C.Mác và F.Ăng ghen, hai tác giả của "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản" |
Thực
tế cho thấy, các xu hướng tinh thần khác nhau, các mục tiêu chính trị
kinh tế khác nhau, các lợi ích chồng chéo lên nhau, các bản sắc và xu
thế văn hóa khác nhau, và cả các tham vọng khác nhau nữa, đã làm cho thế
giới đang tồn tại trong tính đa dạng, vừa làm cho đời sống và các mối
quan hệ nhân loại trở nên phong phú, lại vừa có thể đẩy một số quan hệ
rơi vào tình trạng căng thẳng. Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ mỗi quốc
gia, và mỗi nhóm quốc gia, đều đã và đang lựa chọn con đường đi riêng
của mình. Những sự lựa chọn ấy có thể thành công hay thất bại. Nó thật
phong phú và đa dạng. Nó phá vỡ những sự áp đặt tinh thần. Ở chừng mực
nào đó, thể hiện cuộc đấu tranh về tư tưởng lý luận đang diễn ra rất
phức tạp và quyết liệt.
Bối
cảnh đó là hệ quả tất yếu của quá trình chuyển dịch các lĩnh vực của
cuộc sống nhân loại trong quan hệ biện chứng với các vấn đề thời đại.
Nếu xu thế chung của thời đại ngày nay là: Toàn cầu hoá; hoà bình, ổn
định cùng phát triển; gia tăng xu hướng liên kết và hợp tác giữa các
quốc gia; các dân tộc ngày càng nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự
cường. Các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) còn lại, các đảng cộng sản và
công nhân kiên trì đấu tranh vì hoà bình tiến bộ và phát triển. Các nước
có chế độ chính trị khác nhau vừa hợp tác, vừa đấu tranh cùng tồn tại
trong hoà bình, thì các đặc điểm của thời đại ngày nay là: Cuộc đấu
tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn ra gay gắt trên phạm vi thế giới;
cách mạng khoa học và công nghệ đang đưa tới nhiều thay đổi to lớn trên
bình diện toàn cầu; các vấn đề toàn cầu đòi hỏi sự hợp tác giải quyết
của mọi quốc gia. Từ bối cảnh đa dạng nhưng phức tạp quan hệ quốc tế
nhân loại - giai cấp, trong đó nổi lên và xuyên suốt là tình trạng đối
lập về lợi ích chính trị, kinh tế, chúng tôi cho rằng các mâu thuẫn lớn
trong thời đại ngày nay là mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB giữa giai cấp tư
sản và giai cấp công nhân, giữa tư bản và lao động; giữa các dân tộc
thuộc địa, phụ thuộc và kém phát triển với chủ nghĩa đế quốc; giữa chính
các nước tư bản chủ nghĩa.
CNXH
là tất yếu khách quan của sự phát triển nhân loại, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người. Con người chỉ có thể tác động tích cực đến
quá trình đó khi đã xác lập được sự tự ý thức về mục tiêu cần phấn đấu
đạt tới. Từ khi có những phát hiện thiên tài của C Mác, Ph.Ăng ghen ra
đời đến nay, lịch sử loài người đã trải qua rất nhiều thăng trầm, tư
tưởng XHCN nhiều lần phải đứng trước thử thách tưởng chừng không thể
vượt qua. Sự sụp đổ của mô hình XHCN ở Liên-Xô và các nước Đông Âu là
bài học đau đớn, thiết thân đối với phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Từ nhận thức, hành động không phù hợp với các quy luật khách
quan, không nhìn nhận tư tưởng lý luận của CNXH là một hệ thống mở và
năng động, không chú trọng phát hiện đánh giá, tổng kết có tính lý luận
đối với sự vận động của thực tiễn, các đảng cộng sản ở Liên Xô và Đông
Âu đã làm tiêu tan sự nghiệp phải mất bao nhiêu công sức, trí tuệ và cả
xương máu mới có được.
