động sản xuất và đời sống của người dân Việt Nam, góp phần quan
trọng vào việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng cuộc sống của người
dân. Không ít phát minh, sáng chế đã trở thành niềm tự hào của người Việt trước
cộng đồng quốc tế, điển hình như việc sáng chế máy hút bùn công suất 30m3/h của
anh Trần Văn Dũng (Trà Vinh), máy gặt đập liên hợp MGĐ-140 của kỹ sư Nguyễn Minh
Hùng (Đồng Nai), hay việc di chuyển các công trình xây dựng của “thần đèn”
Nguyễn Cẩm Luỹ... Chúng ta cần đẩy mạnh việc xuất khẩu những “công nghệ” như vậy
ra nước ngoài thay vì chỉ xuất khẩu dầu thô, than đá, mủ cao su...
Bên cạnh một số
thành tựu đã đạt được trong thời gian vừa qua, việc nghiên cứu và ứng dụng khoa
học và công nghệ vào sản xuất trực tiếp vẫn còn tồn tại không ít hạn chế, bất
cập. Ngân sách đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ chưa được
định hướng ưu tiên trực tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh, chủ yếu dừng lại ở
nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu triển khai. Nguồn nhân lực lao động kỹ thuật
vừa yếu, vừa phân tán nên chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Đây là tình trạng
“thừa thầy, thiếu thợ”. Bên cạnh đó, với quan niệm cho rằng chỉ các sản phẩm của
nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu triển khai mới được coi là sản phẩm của
nghiên cứu khoa học, còn các sản phẩm của nghiên cứu sản xuất, cho dù có tính
khoa học và kỹ thuật, nếu do các doanh nghiệp thực hiện, tức có thêm tính hàng
hoá và tính xã hội, thì cũng chỉ được coi là sáng kiến cải tiến kỹ thuật chứ
chưa phải là nghiên cứu khoa học. Do vậy, không tạo ra động lực cho các nghiên
cứu sản xuất phát triển và ảnh hưởng đến trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
Nhìn chung, hoạt
động khoa học và công nghệ thời gian qua chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ có
hiệu quả cao cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Sự phối hợp, hợp tác
nghiên cứu giữa các tổ chức, cá nhân trong hoạt động khoa học và công nghệ thiếu
chặt chẽ, dẫn đến hiệu quả không cao; việc ứng dụng khoa học và công nghệ trong
sản xuất còn chưa lường hết được những tác động tiêu cực của nó nên không có
biện pháp chủ động ngăn chặn, làm xuất hiện nhiều vấn đề kinh tế, xã hội bức
xúc, như môi trường sống bị ô nhiễm, đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, lao
động giản đơn dư thừa... Đây thực sự là những nguy cơ đe doạ sự ổn định xã hội
và phát triển bền vững của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa hiện nay.
Trên cơ sở các
phân tích nêu trên, để hoạt động khoa học và công nghệ thực sự phát huy hiệu quả
đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay, cần thực hiện
tốt một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, tiếp tục
đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách, luật pháp để xây dựng, sử dụng và phát
huy có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật hiện có, nâng cao tính cạnh
tranh trong hoạt động của các cá nhân và tổ chức làm khoa học để tạo động lực
phát triển khoa học và công nghệ; thu hút có hiệu quả các nguồn lực xã hội, các
thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước để phục vụ phát triển hạ
tầng khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất; tập trung đầu tư xây dựng các khu
công nghệ có quy mô hợp lý, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của từng tỉnh và vùng; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ
trực tiếp sản xuất. Trên cơ sở đó, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp
trong và ngoài nước, các tổ chức khoa học và công nghệ có khả năng nghiên cứu
ứng dụng, cải tiến công nghệ nhằm phục vụ trực tiếp nhu cầu sản xuất kinh doanh
của xã hội tham gia vào các khu công nghệ này.
