Bài viết nầy chủ yếu được trích từ bản thảo sách Việt Nam 1918-1945, giới và hiện đại: sự trỗi dậy những nhận thức và trải nghiệm mới, là bản dịch tiếng Việt của luận án cùng tên đã được bảo vệ tại Đại học Lyon, Pháp. Trích đoạn nầy lấy từ Phần Hai, “Phụ nữ, chủ thể và đối tượng của sự thay đổi”. Trong phần nầy, sử dụng nguồn ấn phẩm gồm các tác phẩm nghệ thuật đương thời, đặc biệt là văn học, trước hết, chúng tôi phân tích các hình tượng nhân vật nữ. Tiểu thuyết và truyện ngắn chứng tỏ sự tìm tòi những khả năng mới trong quan hệ vợ chồng, trong đức hạnh đàn bà cũng như trong từng thành viên nam hay nữ của gia đình nhỏ và đại gia đình. Bài dưới đây mở đầu chương IV, tựa nhỏ là “Không còn có thể tiếp tục như trước: những xao động và miễn cưỡng ban đầu”, phân tích hình tượng nữ trong các tác phẩm thời khai sinh của văn học quốc ngữ Nam bộ.So với nguyên bản tiếng Pháp, sử dụng nguyên tác của Hồ Biểu Chánh cho phép chúng tôi trích dẫn đủ, phân tích kỹ hơn những sắc thái khó chuyển tải hết khi phải dịch ra tiếng Pháp, nhứt là đối với bản dịch tiếng Việt kịch thơ Le Cid. So với luận án, bài nầy sử dụng thêm một tư liệu mới tiếp cận sau là bản in năm 1912 của tiểu thuyết Ai làm được?
Tiểu thuyết đầu tiên bằng quốc ngữ
ra đời năm 1887 với nhan đề
Thầy[1]
Lazaro
Phiền[2].
Nó kể chuyện một người chồng vì nghi ngờ vợ ngoại tình đã thuốc chết
vợ mình sau khi giết người tình nghi là ý trung nhân của vợ, một
người bạn lâu năm. Khi biết ra sự thật, người nầy đi tu, nhưng rốt
cuộc không sống nổi vì quá hối hận. Hai khía cạnh đáng quan tâm suy
nghĩ. Thứ nhứt, nếu người vợ thực sự phạm tội, người chồng có ân hận
hay chăng sau hai án mạng? Luật Gia Long cho phép người chồng giết
tại chỗ “gian phu dâm phụ” nếu bắt quả tang. Trong một tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh viết năm 1929[3],
đôi gian phu dâm phụ bị người chồng dùng gậy đập chết; người chồng
sau đó được cả gia đình và công luận tán thành, ủng hộ[4].
Tòa án thuộc địa chỉ xử kẻ sát nhân có một năm tù vì anh ta giết
người vì ghen và đó chỉ là ngộ sát[5].
Tuy nhiên, Lazaro Phiền đã nổ súng bắn người bạn thân bị hiểu lầm là
tình địch và giết vợ bằng một thứ thuốc độc làm nàng chết từ từ,
không để lại dấu vết. Anh cũng không thể viện lẽ tức giận không thể
kìm nén, như kẻ sát nhân được hưởng khoan hồng của luật Gia Long hay
trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Anh đã tự cho mình một cái quyền,
quyền xử một tội coi là tội đáng chết. Chính cái quyền ấy không còn
tuyệt đối và bắt đầu chao đảo.
Người vợ trong Thầy Lazaro Phiền
biết mình bị ngờ oan và biết chồng định hại chết mình, nhưng nàng
không nói một lời, không tìm cách minh oan hay tránh khỏi cái chết
từ từ bằng thuốc độc. Nàng hành xử y hệt như đạo lý nho giáo đã dạy:
con người đức hạnh – dù nữ hay nam – biết là mình đúng cho nên
bất chấp bất công và cái chết, người đó biết rằng rồi ra thế nào
mình cũng được minh oan; vả chăng sự minh oan từ nhân thế cũng không
cần thiết, bởi người phụ nữ tiết sạch giá trong đó – giống như kẻ
trượng phu trong nghịch cảnh – đã sát thân thành nhân, giữ đạo làm
người chỉ bằng hành vi tự sát của mình. Nhắc điều nầy để nhớ thiếu
phụ Nam Xương hay người vợ trong Thầy Lazaro Phiền đều không
chỉ là nạn nhân thụ động của bất bình đẳng giới, hiểu theo nghĩa
giản lược và thô thiển. Và khi dạy chữ nhân, nho giáo không
phải không thể có tác dụng bồi bổ nhân cách cho cả nam lẫn nữ.