Xét
về lịch sử, không phải tới hôm nay, cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận
giữa CNTB và CNXH mới diễn ra, mà từ hàng trăm năm trước, ngay từ khi tư
tưởng lý luận của CNXH ra đời, nó đã lập tức phải đương đầu với sự phê
phán, phủ nhận, bôi nhọ, xuyên tạc dưới nhiều hình thức khác nhau. Bất
chấp mọi trở ngại, tính chất cách mạng và khách quan khoa học trong tư
tưởng lý luận cùng với lý tưởng cao cả mà CNXH hướng tới đã thu hút, lan
tỏa khắp năm châu, trở thành động lực tinh thần của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh cho một xã hội công bằng, dân
chủ, cho một cuộc sống ngày càng tốt đẹp. Điều này trở thành mối đe dọa
đối với sự tồn vong của tư tưởng và xã hội tư sản. Người ta chống lại
CNXH với vô vàn thủ đoạn, từ chủ động gây chiến tranh nóng tới xuyên
tạc, vu cáo, thậm chí là "gán" trách nhiệm cho những người cộng sản về
một số sự kiện xảy ra trên thế giới, ở một số quốc gia... Cũng xét về
lịch sử, cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận giữa CNTB và CNXH đã có nhiều
biến động ở những thời kỳ khác nhau. Nếu trước Cách mạng Tháng Mười các
vấn đề trừu tượng trong hệ thống triết học của C Mác, Ph.Ăng ghen và của
chủ nghĩa duy vật lịch sử là trọng điểm của cuộc đấu tranh, thì sau
Cách mạng Tháng Mười, các nội dung này lại gắn với những vấn đề của thực
tiễn cách mạng, với CNXH hiện thực, với các vấn đề lý luận liên quan
tới sứ mệnh, vai trò của giai cấp công nhân, của các đảng cộng sản...
Trong cuộc đấu tranh đó, một mặt, các lý luận gia tư sản tiếp tục xuyên
tạc nhằm tấn công vào tư tưởng lý luận của CNXH, triệt để lợi dụng các
hạn chế và sai lầm ở Liên bang Xô-viết, sau này là hệ thống các nước
XHCN, lấy dễ làm bằng chứng chứng minh "tính không tưởng của CNXH",
xuyên tạc bản chất nhân văn trong tư tưởng lý luận của CNXH, bóp méo
hoặc hạ thấp các thành tựu đạt được ở Liên-Xô và các nước XHCN... Mặt
khác, các lý luận gia tư sản ra sức tâng bốc, tô vẽ các chỉ số kinh
tế-xã hội mà CNTB có được sau khi cố gắng tự điều chỉnh và tận dụng
thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ. Đặc biệt, khác với giai
đoạn trước, các thủ đoạn đó được thực hiện thông qua một khối lượng hàng
hóa tiêu dùng khổng lồ và hệ thống truyền thông khống chế trên phạm vi
toàn cầu. Ngày nay, không ai có thể phủ nhận một thực tế là hàng hóa và
phương tiện truyền thông đã phát huy lợi thế của chúng khi tác động tới
một bộ phận lớn nhân loại gây nên các diễn biến trong đời sống tinh thần
của xã hội dẫn dắt nhiều người đi từ hoang mang đến hồ nghi, suy giảm
niềm tin vào tư tưởng lý luận của CNXH. Nhìn ngược thời gian, không khó
để nhận thấy tình trạng trên manh nha từ thời kỳ nền kinh tế TBCN bành
trướng trên thế giới. Nếu nhìn nhận hàng hóa chỉ thuần túy là sản phẩm
vật chất sẽ không thấy điều này. Nếu nhìn nhận hàng hóa như một phức hợp
các giá trị vật chất và tinh thần, lối sống thì sẽ thấy "cái tinh thần"
mà hàng hóa mang tải có sức mạnh như thế nào.