Hai là, đẩy mạnh
công tác nghiên cứu khoa học và thực hiện xã hội hoá lĩnh vực khoa học và công
nghệ đi đôi với xoá bỏ cơ chế quan liêu, độc quyền trong khoa học để tạo điều
kiện, môi trường cho cạnh tranh bình đẳng trong lĩnh vực này. Hình thành các tổ
chức nghiên cứu khoa học và công nghệ tập trung để hỗ trợ giải quyết các nhu cầu
về công nghệ của doanh nghiệp. Các tổ chức này có thể là đơn vị sự nghiệp công
lập, ngoài công lập hoặc doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Đa dạng hoá và nâng
cao chất lượng các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực lao động kỹ thuật theo hướng
thích ứng với nhu cầu thị trường (kể cả với những thị trường công nghiệp công
nghệ cao, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu quy mô lớn) và phục vụ trực tiếp
nhu cầu của doanh nghiệp. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia liên kết
đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ cũng như thu hút nhân lực kỹ thuật
cao từ nước ngoài. Tiếp tục chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp nghiên cứu khoa học
theo mô hình tổ chức khoa học và công nghệ công lập, hoạt động theo Nghị định số
115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
Cần lưu ý rằng,
xã hội hoá hoạt động nghiên cứu, đào tạo khoa học và công nghệ là việc làm cần
thiết. Tuy nhiên, không thể chỉ dừng lại ở việc tạo thuận lợi trong việc thành
lập, tổ chức hoạt động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức này, mà phải
tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hoạt động của nó để
đảm bảo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước, đồng thời thống nhất công tác quản
lý nhà nước giữa hai lĩnh vực khoa học và công nghệ và đào tạo, tránh tình trạng
dàn trải ở quá nhiều bộ, ngành, cơ quan.
Ba là, tiếp tục
đổi mới công tác lý luận trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, đảm bảo có hệ
thống đối với những vấn đề mang tính chiến lược và tính dự báo, làm cơ sở cho
việc hoạch định chiến lược, chính sách phát triển khoa học và công nghệ của
Chính phủ. Để làm được điều này, việc tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn là hết
sức quan trọng. Lý luận trong lĩnh vực khoa học và công nghệ phải có mối liên hệ
chặt chẽ và phù hợp với lý luận trong các lĩnh vực khoa học khác, như lý luận về
mục tiêu đổi mới thể chế kinh tế, về mục tiêu giáo dục và đào tạo, về chế độ sở
hữu, v.v..
Bốn là, căn cứ
đặc điểm và tình hình của đất nước, tiềm lực kinh tế - xã hội và trình độ phát
triển của khoa học và công nghệ trong từng giai đoạn để xác định mục tiêu trọng
điểm và lựa chọn nhiệm vụ trọng tâm tập trung đầu tư cho công tác nghiên cứu
khoa học, đảm bảo thiết thực, hiệu quả, tránh ôm đồm vượt quá khả năng hoặc xác
định không rõ mục tiêu trọng điểm của việc nghiên cứu, dẫn đến lãng phí nguồn
lực. Các phân tích khoa học và thực tế đã chỉ ra rằng, trong 4 yếu tố cơ bản làm
cho đất nước phát triển, nếu có nguồn nhân lực và hạ tầng kỹ thuật thì có thể
thu hút được vốn và công nghệ. Vì thế, đối với hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay,
trước tiên cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ có chất
lượng cao và hạ tầng kỹ thuật để đáp ứng tốt đòi hỏi của sự phát triển và hội
nhập kinh tế quốc tế. Thực tiễn cho thấy, chỉ các nước lớn, có tiềm lực mạnh về
nhiều mặt mới đủ khả năng tập trung cho cả 3 loại nghiên cứu, các nước trung
bình chỉ đủ khả năng tập trung cho nghiên cứu triển khai và nghiên cứu sản xuất,
một số nước như Hàn Quốc chỉ tập trung cho nghiên cứu triển khai, Trung Quốc tập
trung cho nghiên cứu triển khai và nghiên cứu lý thuyết... và điều đó mới đưa
lại hiệu quả thiết thực trong thực tiễn. Ngoài ra, việc lựa chọn con đường
