Thứ Ba, 17 tháng 5, 2011

Kỷ niệm 36 năm Giải phóng hoàn toàn miền Nam (30-4-1975 - 30-4-2011) : Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Kỷ niệm 36 năm Giải phóng hoàn toàn miền Nam (30-4-1975 - 30-4-2011) :
Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.

Sau hơn 20 năm vừa kháng chiến, vừa chuẩn bị lực lượng, thế và lực của nước ta đã không ngừng lớn mạnh, những chiến thắng liên tiếp trên các mặt trận đã đẩy kẻ thù vào thế hoang mang, suy yếu và giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Với tinh thần “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã được tiến hành với tinh thần quyết chiến và toàn thắng, với sức mạnh áp đảo cả về quân sự và chính trị tích luỹ từ nhiều năm. Quân và dân ta đã giành toàn thắng bằng ba chiến dịch lớn: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đánh Buôn Ma Thuột, giải phóng toàn bộ Tây Nguyên; Chiến dịch Huế-Đà Nẵng quét sạch địch ở ven biển miền Trung và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn-Gia Định và các tỉnh còn lại ở Nam Bộ. Hơn một triệu quân ngụy và cả bộ máy ngụy quyền bị đập tan. Chế độ thực dân mới được Mỹ dốc sức xây dựng qua 5 đời tổng thống hoàn toàn sụp đổ. 
Đánh giá về sự kiện lịch sử này, ông G.C.Hơ-ring, tác giả cuốn “Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ” đã khẳng định: “Chính quyền Việt Nam Cộng hoà sụp đổ chỉ sau 55 ngày kể từ khi quân giải phóng bắt đầu tấn công. Điều này cũng chứng minh cho căn bệnh mà chính quyền này đã bị nhiễm phải ngay từ khi thành lập: sự manh mún về chính trị; tình trạng thiếu các nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng và có năng lực; một tầng lớp trên mệt mỏi và tham nhũng không có khả năng điều chỉnh cho thích nghi đã tạo nên một cơ sở quốc gia yếu kém đến mức nguy hiểm... Trước những thực tế khắc nghiệt này, nỗ lực nhằm tạo nên một thành trì chống chủ nghĩa cộng sản ở ngay phía nam vĩ tuyến 17 đã có mầm mống thất bại ngay từ đầu”(2).
Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc đã chấm dứt quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (bắt đầu từ sau Cách mạng Tháng Tám), chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa đế quốc, làm cho Tổ quốc ta độc lập và thống nhất, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi vĩ đại đó không chỉ mở ra một bước ngoặt mới cho dân tộc Việt Nam mà còn hàm chứa nhiều ý nghĩa mang tầm thời đại sâu sắc.

Thắng lợi này đã góp phần làm sụp đổ và đè bẹp cả một bộ máy chiến tranh khổng lồ với hơn một triệu quân được trang bị đủ các loại vũ khí hiện đại và sự hậu thuẫn đắc lực của đế quốc Mỹ. Trong suốt quá trình của cuộc kháng chiến ba mươi năm, bản lĩnh và kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng ta ngày càng dày dạn. Với trí tuệ tuyệt vời và sự nhạy cảm chính trị sâu sắc, Đảng ta đã phân tích, đánh giá và xử lý đúng đắn, chính xác, kịp thời các tình huống khó khăn, ác liệt, phức tạp để lãnh đạo toàn dân, toàn quân ta đánh bại các kiểu loại chiến tranh của một đế quốc đầu sỏ.
Đây là thắng lợi vẻ vang của toàn thể dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đánh bại những thế lực thực dân, phát xít, đế quốc hùng mạnh nhất trong thế kỷ XX để hoàn thành vẻ vang sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và thống nhất hoàn toàn cho Tổ quốc Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc - kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội, nâng vị thế chính trị của Việt Nam trên thế giới lên một tầm cao mới; thể hiện ý chí tự lực, tự cường, sự thông minh, sáng tạo và lòng quả cảm của con người Việt Nam.
Đồng thời, đã tạo ra cho Việt Nam một thế đứng vững chắc trong tình hình quốc tế biến đổi mau lẹ và rất phức tạp trong thập kỷ 80 của thế kỷ XX để thực hiện sự nghiệp đổi mới, phá vỡ âm mưu bao vây, cô lập Việt Nam của các thế lực phản động, mở rộng quan hệ đa phương.