Hơn
một thế kỷ kể từ khi ra đời, chủ nghĩa thực dụng (pragmatism), chủ
nghĩa thực chứng (positivism) với những biến thể của nó, đã được truyền
bá và thực hành hầu như trên khắp thế giới thông qua quan niệm sơ giản
nhất của hai lý thuyết này là thực dụng và thực chứng. Dù lý thuyết và
tác phẩm của từ C. Peirce đến G. Santayana, từ A. Comte đến A.J. Ayer...
chưa được phổ biến một cách hệ thống hoặc chưa được xuất bản trên toàn
cầu, thì tinh thần thực dụng và thực chứng tiềm tàng trong hàng hóa và
phương tiện truyền thông, được CNTB triệt để huy động và sử dụng trong
cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận với CNXH. Điều này đã làm cho cuộc đấu
tranh tư tưởng lý luận giữa CNTB với CNXH trong bối cảnh thế giới ngày
nay đã mang tính chất tổng hợp diễn biến trên một biên độ rất rộng không
thuần túy là các vấn đề lý thuyết, các luận giải logich lịch sử tranh
luận về các sự kiện xã hội - con người mới nảy sinh... mà còn là vấn đề
của chính cuộc sống; đặc biệt là cuộc sống ở các nước XHCN - nơi con
người sống suy nghĩ và hành động theo những chuẩn mực mà xã hội XHCN lựa
chọn và hướng tới.
Cùng
với thời gian, qua sự lan toả trên phạm vi rộng và cường độ cao, thực
dụng và thực chứng đã tác động mạnh mẽ tới cảm quan hiện thực của rất
đông người, kích thích họ chạy theo xu hướng thoả mãn nhu cầu một cách
nhanh chóng, trực tiếp, hơn là suy tư một cách sâu sắc về những vấn đề
tương lai của xã hội loài người, của đất nước, thậm chí của chính bản
thân mỗi người. Khi con người lựa chọn một lối sống, một kiểu sống, cũng
tức là đã lựa chọn một hệ giá trị có tính định hướng. Mà chúng ta đều
biết, hệ giá trị có ý nghĩa định hướng lối sống, kiểu sống không chỉ là
sản phẩm văn hoá-văn minh, mà trực tiếp liên quan đến hệ tư tưởng lý
luận đang thống trị và chi phối xã hội. Bởi, là kết quả tất yếu của quá
trình xã hội, hệ tư tưởng lý luận đang thống trị và chi phối xã hội bao
giờ cũng xây dựng hệ thống các tiêu chí, phác vẽ diện mạo mô hình con
người lý tưởng đồng thời vừa yêu cầu vừa tạo điều kiện để xã hội phấn
đấu đạt tới. Từ bản chất của nó, cả về lý luận và thực tiễn, lối sống và
kiểu sống "thực dụng, thực chứng" không phải là mục tiêu của CNXH. Tuy
nhiên, khi lối sống và kiểu sống "thực dụng và thực chứng" lan tràn
trong lòng xã hội XHCN, con người dễ tiếp nhận các quan điểm "phi giai
cấp", "phi ý thức hệ"mà hệ thống truyền thông tư sản reo rắc, trở thành
nhân tố đối đầu với các giá trị của CNXH. Người chọn lối sống và kiểu
sống "thực dụng, thực chứng" rất dễ quay lưng trước những biến cố hệ
trọng của xã hội; và sự sa sút băng hoại đời sống tinh thần của chế độ
XHCN cũng từ đó mà ra. Còn với những xã hội không hoặc chưa lựa chọn con
đường XHCN, người có lối sống, kiểu sống "thực dụng, thực chứng" hoặc
từ ảnh hưởng của bộ máy truyền thông tư sản trở nên hoài nghi, phủ nhận
giá trị và mục tiêu của CNXH, hoặc lấy tiêu chí trực tiếp, cụ thể, có
thực nghiệm làm thước đo, từ đó khước từ tư tưởng lý luận của CNXH. Do
vậy, dù trực tiếp hay gián tiếp, bất luận trong hoàn cảnh nào, khi con
người trong xã hội lựa chọn lối sống, kiểu sống "thực dụng và thực
chứng" thì tư tưởng lý luận của CNTB vẫn có đất sống, khiến cuộc đấu
tranh tư tưởng lý luận của CNTB với tư tưởng lý luận của CNTB càng thêm
phức tạp. Thực tế cho thấy, các lý luận gia tư sản thường tập trung vào
khai thác vấn đề này. Họ triệt để tận dụng vai trò yếu tố trực giác
trong sự tiếp nhận của con người để truyền bá tư tưởng lý luận của họ.