Giống như vợ chàng Trương vào thế
kỷ XV[6],
vợ thầy Phiền đã chết vì bị chồng nghi oan; nàng không nổi loạn,
không phản ứng; có thể lưu ý là suốt truyện, nàng luôn luôn câm
lặng. Cái đang nhúc nhích, cái bắt đầu chao đảo, chính là vị thế xưa
kia rất êm ái của người đàn ông-người chồng. Vào thế kỷ XX, kể cả
sau khi đã xưng tội với cha sở bên đạo Thiên chúa – hình tượng mới
của “quân, sư, phụ” đáng lẽ có quyền phán xử và rửa tội – người
chồng vẫn không tìm lại được sự bình an trong tâm. Phán xét của cha
sở và tác giả đều rộng lượng, nhưng cái chết đầy day dứt ăn năn của
người chồng-sát nhân cho thấy chính bản thân anh không tự tha thứ
được cho mình.[7]
Một tác phẩm ý nghĩa khác, còn ít
được biết đến[8]
hơn cả Thầy Lazaro Phiền, là bản dịch ra tiếng Việt kịch thơ
Le Cid của Corneille, đây là bản dịch có trước hai bản[9]
kia. Hồ Biểu Chánh làm thành một truyện thơ mô phỏng Truyện
Kiều của Nguyễn Du về hình thức. Bùi Đức Tịnh ghi nhận: Ngay
trên bìa sách, có nhắc câu thơ của Nguyễn Du trong truyện Kiều “Duyên
hội ngộ, đức cù lao/Chữ tình chữ hiếu chữ nào nặng hơn”. Tác giả
chú thích rằng tất cả các bản truyện Kiều đều chép “bên tình
bên hiếu bên nào nặng hơn”; ông cũng có vẻ thấy không hợp lý
khi câu trích dẫn đó được sử dụng cho bản dịch Le Cid. Hồ
Biểu Chánh tùy tiện trong trích dẫn chăng? Đối với người thuộc và mê
Kiều như ông, hơi đáng ngạc nhiên. Hay từ trong tiềm thức “bên
tình, bên hiếu” đã không còn là hai bên, rạch ròi, phân biệt và
có trên, có dưới? (Thiệt ra, ở Nguyễn Du, chúng đã không còn là
trên/dưới khi chẳng những hai cô gái con nhà gia giáo đều cư xử
không hoàn toàn theo luân lý Khổng Mạnh mà cả cha mẹ hai nàng cũng
thổn thức, xót xa ngăn cản con phụ tình vì chữ hiếu!)
Hồ Biểu Chánh giữ nguyên nhiều tình
tiết cốt truyện từ nguyên tác. Nhưng ông bỏ đi cuộc đấu gươm báo
thù, có lẽ vì quá xa lạ với phong hóa Việt. Quan trọng nhứt là ông
đã đổi kết cuộc, để Lệ Bích[10]
giải quyết mâu thuẫn bằng cách tự sát[11],
với tư thế liệt nữ: “Rút ra một ngọn đao vàng/Đâm ngay vào ruột;
bá quan kinh hoàng”. Thanh Tòng muốn chết theo người yêu, nhưng
tự kìm chế vì tổ quốc – vì “ơn chúa nợ cha”, Rodrigue Việt
nói, đúng đạo nhà nho – còn cần chàng chống giặc Trung Hoa. Chàng
xin và được phép ra trận với hai viễn cảnh: “Ví dầu thắng trận
hồi kinh/Thảo ngay đền đáp, thinh danh lại càng/Bằng như thân bỏ
chiến tràng/Tóc tơ vẹn giữ, đá vàng không phai”.
Như vậy,
chàng trai anh hùng của Corneille ra trận với lòng phấn khích, quyết
thắng giặc lập công; vì phần thưởng là mối lương duyên được nhà vua
tác hợp, gạt qua một bên những tị hiềm, xung đột của thế hệ hai
người cha thù địch. Còn Thanh Tòng của Hồ Biểu Chánh, vì ràng buộc
đạo lý khiến người yêu đã tuẫn tiết, chàng phân vân giữa hai dòng
nước: “thảo cha ngay chúa”, danh dự kẻ làm trai mâu thuẫn với
tình yêu chung thủy đá vàng! Đáng suy nghĩ hơn, hình như lưỡi đao
oan nghiệt của Lệ Bích cũng không chỉ đơn thuần vì nghĩa vụ làm con.
Thanh Tòng có tội giết bầy tôi lương đống của triều đình là Nhị Lôi,
nhưng lại thắng giặc Hung nô, nên được vua binh vực: “Thanh Tòng tội ấy công nầy cũng
ngang/Trẫm đà phong xá cho chàng/Lại phong Đốc tướng hiển vang mọi
bề/Khuyên nàng thôi chớ chấp nê”. Vì trung thành với nguyên tác
của ông Corneille tận trời Tây, Hồ Biểu Chánh không ngần ngại đặt
vào miệng quân vương Việt lời khuyên vô cùng “trái lẽ” Á Đông? “Theo
luân lý và phong tục Việt Nam đương thời”, tác giả Bùi Đức Tịnh
phân tích, Lệ Bích của Hồ Biểu Chánh không thể, như Chimène, chấp
nhận cuộc hôn nhân với kẻ giết cha mình, dẫu là hôn nhân trong hy
vọng. Nhưng hãy nghe nàng phân trần: “Thù bất cộng thiên/Lòng
nào mà nỡ kết duyên cho đành?/Trời kia đã phụ lòng thành/Tháo thân
khôn trá, chỉ mành xe lơi/Cái đời còn kể chi đời/Thà liều một thác,
cho người hiển vang”. “Lòng nào mà nỡ”, là chữ hiếu
chăng, hay cũng là thổn thức của con tim non trẻ, vừa xót cha vừa
giận người yêu đã không “vị tình” mình? “Trời kia đã phụ”,
hay con người vì viễn cảnh “hiển vang” mà “tháo thân”,
trí trá, “chỉ mành xe lơi” là bạc tình lang trước mặt?