Đây còn là thắng lợi của đường lối và phương pháp cách mạng, đường lối chiến tranh cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta. Đường lối và phương pháp cách mạng ấy là giương cao hai ngọn cờ cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, động viên lực lượng của toàn dân, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, tạo thành một sức mạnh tổng hợp to lớn để đánh Mỹ và thắng Mỹ. Đường lối đó đã động viên và tổ chức được hàng triệu người xông lên diệt giặc cứu nước, tạo thành sức mạnh vô địch của chiến tranh cách mạng ở miền Nam, đúng như Binh thư yếu lược đã nói “một người làm một trận, nghìn muôn người sống làm một trận, nghìn muôn người động làm một người”.

Đối với thời đại, đây là lần đầu tiên, một dân tộc thuộc địa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản chân chính đã đánh bại hai cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp và Mỹ, góp phần quan trọng cùng với loài người tiến bộ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới và mở đầu việc đánh bại chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Dân tộc Việt Nam đã cùng với nhân dân ba nước Đông Dương đập tan cuộc phản công lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, góp phần làm chuyển biến tương quan lực lượng có lợi cho phong trào cách mạng thế giới, “làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ. Nó chứng minh rằng ba dòng thác cách mạng của thời đại hiện nay đang ở thế tiến công, đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận chủ nghĩa đế quốc”(3).
Nhận định về thành công này, tờ báo Pháp Le Figaro, số ra ngày 3-5-1975 viết: đế quốc Mỹ đã thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đây là thất bại đầu tiên, nghiêm trọng nhất trong toàn bộ lịch sử 200 năm của Hoa Kỳ. Thật vậy, “trong lịch sử gần 200 năm của nước Mỹ (4-7-1776 ngày công bố Tuyên ngôn độc lập), có hơn trăm cuộc “xung đột quân sự”, trong đó có hàng chục cuộc chiến tranh lớn do Mỹ tiến hành và đều giành chiến thắng hay không thất bại, duy chỉ có cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc xung đột đầu tiên Mỹ không dám nói mình chiến thắng”(4). Với nhân loại tiến bộ, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi là biểu tượng cao đẹp của lương tri và phẩm giá con người, của khát vọng độc lập, tự do cho Tổ quốc; là biểu tượng cao đẹp, ý chí quật cường, tinh thần đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; là nguồn động viên, cổ vũ to lớn đối với các dân tộc dũng cảm, kiên cường tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vững tin vào xu thế phát triển tất yếu của loài người tiến bộ; là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, làm tiêu tan huyền thoại về sức mạnh của đế quốc Mỹ hiếu chiến. Cuộc chiến đấu đó còn cống hiến cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, một giá trị tinh thần có sức mạnh to lớn, đem lại cho họ niềm tin trong cuộc đấu tranh tự giải phóng khỏi xiềng xích của chủ nghĩa đế quốc và góp phần trực tiếp vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của hai nước Lào, Căm-pu-chia  anh em. “Thắng lợi của chúng ta đã góp phần tích cực tăng cường lực lượng xã hội chủ nghĩa thế giới, tạo điều kiện thuận lợi mới để bảo vệ hoà bình, bảo vệ độc lập dân tộc ở Đông Dương và Đông Nam Á”(5).

Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nghị quyết Đại hội IV của Đảng năm 1976 khẳng định: “Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”(6); “là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng”(7).
Dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã thu hút toàn dân tộc tham gia với quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển nổi, là hội tụ, kết tinh của nhiều nhân tố, mà trước hết, ta phải khẳng định đây là cuộc chiến tranh chính nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, đã có sức mạnh thu hút toàn dân tộc tham gia với một quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển nổi. Quyết tâm đó được thể hiện trong việc dám đánh, biết đánh và biết thắng đế quốc Mỹ. Đặc biệt, trong quá trình hoạch định, hoàn chỉnh đường lối và phương pháp cách mạng, Đảng ta luôn giữ vững và phát huy tinh thần độc lập, tự chủ sáng tạo, tự lực, tự cường. Đó là đường lối đồng thời gương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng ở hai miền nhằm mục tiêu chung và bao trùm là chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc. Cùng với đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta có sự đoàn kết, thống nhất cao độ cả về ý thức và hành động; đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, toàn quân, đoàn kết Bắc - Nam, đoàn kết các lực lượng yêu nước và tiến bộ... Sự đoàn kết thống nhất trong Ban Chấp hành Trung ương Ðảng quyết định sự đoàn kết thống nhất trong toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân, trở thành sức mạnh vô địch đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược.
Đồng thời, chúng ta đã phát triển không ngừng nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân - một thế trận hiểm hóc, liên hoàn, ngày càng hoàn chỉnh và vững chắc. Thế trận đó được xây dựng bằng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân kết hợp với nhau thành thế trận “lòng dân” để tiến công địch. Đảng ta đã kết hợp một cách đúng đắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, tạo sức mạnh tổng hợp lớn nhất để đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Một nhà báo Mỹ đã nhận xét: “Ai cũng biết rằng trong thế kỷ XX, chính vật chất là sức mạnh thời đại chúng ta, thời đại có nhiều tên gọi: thời đại năng lượng nguyên tử, thời đại phản lực, thời đại điều khiển học, thời đại chinh phục vũ trụ, thời đại thông tin hóa… Dù đặt tên cho thiết bị nào thì Mỹ cũng đều có và người Việt Nam đều không có. Sức mạnh duy nhất của Việt Nam là sức mạnh của con người”(8). Và bằng cuộc chiến đấu của con người, người Việt Nam đã đánh bại máy móc chiến tranh của Mỹ. Họ đã chứng minh cho chân lý, trước đây vốn đã bị lãng quên, vẫn còn là chân lý: con người biết đoàn kết sẽ là sức mạnh hùng mạnh nhất trên thế giới.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi mà đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thực sự là chiến công chói lọi trong nửa cuối thế kỷ XX của quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là tài sản vô giá của dân tộc, để lại cho chúng ta những bài học quý báu trên nhiều phương diện. Đó là giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được vũ trang bằng Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh là bảo đảm vững chắc nhất cho mọi thắng lợi; ý chí kiên định, quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Đó là có đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân phong phú, sáng tạo; không ngừng củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà hạt nhân là sự đoàn kết nhất trí trong Đảng. Đó là đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại gắn với sức mạnh dân tộc; bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người; mỗi giai đoạn cách mạng, phải xem xét những biến chuyển trong tình hình quốc tế và khu vực, xác định đúng kẻ thù trực tiếp của cách mạng. Đánh giá đúng địch, đúng ta. Trên cơ sở đó hạ quyết tâm chính xác, vạch ra đường lối và chiến lược, phương pháp đấu tranh thích hợp, chiến thắng địch từng bước để tiến lên thắng địch hoàn toàn… Những bài học kinh nghiệm này đến nay vẫn còn nguyên giá trị trong quá trình đổi mới đất nước.

Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp. Các thế lực phản động, thù địch không ngừng chống phá cách mạng Việt Nam bằng âm mưu, chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều thủ đoạn mới ngày càng tinh vi và xảo quyệt hơn, quyết liệt và thâm độc hơn. Do đó, vấn đề kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra những yêu cầu mới. Ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm quý báu được rút ra từ chiến thắng vĩ đại đó còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Ở vào thời điểm quan trọng này, cần nhìn lại quá khứ hào hùng của dân tộc với nền văn hiến Việt Nam và những võ công oanh liệt, ôn lại chặng đường chiến đấu dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh để rút ra những bài học dựng nước và giữ nước cho ngày nay và mai sau. Đây sẽ là những chỉ dẫn quan trọng cho nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong điều kiện mới để bảo vệ và phát triển đất nước.
-----

1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb ST, H.1977, tr.5-6.
2. George C. Herring. Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ. Dịch giả: Phạm Ngọc Thạch, Nxb CTQG. H.1998, tr.492.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại thắng mùa xuân 1975, Văn kiện Đảng. Nxb CTQG, H.2005, tr.436.
4. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam. Đại thắng mùa xuân 1975, nguyên nhân và bài học. Nxb QĐND, H.1995, tr.430.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd, tr.436.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 37, Nxb CTQG, H.1998, tr.472.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, Sđd., tr.484.
8. Duy-lơ-ran-nut. Làn gió mát từ thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1975, tr.73-74.
Ths. Nguyễn Năng NamHọc viện Khoa học Quân sự
http://www.xaydungdang.org.vn/Home/Lyluan-Thuctien-Kinhnghiem/2011/3646/Y-nghia-lich-su-nguyen-nhan-thang-loi-va-bai-hoc-kinh.aspx