Nước
ta có 83 triệu người, đứng thứ 13 trong 200 nước trên thế giới (nếu kể
cả Việt kiều là 87 triệu người). Theo tài liệu của CIA (www.cia.gov) thì
vào tháng 7.2006 dự kiến dân số nước ta là 84.403.000 người!...
Như vậy chắc chắn không phải là nước nhỏ.
Chúng ta có một lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đã đánh
bại chiến tranh xâm lược của hầu hết các cường quốc trên thế giới. Chắc chắn không phải là nước yếu.
Thế hệ trẻ Việt Nam vứt vào môi trường đại học nào ở nước ngoài đều học
giỏi và rất nhiều người gốc Việt đang giữ các trọng trách tại các trung
tâm khoa học và công nghệ tiên tiến ở các nước phát triển. Chắc chắn trí tuệ dân mình chẳng chịu thua ai khi có điều kiện phát huy!.
Nhưng,
chúng ta hiện vẫn là nước nghèo và kém phát triển so với rất nhiều nước
trên thế giới: GDP bình quân đầu người chỉ được có khoảng 640 USD (!).
Mỗi năm hiện nay bình quân còn phải trả nợ 2 tỷ USD và càng ngày càng
nhiều hơn nữa (!).
Do điều kiện công tác tôi có nhiều dịp sang Nhật Bản và lần nào tôi cũng không thể không tự hỏi: Vì sao nước Nhật có thể phát triển nhanh đến như vậy?
Nước Nhật rộng gần 378.000km2, không hơn ta bao nhiêu (Việt Nam: gần 330.000km2)
nhưng Nhật Bản có khoảng 6.800 hòn đảo, trong đó chỉ có 5 đảo lớn, hơn
nữa có tới 67% lãnh thổ là...núi! Đất trồng trọt thường xuyên chỉ chiếm
0,9% diện tích (!). Tỷ lệ này ở nước ta là 6,93%. Chúng ta không nghèo vì đất.
Nước
Nhật có tới khoảng 80 núi lửa hoạt động (10% tổng số núi lửa hoạt động
trên thế giới ). Nhật lại là nước có cấu tạo địa tầng không ổn định nên
rất hay động đất. Các trận động đất lớn là: năm 1923 làm khoảng 90.000
người chết và 100.000 người bị thương, năm 1995
làm chết 6.000 người và 40.000 người bị thương... Trung bình mỗi năm
Nhật có 4 cơn bão đổ vào và có lần sóng thần đổ vào Okushiri đã làm cho
230 người chết và bị thương. Ta không có những hoàn cảnh khó khăn như vậy.
Chữ
Nhật khó đọc và khó học vì bên cạnh chữ phiên âm lại còn có tới 5 vạn
chữ Hán (Kanji) viết nguyên dạng, mỗi người dân tối thiểu cũng phải
thuộc 1.945 chữ Hán. Lại còn chữ mềm (Hiragana) dùng để ghép âm tiếng
Nhật, chữ cứng (Katakana) dùng để phiên âm tiếng nước ngoài. Chữ Quốc ngữ của ta đâu có khó như thế, người dân chỉ cần học 3 tháng đã đủ thoát nạn mù chữ!
Nước Nhật là
một quốc gia đất chật, người đông và hầu như có rất ít tài nguyên thiên
nhiên. Dân số Nhật Bản là 127.460.000 người (2006), đứng hàng thứ 7
trên thế giới, vậy mà vì diện tích nhỏ bé, lại nhiều núi non cho nên tuy
theo lý thuyết bình quân mật độ dân cư 335 người/km2 nhưng
trong thực tế các khu dân cư có mật độ dân số rất cao. Người Nhật phải
dành một nguồn ngoại tệ rất lớn (năm 2005 là 451,1 tỷ USD FOB) để nhập
khẩu nhiên liệu, kim loại, lương thực, thực phẩm... Nước ta có mật độ
dân cư thấp hơn nhiều, là nước đứng thứ hai về xuất khẩu gạo, đứng thứ
bậc cao trong xuất khẩu hải sản và nhiều sản phẩm cây công nghiệp (cà
phê, điều, tiêu, cao su...), có nguồn dầu thô, khí thiên nhiên cùng
nhiều khoáng sản quý giá khác đang được khai thác và có lượng dự trữ
không nhỏ.