Vậy thì nàng “thà liều một thác, cái đời còn kể chi đời”,
chỉ vì bổn phận làm con hay còn vì hờn oán tình lang, vì duyên tình
trắc trở?
Hồ Biểu Chánh đặt tên cho bản dịch
Le Cid có sửa đổi của mình cái nhan đề độc đáo – biểu lộ một
xác tín được khẳng định hay ngược lại, hòng trấn an xao xuyến băn
khoăn? – là Vậy mới phải. Chúng tôi muốn cắc cớ hỏi
lại: “vậy” là sao, là cái gì đây? Là “đạo lý” cổ
truyền chăng? Đạo lý ấy rõ ràng đang được tác giả bảo vệ với khá
nhiều lúng túng và trăn trở.
Đến năm 1922, sau mười năm nghiền
ngẫm trong thinh lặng (Hồ Biểu Chánh dịch Le Cid năm 1913,
xuất bản năm 1918; viết Ai làm được năm 1912, xuất bản năm
1922), hình như tác giả đã lấy quyết định khác, với tác phẩm văn
xuôi đầu tiên của mình[12].
Nhân vật chánh trong
Ai làm được?[13]
tên Bạch Tuyết. Tên nầy không xa lạ trong tiếng Việt; nhưng sự liên
tưởng đến Bạch Tuyết của Tây phương không phải không có; vì nàng
Bạch Tuyết ở đây cũng bị dì ghẻ đầu độc, như đã thuốc chết mẹ nàng
trước đó. Bà ép nàng uống chén thuốc có độc dược. Nàng được cứu sống
giờ chót, khi “hoàng tử” của nàng trở về kịp lúc để, thay vì nụ hôn,
giằng người yêu khỏi tay kẻ sát nhân, rồi thưa bà dì ghẻ ra tòa, nhờ
trạng sư và nhân chứng với chén thuốc làm tang vật!
Còn có thể khai thác nhiều thông
tin trong tiểu thuyết nầy. Nhưng nội dung cốt yếu là:
Bạch Tuyết đem lòng yêu
Chí Đại, thư ký của cha nàng, do ông ngoại nàng đưa vô làm trong
phủ. Ông nàng rất quý chàng trai đó vì, cũng như tác giả, anh được
đào tạo từ cựu học – dạy đạo làm người, Hồ Biểu Chánh nói – và tân
học, giúp anh mưu sinh và lập nghiệp trong xã hội đương thời. Vốn
con nhà gia giáo[14],
nàng không hề tỏ tình ý gì với chàng trai – chàng đã sống trong phủ
một thời gian mà cả hai chưa bao giờ nói chuyện với nhau – ngoại trừ
việc sai lão bộc đưa chàng chén thuốc có quế mài, một hôm chàng đau
bụng. Như vậy cũng đủ cho bọn tôi tớ lời ra tiếng vào và cho bà dì
ghẻ có cớ đâm thọt với cha nàng. Dì ghẻ tức tối vì Bạch Tuyết cương
quyết cãi lời cha, không ưng lấy cháu trai của bà làm chồng, nên vu
cáo nàng là “gái hư”, khiến nàng bị cha đánh đòn[15]
vừa đau vừa nhục.
Bạch Tuyết quyết định bỏ
nhà trốn đi và lấy Chí Đại làm chồng. Nhiều biến cố dồn dập xảy ra.
Bạch Tuyết ở một mình tại Sài Gòn, xa nhà cha mẹ, sau lại trốn khỏi
nhà ông ngoại lần thứ hai vì không đành lòng ăn sung mặc sướng trong
lúc chồng dầu dãi nắng mưa lập nghiệp phương xa. Lâm trọng bịnh nên
nàng bị bắt trở về nhà và suýt thiệt mạng về tay dì ghẻ nếu chồng
nàng không quay về kịp một cách kỳ diệu.
Trên đường lưu lạc, Bạch
Tuyết kết nghĩa chị em với một cô gái mồ côi, nhà nghèo được chú
thím nuôi. Cô gái nầy được Hồ Biểu Chánh đặt tên cũng ý nghĩa: Băng
Tâm[16].
Say mê nhan sắc của nàng, một chàng trai nhà giàu lúc đầu định lợi
dụng nàng trong quan hệ trăng gió nhứt thời. Chú thím vì nghèo nên
sẵn sàng đồng lõa với âm mưu; thím càng tỏ ra tham lam, mưu trí và
độc ác hơn chồng. Băng Tâm chống lại quyết liệt và, sau khi cũng bị
đòn như người bạn gái con quan, nàng chẳng thà bị đuổi khỏi nhà[17]
hơn chịu nhục.