Trong
thời đại ngày nay, tính chuyên sâu của các bộ môn khoa học hầu như đã
hạn chế phạm vi nghiên cứu có tính phổ quát, trừu tượng về quy luật vận
động phát triển xã hội - con người. Dường như các suy tư có tính triết
học ngày càng trở nên hiếm hoi trong một thế giới mà ở đó, nhiều khi con
người suy nghĩ một cách thực dụng về cái bất biến hơn là suy nghĩ về
cái khả biến.
Từ
việc phân tích, khái quát lịch sử để trừu tượng hoá tìm ra quy luật và
động lực cho sự phát triển xã hội, C.Mác, Ph.Ăngghen đã xác định các
phương diện cơ bản nhất, có tính lý thuyết, về xã hội tương lai, xã hội
XHCN. V.I.Lênin và nhiều thế hệ những người cộng sản đã kế tục sự nghiệp
của các ông, cố gắng hiện thực hoá lý thuyết đó ở nước Nga và nhiều
nước khác. Tuy nhiên, trước các biến số kinh tế - chính trị mới của lịch
sử, lẽ ra cần tiếp tục khái quát và đánh giá, bổ sung và phát triển tư
tưởng lý luận của CNXH thì trên thực tế công việc này chưa được chú
trọng đúng mức. Từ sau C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đến nay, trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế chưa có những nhà nghiên cứu
tầm cỡ lớn, có uy tín, tập trung công sức, trí tuệ để nghiên cứu CNTB
trong các chuyển dịch để thích nghi với thời đại. Hơn nữa, dường như
chưa phân tích một cách hệ thống về vấn đề CNTB đã tiếp nhận sử dụng các
nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật, đã tham chiếu
học thuyết kinh tế - chính trị và các luận giải có tính phê phán của
C.Mác, Ph.Ăgghen và V.I.Lênin đối với CNTB, từ đó tự điều chỉnh như thế
nào. Không phải ngẫu nhiên trong cuộc thăm dò ý kiến của BBC năm 2005
với câu hỏi "Ai là nhà triết học vĩ đại nhất của mọi thời đại?" thì
C.Mác vẫn được xác định là người đứng đầu. Càng không ngẫu nhiên, trong
cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua, ở các nước phương Tây người ta càng
bàn nhiều tới "sự trở lại của C.Mác".
Triển
khai các nghiên cứu trên đây, một mặt giúp "định ra đúng đắn sách lược
của chúng ta"; một mặt giúp vạch trần tình trạng gian lận lý luận của
những người vừa phê phán vừa phủ nhận chủ nghĩa Mác, lại vừa lợi dụng
thành tựu của chủ nghĩa Mác để duy trì sự tồn tại.