Nước
Nhật phải đối đầu với tình trạng ô nhiễm hết sức nghiêm trọng . Mặc dầu
Bộ luật môi trường công bố năm 1967 đã làm giảm thiểu rõ rệt các bệnh
có nguồn gốc từ các nhà máy (như bệnh hen suyễn do khí thải của công
nghiệp lọc dầu, bệnh mizumata do ô nhiễm thuỷ ngân, bệnh itai - itai do ô nhiễm cadmium...) nhưng đến nay vẫn chưa thể khắc phục được ô
nhiễm từ các đám mây quang hoá, từ thuỷ triều đỏ (do sinh vật phù du
phát triển quá mạnh khi tiếp nhận nhiều N và P trong nước thải) dẫn đến
làm hạn chế sản lượng hải sản, các ô nhiễm do mưa acid gây thiệt hại cho
mùa màng...
Vậy
yếu tố nào giúp Nhật nhanh chóng vươn lên từ đống tro tàn sau thế chiến
II và trở thành nước có nền kinh tế đứng thứ hai thế giới?
Nhiều người Nhật nói với tôi: Nguyên nhân chính là do đạt tới trình độ kỹ thuật cao nhờ trí thông minh và tinh thần lao động cần cù, nghiêm túc. Tôi cũng tin là như vậy.
Trong khi nhiều cường quốc lao vào công cuộc chạy đua vũ trang thì nước Nhật tập trung vào phát triển kinh tế.
Độ độc lập ngoại thương (căn cứ vào tỷ lệ giữa tổng lượng mậu dịch
(xuất nhập khẩu) trên tổng thu nhập quốc gia. Chỉ số này năm 1955 đã đạt
tới 10%, nhưng từ năm 1955 đã tăng lên đến 20% và từ năm 1958 đến nay
luôn giữ được ở mức 22-23%. Không có nước thứ hai nào trên thế giới đạt
đến mức tăng trưởng như vậy. Năm 1960 GNP của Nhật chiếm 2,8% tổng sản
lượng của thế giới, nhưng đến năm 1980 tỷ lệ này đã tăng lên đến 10,1%.
GDP (tính theo PPP) của Nhật năm 2005 là 3.914 tỷ USD, trong khi GDP
(tính theo PPP) của nước ta năm 2005 là 253,2 tỷ USD. Kim ngạch xuất
khẩu của Nhật (FOB) năm 2005 là 550,5 tỷ USD, trong khi của Việt Nam
(FOB) năm 2005 là 32,23 tỷ USD. Con đường công nghiệp hoá của Nhật phản
ảnh rõ nét trong việc thu hẹp lại tỷ lệ nông dân. Nếu như năm
1960 còn có 26,8% dân số thuộc khu vực sản xuất nông nghiệp thì đến năm
1992 tỷ lệ này chỉ còn 5,5%. Diện tích canh tác thu hẹp lại rất nhiều
nhưng nhờ có cải tiến kỹ thuật mà năng suất nông nghiệp lại tăng rất
nhanh. Dù sao thì nước Nhật đã chọn con đường không cần tự túc lương
thực, thực phẩm mà đầu tư vào các ngành công nghiệp, trong đó có
công nghệ sinh học (CNSH). Tôi không chỉ được đến làm việc tại những
trung tâm CNSH cấp quốc gia hết sức hiện đại như NITE, RIKEN... mà còn
vô cùng ngạc nhiên khi tiếp cận các trung tâm CNSH dược phẩm tư nhân với
quy mô đầu tư và hiệu quả còn lớn hơn rất nhiều. Sản phẩm nông nghiệp
dùng làm nguyên liệu để lên men các chủng vi sinh vật mang gen tái tổ
hợp nhằm chế tạo ra dược phẩm thì giá trị tăng lên không hiểu là hàng
nghìn hay hàng vạn lần? Chắc là còn cao hơn rất nhiều.(!)
Có
thể nói, dân chúng Nhật có cuộc sống rất sung túc khi GDP bình quân
tính theo đầu người đã đạt đến 30.700 USD (2005), đứng thứ nhì thế giới.
Tuổi thọ bình quân của người Nhật đứng vào hàng cao nhất thế giới (sau
60 năm mà tuổi thọ bình quân cả nam lẫn nữ đều tăng thêm... 30 tuổi (!).
Tuổi thọ bình quân hiện nay (2006) với nam là 77,96, với nữ là 84,7.