Tuy nhiên, sự gan dạ và
đức hạnh của nàng làm chàng trai theo đuổi động lòng; chàng trở
thành một người yêu tận tụy. Nhưng còn phải rất nhiều những biểu
hiện chứng minh tình yêu chân thành tôn trọng nhân phẩm người thiếu
nữ gia thế bần hàn hơn mình thì Trường Khanh mới chiếm được trái tim
trong sạch đó. Băng Tâm tự nguyện nhận lời cầu hôn sau nhiều thử
thách; nàng kiêu hãnh từ chối khi ông ngoại Bạch Tuyết ngỏ lời tặng
của hồi môn để xóa chênh lệch giàu nghèo. Vậy là đám cưới của lứa
đôi hạnh phúc nầy được cử hành trang trọng; và đánh thức nỗi đau của
Bạch Tuyết.
Nàng đã trả được mối thù
cho mẹ, cuộc hôn nhân – với người yêu nàng và được nàng yêu – từ
ngoài vòng lễ giáo đã được hợp thức hóa nhờ ông ngoại đưa đôi trẻ ra
làm hôn thú trước chánh quyền, có đủ mặt nhân chứng theo pháp luật
(thuộc địa), cha nàng đã hiểu tội ác của người vợ thứ và tán thành
hành động của con, nàng đã sum họp cùng chồng sau khi chồng lập
nghiệp thành công, giàu có, nàng chứng kiến bạn thân mình hạnh phúc.
Vậy mà, chính lúc đó, nàng quyết định tự tử.
Nguyên nhân của quyết định nầy là ý
thức về danh dự và đức hạnh theo quan niệm cổ truyền: đối với người
con gái, không nỗi nhục nào lớn hơn là bỏ nhà theo trai, theo
không, nghĩa là không có lễ vật cưới hỏi của đàng trai như cha
mẹ mình thách cưới, không có nghi lễ ra mắt hai họ và được xóm giềng
chứng kiến. Kể cả khi người chồng đã được gia đình chọn lựa, như
trong trường hợp Bạch Tuyết, bởi ông ngoại nàng – là người đại diện
gia đình một cách chánh đáng hơn người cha, vì người nầy đã mất
quyền do nghe lời vợ lẽ, ít ra theo đạo lý bình dân miền Nam mà Hồ
Biểu Chánh chia sẻ, có thể lập luận như vậy – đã định gả nàng cho
Chí Đại. Nhưng lần nầy, trái với lập trường hồi năm 1913 khi ông đã
“sửa” Corneille, Hồ Biểu Chánh quyết định khác.
Khi vợ cắt nghĩa lý do tự tử:
“Em hư lắm, em quấy lắm, không đáng làm vợ anh.”, Chí Đại nắm
tay vợ, đáp bằng lời rất hữu tình lại hữu lý: “Nếu
em không hư, thì ngày nay đôi ta làm sao được gần nhau đây, còn nếu
em sợ quấy thì có thể nào báo thù cho mẹ được?” Tác giả tả:
vợ ngồi ngó đèn, rồi day lại ôm chồng mà nói rằng: “Anh như vầy mà
chết sao đành.”[18]
Thà chết hơn sống nhục, đó là điều
nho giáo dạy cả đàn bà và đàn ông. Đối với đàn bà, có rất nhiều lý
do đã được dạy cho họ là điều khiến họ phải biết nhục. Các nhà cách
tân những năm 1920 nhìn lại các lý do nầy thấy chúng có mức độ chánh
đáng khác nhau. Đóng góp xuất sắc của Hồ Biểu Chánh trong Ai làm
được? là đề cao nghị lực và sự chủ động của những phụ nữ như
Bạch Tuyết và Băng Tâm. Họ đấu tranh bảo vệ nhân phẩm của mình trong
ý nghĩa hiện đại nhứt của khái niệm nầy. Họ rời mái ấm gia đình và
mỗi người tự xây dựng lấy hạnh phúc riêng, tự chọn người chồng mà họ
tin cậy, yêu thương. Bạch Tuyết tỏ ra rất kiên quyết báo thù cho mẹ
và tự làm chủ cuộc đời mình, một mực chung thủy với người trái tim
mình đã chọn. Với một cá tánh như vậy, sẽ khiên cưỡng biết bao nếu
tưởng tượng nàng tự sát như Hồ Biểu Chánh đã buộc cô Chimène Việt
phải làm trong Vậy mới phải, được viết ở Long Xuyên năm 1913
và xuất bản ở Sài Gòn năm 1918[19].