Từ
những năm 90 của thế kỷ trước, Liên-Xô và các nước XHCN Đông Âu không
còn tồn tại trên bản đồ chính trị thế giới, đó là một tổn thất to lớn,
đồng thời là bài học xương máu cho phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế trên con đường gian khổ đi tới xây dựng xã hội mới. Sự kiện này
nhanh chóng bị các tác giả của CNTB lợi dụng. Họ cố tình xuyên tạc; tảng
lờ những thủ đoạn thâm độc kéo dài suốt nhiều năm, tiến công bằng mọi
phương tiện để làm tan rã xã hội Liên-Xô và các nước Đông Âu. Họ cố tình
đánh tráo khái niệm, biến sự sụp đổ của một mô hình thành sự sụp đổ của
CNXH. Tuy nhiên, sự sụp đổ của Liên-Xô và các nước XHCN Đông Âu là sự
cảnh tỉnh để các nước XHCN còn lại tự điều chỉnh, vạch ra chiến lược
phát triển vừa phù hợp với điều kiện của mình, phù hợp với bối cảnh
chung của thế giới.
Sự
nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xưởng và tổ chức, lãnh
đạo, đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, mức sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, vị
thế của Việt Nam ngày càng được khẳng định. Song chính trong thời kỳ
này, các thế lực thù địch với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, được
sự tiếp sức của những kẻ đối nghịch với CNXH, hằng ngày, hằng giờ, với
nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt, với nhiều loại phương tiện khác nhau,
tập trung chống phá. Vì thế, cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận ở Việt Nam
được triển khai trên hai bình diện:
(1)
Nghiên cứu, bổ sung, phát triển, cung cấp hệ thống lý luận, cung cấp
luận cứ khoa học về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, về
con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, tạo ra sức đề kháng trong toàn xã hội
trước các luận điểm xuyên tạc, vu cáo, kích động của các thế lực thù
địch.
(2)
Phản bác một cách thường xuyên, hiệu quả những quan điểm sai trái,
xuyên tạc đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh
phức tạp, khó khăn, lâu dài, vừa mang tính chiến đấu, vừa phải có sức
thuyết phục và phải huy động được sức mạnh tổng hợp của đất nước. Vì
thế, đây là cuộc đấu tranh của toàn Đảng, toàn dân, của mọi người Việt
Nam yêu nước... Trên ý nghĩa nhất định, có thể coi đây là cuộc đấu tranh
toàn diện trong bối cảnh mới. Cùng với cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định việc phát huy nội lực, mở rộng quan hệ
hợp tác kinh tế, văn hóa với thế giới để xây dựng một nước Việt Nam phát
triển bền vững là câu trả lời đích đáng nhất, là cơ sở chính trị-kinh
tế, xã hội-văn hóa bảo đảm thắng lợi của cuộc đấu tranh tư tưởng lý
luận.
Thực
tế cách mạng Việt Nam trong các năm qua cho thấy, sự lựa chọn chính xác
con đường phát triển của đất nước với đường lối, sách lược đúng đắn,
linh hoạt và sáng tạo, những thành tựu đạt được trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc đã chứng tỏ bản lĩnh, trí tuệ của Đảng, Nhà nước và
nhân dân Việt Nam đủ sức chiến thắng trong cuộc đấu tranh tư tưởng lý
luận với các thế lực thù địch.
Bối
cảnh thế giới ngày nay cùng các biến số chính trị, kinh tế đặc thù của
nó làm cho cuộc đấu tranh giữa CNXH và CNTB tiếp tục diễn biến phức tạp.
CNXH là xu thế tất yếu của thời đại, nhưng xu thế ấy chỉ có thể trở
thành hiện thực khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế
giới đoàn kết, tập trung trí tuệ để tiếp tục kế thừa sáng tạo và không
ngừng phát triển tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa biến tư
tưởng lý luận đó thành lực lượng vật chất để xây dựng và bảo vệ xã hội
mới, vừa sử dụng tư tưởng lý luận đó như công cụ sắc bén trong cuộc đấu
tranh quyết liệt với tư tưởng lý luận của giai cấp tư sản.
http://www.xaydungdang.org.vn/Home/Lyluan-Thuctien-Kinhnghiem/2011/3324/Cuoc-dau-tranh-tu-tuong-ly-luan-giua-CNTB-va-CNXH-trong.aspx