nghiên cứu khoa học và công nghệ cũng cần cần nhắc trên cơ sở kế thừa kinh
nghiệm của các nước đi trước. Chẳng hạn, ở châu Âu trước đây, việc nghiên cứu
khoa học diễn ra theo chu trình thuận từ nghiên cứu lý thuyết đến nghiên cứu
triển khai và nghiên cứu sản xuất, tức là từ khoa học đến công nghệ, nhưng ở một
số nước châu á lại chọn con đường phát triển theo chu trình nghịch từ nghiên cứu
sản xuất đến nghiên cứu triển khai và nghiên cứu lý thuyết, tức là từ công nghệ
đến khoa học, và điều này đã đem lại hiệu quả to lớn bất ngờ. Điển hình là
trường hợp của Nhật Bản thời Minh Trị đã mua máy móc của phương Tây để sản xuất
và bắt chước công nghệ, tiếp theo là cải tiến và xây dựng công nghệ riêng, rồi
mới từng bước xây dựng một nền khoa học. Nhờ vậy, chỉ sau một thời gian ngắn,
Nhật Bản đã trở thành một quốc gia hùng mạnh về khoa học và công nghệ. Sau này,
Hàn Quốc với chính sách phát triển các khu công nghệ, Trung Quốc với quyết tâm
trở thành “công xưởng của thế giới”... thực chất đều lựa chọn con đường phát
triển khoa học và công nghệ theo chu trình nghịch và đã đạt được những thành tựu
to lớn.
Năm là, thúc đẩy
và tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, nhất là cơ chế tài chính cho mối liên
doanh, liên kết giữa “bốn nhà” (Nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà
nông) để ứng dụng có hiệu quả khoa học và công nghệ vào sản xuất trong quá trình
sản xuất hàng hoá. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo môi trường văn hoá - xã hội và
đẩy mạnh công tác truyền thông để người dân hiểu và tôn trọng khoa học và công
nghệ cũng như việc ứng dụng nó trong sản xuất và đời sống. Đây cũng là cơ sở
quan trọng cho việc xây dựng một nền văn hoá mới tiên tiến mà ở đó, có sự thống
nhất giữa những yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra với tốc độ nhanh
chóng, trong đó cách mạng trong lĩnh vực khoa học đang vượt trước cách mạng
trong lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ đã tạo điều kiện đẩy nhanh tiến bộ công
nghệ. Ngược lại, sự tiến bộ của công nghệ lại thúc đẩy khoa học phát triển nhanh
hơn nữa và đưa khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trong nền kinh tế
toàn cầu hoá. Khoa học và công nghệ đã và đang trở thành động lực phát triển
hàng đầu của lực lượng sản xuất ở hầu hết các quốc gia phát triển trên thế giới.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ khiến tốc độ thay đổi mọi mặt
của đời sống xã hội diễn ra nhanh tới mức chưa từng xảy ra trong lịch sử nhân
loại từ trước tới nay. Bên cạnh mặt tích cực, sự phát triển của nó cũng khiến
nhiều quốc gia, các tổ chức và định chế quốc tế lớn khó quản lý hay kiểm soát sự
thay đổi đó một cách hiệu quả, đồng thời đặt ra không ít thách thức lớn đối với
nhân loại. Để khắc phục và đối phó có hiệu quả với những vấn đề nêu trên, đòi
hỏi sự nỗ lực chung và hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia, dân tộc, không phân
biệt văn hoá, thể chế chính trị. Trong bối cảnh đó, sự phát triển của khoa học
và công nghệ cũng như xu thế nhất thể hoá giữa khoa học và công nghệ với sản
xuất phải được định hướng và quản lý chặt chẽ, nhằm mục tiêu vì con người, vì sự
phát triển bền vững và tiến bộ xã hội.
---------------------------
(*) Bài Viết của Tiến sĩ. Trần Đức Hiển, Văn phòng Chính phủ.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập,
t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.580.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23,
tr.269.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.4,
tr.187
Tạp chí Triết học số 1 (236) năm 2011; http://vientriethoc.com.vn/?vientriet=articles_deltails&id=1352&cat=57&pcat=