Hồ Biểu Chánh 27 tuổi khi viết
Ai làm được? năm 1912 tại Cà Mau. Ông 37 tuổi khi tác phẩm xuất
bản năm 1922 tại Sài Gòn. Khi viết luận án, chúng tôi chưa tìm ra
bản thảo năm 1912. So sánh hai tác phẩm Vậy mới phải và Ai
làm được?, chúng tôi đưa ra giả thuyết là trong bản thảo 1912,
có thể Bạch Tuyết cũng đã tự tử chết, vì tác giả còn quan niệm
vậy mới phải. Chúng tôi tự hỏi: phải chăng Hồ Biểu Chánh không
đành lòng, nên sau mười năm nghiền ngẫm, ông đã cho phép Chí Đại lần
thứ hai cứu sống người vợ đồng thời là người yêu, người tình của
mình thoát khỏi độc dược của một đạo lý quá ư nghiệt ngã? Năm 2009,
cầm trong tay bản đã đăng nhiều kỳ trên báo Nông cổ mín đàm
năm 1912[20],
hóa ra sự thật còn thú vị hơn nhiều. Tác giả đã quyết định để cho
Bạch Tuyết sống và hưởng hạnh phúc xứng đáng ngay từ bản thảo đầu
tiên. Nhưng mười năm sau, khi xuất bản thành sách, trình làng một
kết cuộc bất chấp đạo lý cổ truyền như vậy, ông đã tưởng tượng thêm
vụ tự tử bất thành và một số chi tiết khác chỉ để làm cho nhân vật
nữ của mình giữ được “đức hạnh” trong mắt độc giả. Đó cũng là cơ hội
để ông biện hộ cho nàng – không phải như Nhất Linh mượn lời trạng sư
người Pháp biện hộ cho cô Loan trước tòa – mà bằng lời và cử chỉ
“rất hữu tình lại hữu lý” của người yêu, như Kim Trọng từng ca
ngợi Thúy Kiều là “bụi nào cho đục được mình ấy vay” sau mười lăm
năm lưu lạc phong trần! Có lẽ Bạch Tuyết giống một người con gái
nông thôn Nam bộ – hậu duệ của cô Kiều Nguyệt Nga “nết na”
theo quan niệm nhà nho Gia Định[21]
– hơn là cô Tố Tâm tân học của Hoàng Ngọc Phách.
Dẫu sao, so với cái chết thảm của
Tố Tâm, tiểu thuyết ra đời gây chấn động dư luận Hà thành năm 1925,
Bạch Tuyết được sống để khẳng định “cái hư, cái quấy” của mình là
cần thiết, đáng yêu, thiệt đã hiện đại hơn nhiều lắm. Và đối với văn
nghiệp của tiểu thuyết gia Hồ Biểu Chánh, việc xuất bản Ai làm
được? năm 1922 như tháo đi một nút chặn. Chỉ từ sau thời điểm
đó, ông mới sáng tác liên tục, rất đều, rất mạnh, có khi một năm
hai, ba tiểu thuyết.
Hình tượng phụ nữ sẽ còn phát triển
phong phú, đa dạng trong văn học quốc ngữ. Tư tưởng và chủ nghĩa nữ
quyền cũng sẽ tự khẳng định trên mọi lãnh vực, lý luận và thực tiễn,
với nhiều dạng thức khác nhau. Bài viết nầy chỉ ghi nhận những trăn
trở buổi đầu. Ở đó, dấu ấn đạo lý cổ truyền còn rất rõ, rất mạnh và
sâu. Tuy nhiên, cả trong bản chất chung của nó và trong các sắc thái
đặc thù địa phương Nam bộ, nó đều đối sánh (confronter, se comparer)
với những giá trị văn hóa mới du nhập từ phương Tây một cách hiển
lộ. Đối sánh hay đôi chối[22]
– như vợ chồng Chí Đại-Bạch Tuyết ở trên – không nhứt thiết là đối
đầu, xung đột, loại trừ nhau hay nhắm mắt quay lưng vọng ngoại; mà
hoàn toàn có thể là dung hòa, cải biến nhau, để sản sanh cái mới,
không phải sống sít ngoại lai, mà nhuần nhuyễn tánh chất Việt, miễn
là Việt hiện đại, như sau nầy cuộc hành trình thú vị từ chiếc áo tân
thời Lơ-muya tới tà áo dài biểu tượng cho “nữ tính Việt” trong tâm
tưởng của nhiều người, bất chấp nguồn gốc không thể nào coi là
“thuần” Việt của nó.
Nguyễn Trọng Quản (1865-1911) thuộc
lớp học sinh Việt Nam đầu tiên du học ở Algérie. Không phải ngẫu
nhiên, ông nêu trong lời Tựa Thầy Lazaro Phiền, mà cốt truyện
chỉ là câu chuyện bi kịch gia đình, một trong những mục đích của ông
khi viết tác phẩm nầy là “làm cho dân các xứ biết rằng người Annam
sánh trí sánh tài thì cũng chẳng thua ai!”[23].