Sự tiến triển vượt bậc về trình độ khoa học và công nghệ không thể tách rời với các thành tựu về giáo dục. Giáo dục bắt buộc với bậc tiểu học (6 năm) và cấp II - gọi là trung học (3
năm). Có thể học tiếp lên cấp III - gọi là cao học (3 năm) hoặc vào
thẳng các trường chuyên nghiệp (5 năm). Gần 100% học sinh Nhật học tiếp
cấp III sau đó nếu muốn chuyển sang trường chuyên nghiệp chỉ cần học
thêm 2 năm. Bậc học sau cấp III là đại học (thường là 4 năm nhưng có
trường chỉ 2 năm), bậc học mà ta gọi là cao học thì Nhật gọi là tu học.
Sau bậc thạc sĩ là bậc tiến sĩ trình độ tương đương đẳng cấp quốc tế.
Còn có các trường dạy nghề (chỉ học 1 năm) và các trường đặc biệt dành
cho người khuyết tật. Ai cũng được học hành nhưng không phải ai cũng đổ
xô vào việc có bằng được mảnh bằng đại học. Có khoảng 48-50% học sinh
cấp III vào học các trường đại học. Số còn lại chuyển sang học nghề và
có tiền đồ cũng rất sáng sủa. Đã thi đỗ vào đại học thì hầu như không có
sinh viên nào không tốt nghiệp. Điều kiện nghiên cứu khoa học của thầy
và trò ở các trường đại học rất tốt.
Sự phát triển của giáo dục và khoa học- công nghệ ở Nhật được phản ánh một phần trên các giải Nobel.
Có thể kể đến các giải Nobel dành cho các nhà khoa học Nhật Bản, như:
Yukawa Hideki (1949),Tomonaga Shin’ichiro (1965), Esaki Reona (1973),
Fukui Ken’Ichi (1981), Tonegawa Susumu (1987), Shirakawwa Hideki (2000),
Noyori Ryozi (2001), Masatosshi Koshiba (2002), Koichii Tonaka (2002).
Trong văn học có Kawabata Yasunari (1968), Oe Kenzaburo (1994). Ngoài ra
còn có Nobel Hòa bình dành cho Thủ tướng Sato Eisaku (1974)...
Người
Nhật chủ yếu làm việc trong các công ty tư nhân vốn có truyền thống
tuyển dụng suốt đời và tạo được tâm lý công ty như là nhà của mình.
Người Nhật nổi tiếng là làm việc nhiều. Tuy Luật lao động quy định mỗi
tuần chỉ làm 5 ngày, mỗi ngày 8 tiếng nhưng giờ lao động ở Nhật thật sự
là những giờ lao động nghiêm túc với kỷ luật rất tự giác.
Quan sát xã hội Nhật Bản, theo tôi điều đáng học là việc tạo điều kiện cho mọi người phát huy được hết năng lực của mình.
Không có chuyện tiền lương không đủ sống nên đầu óc không tập trung hết
mình vào trách nhiệm được giao như chuyện rất phổ biến ở nước ta. Tiền
lương và tiền thưởng vừa theo thâm niên vừa theo năng lực và hiệu quả.
Điều ấy làm cho ai nấy đều thấy cần gắn mình vào với công ty hay đơn vị
công tác và luôn tìm cách để đạt hiệu quả cao nhất trong công việc được
giao. Quản lý tài chính không quá phức tạp. Hầu như mọi thứ cần mua đều
có ở các siêu thị (và các cửa hàng nhỏ phục vụ suốt ngày đêm). Tiêu pha
chủ yếu bằng thẻ tín dụng, mua gì cũng được tính tiền (và thuế) qua máy
tính nên khó có thể gian lận thương mại. Các cửa hàng khác hầu như chỉ
là cửa hàng ăn và may mặc (vì ý thích của mọi người quá đa dạng).
Điều
dễ thấy là lương công chức rất cao vì bộ máy hành chính rất gọn nhẹ.
Một nước phát triển và đông dân như nước Nhật Bản mà chỉ có 9 bộ (!): Bộ
tư pháp, ngoại giao, tài chính, giáo dục - văn hoá - khoa học(!), y tế -
phúc lợi, nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp - thương mại, quốc thổ -
giao thông, môi trường. Ngoài ra Thủ tướng chỉ còn bổ nhiệm thêm Bộ
trưởng tổng vụ, Bộ trưởng ngân hàng, Trưởng ban tổ chức chính phủ, Chủ
tịch uỷ ban công an quốc gia, Tổng tư lệnh cục phòng vệ, Cục trưởng cục
khoa học-kỹ thuật, Cục trưởng cục kinh tế - tài chính, Cục trưởng cục
cải cách hành chính.