Và trong lời tặng bằng tiếng Pháp gởi Diệp Văn Cường và các bạn học
cũ tại trường trung học Alger, ông nhắc “kỷ niệm những buổi tối êm
đẹp vào dịp hè đi dạo trong vườn Merenge dưới ánh trăng mập mờ,
miệng ngậm điếu thuốc bị cấm hút, mơ ước cho xứ Nam kỳ yêu quý của
chúng ta một tương lai xán lạn và văn minh, và cuốn sách nhỏ nầy là
một đóng góp thực hiện mơ ước thuở xưa.”[24]
Kế thừa truyền thống, nhưng có chọn lọc, có phản biện, đồng thời
tháo dỡ ra, xây dựng lại quan hệ giới theo xu hướng bình đẳng hơn,
tôn trọng nhân cách con người dù là nữ hay nam, là một yếu tố cấu
thành tương lai xán lạn và văn minh đó, trong nhận thức của từng lớp
trí thức những thập niên đầu thế kỷ XX.
Tp. Hồ Chí Minh, 29 tháng chạp, Canh Dần
Chú thích
[1] Thầy được đặt
trước danh từ (chung và riêng) để chỉ người (mà nghề nghiệp
hay vị thế xã hội) được kính trọng.
[2] P.J.B. Nguyễn Trọng
Quản, Thầy Lazaro Phiền, 1887, in lại trong Cao Xuân
Mỹ&Mai Quốc Liên (chủ biên), Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế
kỷ 20, 1999, T. I, tr. 14-36.
[3] Hồ Biểu Chánh, Khóc
thầm, xb. lần đầu 1929. Tất cả tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh đều có thể tham khảo trên
www.hobieuchanh.com. Xin cám ơn anh Trang Quan Sen và
nhóm bạn đã tạo ra và nuôi dưỡng trang nầy, với ý thức bảo
tồn những di sản văn hóa vô giá của dân tộc. Ở Việt Nam, nhà
xuất bản Tổng hợp Tiền Giang đã tái bản một số tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh năm 1988 và sau đó, từ khoảng 2005 trở đi,
các nhà xuất bản khác như Phụ nữ, Văn hóa Sài Gòn đã tái bản
Hồ Biểu Chánh.
[4] Cần nói rõ: gian phu
được mô tả là một tên trí thức lưu manh, bóc lột nông dân
nghèo và người vợ, một người đàn bà chưng diện, lẳng lơ.
[5] Khóc thầm.
Chúng tôi chưa xác định được bản án như vậy có thể xảy ra
trong thực tế đương thời không. Nhưng bình luận của tác giả
cho thấy rất rõ bản án đó hoàn toàn phù hợp với quan điểm
của chính ông; và ông đã tận dụng sự hiểu biết của mình về
luật Gia Long (luôn giảm nhẹ tội khi là người trên phạm tội
đối với người dưới, nhứt là trong trường hợp người dưới vi
phạm lễ giáo nho gia) và luật thực dân, có thể là chỗ đã dạy
ông khái niệm giảm khinh đối với tội ngộ sát.
[6] Vợ chàng Trương một
mình nuôi con trong ba năm chồng đi lính xa nhà. Khi người
chồng về, định ôm con, bị đứa nhỏ đẩy ra và và nói: “Cha
tôi đến tối đỏ đèn mới về.” Chồng gặng hỏi, vợ không trả
lời, lẳng lặng gieo mình xuống sông tự vận. Sau tang lễ,
buổi tối thắp đèn dầu, Trương thấy con khoanh tay cúi đầu
chào cái bóng trên vách là cha, hiểu ra oan tình của vợ thì
đã muộn. Vua Lê Thánh Tông là người đương thời đã làm thơ
Vịnh miếu vợ chàng Trương, kết bằng câu: “Khá trách
chàng Trương khéo hững hờ!”
[7] Tôi rất cảm phục sự
phân tích vừa thấm đẫm thấu cảm nghệ thuật vừa chặt chẽ, sâu
sắc trong tư duy triết học của Gs Nguyễn Đình Chú khi “Nói
thêm về người con gái Nam Xương”, viet-studies 4/8/2010; và
hoàn toàn đồng ý với lý giải về “sự ma quái có thực trong
sự sống vốn là nghiệt ngã của con người muôn nơi muôn
thuở”. Tuy nhiên, cũng không phải không còn gì để nói thêm
về cái tác giả gọi là “lớp giá trị lộ thiên, chỉ khéo khơi
khơi một tí đã thấy”. Đã đành, như tác giả dẫn Kiều: “
“Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”. “Người
ta” đây hẳn là có cả nam lẫn nữ.” và nêu câu hỏi: “Cứ
giả thiết ở một xã hội nào đó, quyền nam nữ bình đẳng đã
đươc thực hiện trăm phần trăm thì đã có thể tin rằng con
người không còn cái máu ghen “thường tình” này nữa
sao?” Chỉ xin lưu ý thêm: dẫu là vì cái ghen của người đàn
ông Trương sinh hay người đàn bà Hoạn Thư thì nạn nhân đau
khổ nhứt vẫn là giai nhân bạc mệnh Thúy Kiều hay người con
gái Nam Xương, chớ không phải bậc trượng phu nào cả. Bất
bình đẳng giới không phải chỉ có trong suy nghĩ nông cạn của
đàn bà hay người binh vực nữ quyền. Nó có thật, thật đến nỗi
chính tác giả Nguyễn Đình Chú cũng kết luận: “Người con
gái Nam xương đã cho người đọc thấy thế nào là cái mong
manh vô cùng mong manh của hạnh phúc đàn bà muôn nơi
muôn thuở.” Dẫu vua Lê, nhà vua thời Tống nho cực thịnh, có
trách chàng Trương, dẫu chàng có “tỉnh ngộ thấu nỗi oan của
vợ” thì chàng vẫn sống bình yên cùng công luận, với luật
vua phép nước và cả với lương tri mình. Một chút cảm thương,
hối tiếc muộn mằn; không phải ý thức mình phạm tội sát nhân.
Bởi vậy, nỗi ân hận đến mức không sống nổi của thầy Phiền
mới là sự xao xuyến lần đầu mới mẻ khuấy động một trật tự,
quả là tôn ti, có trên có dưới.
[8] Chỉ duy nhứt một tác
giả văn học sử cung cấp tóm lược cốt truyện và bình luận.
Xem Bùi Đức Tịnh, Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết
và thơ mới (1865-1932), tb. lần 2, Nxb Tp. Hồ Chí Minh,
2002, tr. 189-193. Tác giả cho biết: “Trên bìa tác phẩm
xuất bản năm 1918 (nhà in Imprimerie de l’Union, Sài Gòn) có
ghi: Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh chiết thảo, Long Xuyên, quý
đông 1913.”
[9] Bản dịch thứ hai, được
biết nhiều nhứt (nhưng bị ngộ nhận là bản đầu tiên) của Phạm
Quỳnh ở Hà Nội, đăng các số 38 và 39 tạp chí Nam Phong,
tháng 8-9 năm 1920; và bản thứ ba của Ưng Bình Thúc Giạ Thị
xb. lần đầu ở Huế năm 1936.
[10]
Tất cả nhân vật được đặt tên Việt và đưa vào bối cảnh hoàn
toàn Việt. Trong toàn bộ tác phẩm sau nầy, Hồ Biểu Chánh tỏ
rõ tài năng phỏng dịch và phóng tác, thích nghi xuất sắc với
thực tế Việt Nam, một thực tế đang chuyển động. Trong nguyên
bản chúng tôi để tên Pháp của nhân vật cho độc giả tiện theo
dõi. Trong bản nầy, xin dùng tên Việt: Rodrigue (Le Cid) là
Thanh Tòng, Chimène là Phan Lệ Bích. Cốt truyện tóm tắt như
sau: Thanh Tuyền có con là Thanh Tòng, đã hứa hôn với nàng
Lệ Bích, con của đồng liêu là Nhị Lôi. Vì sự chọn lựa của
vua, hai bạn đồng liêu tranh tài dẫn tới xung đột; Nhị Lôi
đá Thanh Tuyền “nhào
lăn” (cử chỉ xúc phạm được Việt hóa tài tình từ cái tát
tai trong nguyên tác). Thanh Tòng sau khi phân vân giữa tình
và hiếu (“ít hơn Rodrigue rất xa”, theo nhận xét
tinh tế của Bùi Đức Tịnh) đã mang gươm đi giết cha vợ tương
lai để rửa hờn, rửa nhục cho cha ruột. Lệ Bích, nàng Chimène
Việt, đứng trước thế lưỡng nan bên tình bên hiếu.
[11]
Corneille trong nguyên tác viện dẫn tập tục xứ Maure để
Chimène phải lấy người chiến thắng trong cuộc đấu gươm danh
dự; dùng thêm uy thế quân vương khuyên nhủ Chimène: “Hãy
đình đãi một năm, nếu nàng muốn, để lau khô nước mắt” và
động viên Rodrigue: “Hãy phó thác cho thời gian, lòng quả cảm của
ngươi và quân vương của ngươi”. Bản dịch tiếng Việt các
câu thơ được trích dẫn là của Bùi Đức Tịnh, sđd., tr. 191.
[12] Phần in lùi vào là
tóm lược nội dung tác phẩm.
[13] Hồ Biểu Chánh, Ai
làm được, soạn xong năm 1912, xb. lần đầu 1922.
[14] Cha nàng là viên chức
đầu tỉnh, thời đó gọi là quan Phủ. Người ta coi công chức
trung cao cấp của chánh quyền thuộc địa như quan, cũng ít
nhiều có cơ sở, vì trong những năm 1920 nhiều viên chức (kể
cả cấp cơ sở) xuất thân cựu học và vẫn trung thành với khuôn
mẫu cũ về mặt trị dân cũng như về luân lý trong hành xử
riêng.
[15] Cảnh đánh đòn được
trích dịch ở Phụ lục của bản tiếng Pháp, để minh chứng cho
một cách cư xử phổ biến thời đó và, đáng buồn là vẫn còn tồn
tại tận ngày nay.
[16] Tên nầy không hợp lý
lắm vào thời đó, đối với gia cảnh được mô tả là bần hàn của
nhân vật; nhưng Hồ Biểu Chánh rất thích thể hiện tánh cách
nhân vật ngay trong tên của họ.