Tôi
đã có dịp giao thiệp với người phụ trách lĩnh vực công nghệ sinh học
trong Bộ công nghiệp và thương mại Nhật Bản. Tôi không ngờ ở vị trí quan
trọng như vậy lại là một người còn rất trẻ (và tất nhiên là rất thạo
chuyên môn!). Làm việc với chuyên gia Nhật Bản phải theo một lịch trình
hết sức chính xác về giờ giấc và thường với cường độ khá căng thẳng.
Hiệu quả công việc cao tất yếu phải lĩnh lương cao. Nhiều người cho rằng
nước ta hiện nay có tình trạng không làm việc thật sự nên không có
lương thật sự. Tôi nghĩ rằng muốn có lương thật sự thì phải rà soát lại
từng cương vị và trách nhiệm công tác của mỗi người để không phải gánh
mãi một biên chế quá khổng lồ và rất kém hiệu quả như hiện nay. Nghe nói
ngày xưa ở nước ta bình quân 3.000 người mới có một người ăn cơm vua
(!). Nếu theo tỷ lệ này thì lẽ ra hiện nay số người ăn lương của chính
phủ không được quá 28.000 người (!). Không hiểu số người thuộc biên chế
ăn lương của ngân sách trong cả nước hiện nay là gấp bao nhiêu lần so
với con số này? Số người hưởng lương và phụ cấp ngay ở một xã hiện nay
cũng thường không dưới vài chục người (!), hiện nay cấp thôn cũng đang
đòi hỏi phải có lương hay phụ cấp cho cán bộ. Số tiền cho từng người
thực tế chả đáng là bao, nhưng nếu cộng lại tất cả xã, phường, thôn buôn
thì số tiền lại là hết sức lớn.
Người ta đã tổng kết: Muốn làm giàu trước hết phải làm đường. Giao thông ở Nhật phát triển ở mức độ rất cao
nên đã góp phần rất lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội. Nhật
Bản hiện có 173 sân bay, 23.577km đường sắt (trong đó có 16.519km đường
dành cho xe chạy bằng điện), 1.177.278km đường bộ, đường thuỷ với 683
tàu biển (1000 GRT hay lớn hơn nữa) và rất nhiều tàu nhỏ hơn. Việt Nam
có 23 sân bay nhưng chỉ có 2 sân bay quốc tế, chỉ mới có 2.600km đường
sắt (chưa có đường sắt cao tốc và đường tàu điện ngầm), 215.628km đường
bộ (chưa có đường cao tốc đúng nghĩa).
Chúng ta đã xem phim Oshin
và thấy rõ sau Thế chiến thứ 2 (1945) nền kinh tế Nhật Bản bị tàn phá
kiệt quệ đến mức nào. Vậy mà chỉ đến năm 1954 kinh tế Nhật Bản đã nhanh
chóng phục hồi và sau đó là thời kỳ phát triển cao độ (1955-1973). Từ
1974 đến nay tuy tốc độ phát triển có chậm hơn nhưng mọi mặt kinh tế -
công nghiệp - tài chính - thương mại - dịch vụ - khoa học - kỹ thuật đều
được đánh giá là ở mức thứ nhì thế giới (chỉ sau Hoa Kỳ) và với dự trữ
ngoại tệ đứng hàng đầu thế giới.
Ngày
xưa Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã chủ trương phong trào Đông Du -
hướng tới Nhật Bản để học hỏi kinh nghiệm. Ngày nay với xu thế hội nhập
thế giới lẽ nào chúng ta không bình tĩnh và khiêm tốn nhìn lại những bài
học kinh nghiệm mà Nhật Bản đã thu được trong 60 năm qua. Với nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú hơn, với điều kiện địa lý ít thiên tai bất
khả kháng (núi lửa, động đất), với bản chất của một dân tộc không thua
kém gì về trí tuệ, về tính cần cù lao động và chịu thương, chịu khó...
chúng ta lẽ nào không thể không có được những bước tiến nhảy vọt nếu như
chúng ta biết đi ngay vào các mũi nhọn của khoa học và công nghệ, biết
thực hiện cải cách hành chính để phát huy cao nhất tiềm lực của thiên
nhiên và năng lực của toàn dân tộc?
Nên chăng cần có một cuộc thảo luận hết sức dân chủ và thẳng thắn: Chúng ta thua kém Nhật Bản ở những mặt nào và vì lý do gì?
GS.TS. Nguyễn Lân Dũng (Theo Kiến Thức Ngày Nay 569)