[17] Thời đó và cả ngày
nay, đây vẫn thường là cách hành xử của cha mẹ nuôi khi trẻ
mồ côi trở thành gánh nặng, nhứt là khi người con gái lớn
lên, như nhân vật trong tiểu thuyết, từ chối không chịu bị
“bán” dưới hình thức nầy hay hình thức khác, để bù đắp chi
phí người ta từng nuôi mình.
[18] Ai làm được.
Chữ in đứng là phần tóm tắt của chúng tôi, in nghiêng là
trích dẫn từ Hồ Biểu Chánh.
[19] Bùi Đức Tịnh,
Những bước đầu của báo chí…, tr. 189. Theo tác giả, Hồ
Biểu Chánh ký truyện thơ nầy bằng tên thật Hồ Văn Trung, kèm
bút danh Biểu Chánh, có nghĩa “tỏ rõ sự ngay đúng”. Tên khai
sanh của ông, Trung có nghĩa “trung thành (với vua, với
chủ)” là tên rất thường dùng đặt cho con trai.
[20] Chúng tôi cám ơn Gs
John C. Schafer đã nhiệt tình gởi tặng bài viết của ông và
bản photocopy tiểu thuyết Ai làm được in năm 1912.
John C. Schafer là tác giả bài “The Novel Emerges in
Cochinchina”, viết chung với Thế Uyên, The Journal of
Asian Studies 52, n° 4 (11/1993), tr. 854-884 và bản
dịch tiếng Việt của Cao Thị Như Quỳnh, “Tiểu thuyết xuất
hiện tại Nam kỳ”, Hợp Lưu, 10&11/1994, tr. 17-38.
Bản dịch nầy có thể tham khảo trên trang
www.hobieuchanh.com.
[21]
Trong chương I của luận án, chúng tôi đã “đọc lại” Đồ Chiểu
và phân tích nhân vật nữ của ông, tóm lược như sau: Trong
lúc Vân Tiên tuân thủ nghiêm nhặt nguyên tắc bất tương thân,
Nguyệt Nga chủ động rút trâm cài tóc tặng chàng, cử chỉ
tương đương lời tỏ tình mà Vân Tiên không dám nhận. Nguyệt
Nga nài thêm bằng cách “dâng một bài thơ tạ từ”. Sự bộc lộ văn tài có
hiệu lực hơn cử chỉ dâng trâm “thường tình nhi nữ”. Vậy là
đối với Vân Tiên, chỉ qua thơ xướng họa Nguyệt Nga tự coi
như đã nặng lời hẹn ước. Về nhà nàng họa hình, tạc tượng Vân
Tiên, đêm ngày ngắm nghía và từ chối nhiều lời cầu hôn môn
đăng hộ đối hơn, vì đó là thế gia vọng tộc như gia đình
nàng, trong lúc Vân Tiên chỉ là học trò khó. Nàng không ngần
ngại đương đầu cả với nhà vua khi vua ban lịnh cống nạp nàng
vì mục đích chánh trị ngoại giao. Trái lịnh vua, từ chối
nhiệm vụ vì đất nước – cô hầu gái Kim Liên thay nàng hy sinh
nhận nhiệm vụ và sẽ được ban thưởng ở kết cuộc vì Vân Tiên
sẽ cưới cô làm thứ thiếp – để chung thủy với một tình yêu mà
đôi trai gái đã tự ý thề nguyền hẹn ước trước khi gia đình
hai bên biết nhau, hành xử của cô gái Nguyệt Nga nức tiếng
nết na là vậy đó. Vậy mà hình tượng đó đã được cả nhà
nho và công chúng bình dân Nam bộ tán thưởng suốt nhiều thế
hệ, với sự đồng thuận tuyệt đối; không như nàng Kiều của
Nguyễn Du – dẫu tác giả được tôn phục thi bá, văn hào – vẫn
chỉ được yêu quý, cảm thông bởi những nhà nho tài tử “vốn
nòi tình, thương người đồng điệu”, còn thì không khỏi bị
một số nhà nho “chính thống” chỉ trích, mỉa mai, dè bỉu,
thậm chí mắng nhiếc: “Bạc mệnh chẳng lầm người tiết
nghĩa, Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm!” Nho giáo ở
Gia Định quả có sắc thái riêng.
[22] Đôi chối:
examiner, discuter (xem xét, tranh luận), Gustave Hue,
Tự điển Việt-Hoa-Pháp, tb. Khai Trí, Sài Gòn, 1971,
tr. 284. Đôi chối: phân phải trái, Bùi Đức Tịnh,
Từ điển tiếng Việt, Văn hóa thông tin, 2002, tr. 263.
[23] Văn xuôi Nam bộ…,
sđd, t. 1, tr. 16.
[24] Dẫn theo Nguyễn Văn
Trung, “Về các loại truyện viết bằng quốc ngữ vào cuối thế
kỷ XIX-đầu thế kỷ XX ở Việt Nam”, Văn xuôi Nam bộ…,
sđd, T. 1, tr. 670-694.
Bùi Trân Phượng
© Thời Đại Mới