Bạn đã nhìn thấy gì trong bức ảnh này? Nguồn ảnh: tại đây |
Bạn hãy dành khoảng 1 phút và nhìn vào bức hình trên.
Bạn đã thấy gì trong đó?
Có người sẽ nói rằng đó là một phụ nữ trẻ tuổi, có người phản đối nói rằng không, đó là một bà cụ.
Qua tranh luận, người ta mới phát hiện ra rằng thực
chất đây là hình vẽ có tính mô phỏng, nhìn kĩ bạn sẽ thấy "cằm của người phụ nữ trẻ tuổi trong một góc nhìn khác đồng thời là mũi của một
bà cụ".
Nữ văn sĩ người Pháp Anais Nin đã nói rằng: “chúng ta không nhìn mọi vật như chúng vốn có, chúng ta thường nhìn mọi vật theo cách chúng ta là ai” ("We don't see things as they are, we see things as we are").
Cùng là một con bò. Một cậu bé sinh ra ở quê, quen với đồng ruộng nghĩ ngay đến "sức kéo". Một cậu bé sinh ra ở thành phố hay được bố cho đi ăn nhà hàng sẽ nghĩ ngay rằng: "À, con bò này mà làm món bò bít tết thì ngon tuyệt". Một cậu bé sinh ra trong gia đình làm kinh doanh sẽ nghĩ rằng: "Con bò này ít cũng phải hai chục triệu".
Trên thực tế luôn tồn tại ba điều được coi là “sự thật”:
1. có sự thật của bạn,
3. có sự thật của khoa học
Vấn đề chẳng qua là bạn là ai, đang đứng ở đâu để tiếp cận vấn đề mà thôi.
Tôi nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ tìm ra được cái thứ ba, cái mà tôi tạm gọi là “sự thật của khoa học”, nếu như bạn cho rằng chỉ có duy nhất một sự thật đó là sự thật là của bạn hoặc tôi cũng cho rằng chỉ có duy nhất một sự thật là sự thật của tôi.
Chúng ta chỉ tìm ra "sự thật của khoa học" khi có sự tôn trọng quan điểm lẫn nhau và suy xét vấn đề một cách toàn diện. Tôn trọng mọi quan điểm kể cả đó là những quan điểm khác biệt, cũng chính là đang tôn trọng quyền tự do ngôn luận.
Tại sao chúng ta lại cần phải có tự do ngôn luận? Vì thiếu tự do ngôn luận thì cũng không có sự xuất hiện đa dạng các quan điểm, và nếu như không có sự đa dạng các quan điểm, khoa học khi ấy sẽ rơi vào bế tắc.
Cách đây hơn ba thế kỷ quyền tự do ngôn luận[1] - một trong những quyền con người có giá trị nhất của nhân loại đã được chính thức ghi nhận tại Điều 11 Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp: „Việc tự do thể hiện ý tưởng và quan điểm là một trong những quyền con người có giá trị nhất; mỗi một công dân có thể tự do nói, viết và thể hiện quan điểm, miễn sao có trách nhiệm không lạm dụng quyền tự do này vào những trường hợp cụ thể mà pháp luật đã qui định.“[2]
Trên phương diện luật pháp quốc tế, năm 1948 quyền tự do ngôn luận đã được qui định ở Điều 19 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền : „Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do bảo lưu các ý kiến mà không chịu sự can thiệp nào và bao gồm cả việc được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông phi biên giới.“ [3]
Ở Cộng hòa liên bang Đức, Tòa án Hiến pháp liên bang Đức cũng đã khẳng định ý nghĩa của quyền tự do ngôn luận: „Quyền tự do ngôn luận là sự thể hiện trực tiếp nhất yếu tố cá nhân con người trong một xã hội đặt quyền con người lên vị trí tối thượng. Quyền này được thiết lập vì một trật tự nhà nước tự do dân chủ"[4]; „Trong một nhà nước dân chủ thì một ý kiến cho dù có trái với những ý kiến được nhiều người thừa nhận từ trước thì ý kiến đó vẫn phải được bảo vệ“[5]; "Quyền này ra đời mục đích để chống lại sự can thiệp của nhà nước, đặc biệt trong việc tranh luận về các vấn đề chính trị có liên quan đến các đảng phái, Nghị viện hay Chính phủ. (…) Trái với một chế độ độc tài, việc kiểm duyệt từ phía nhà nước trong một nền dân chủ thực sự phải bị cấm hoàn toàn.”[6].
Tóm lại, tự do ngôn luận là một giá trị văn minh của nhân loại. Thiếu tự do ngôn luận, bạn sẽ chỉ nhìn thấy sự thật của riêng bạn, còn tôi sẽ chỉ nhìn thấy sự thật của riêng tôi. Chúng ta không tôn trọng nhau, không tôn trọng ý kiến của nhau thì tất yếu chúng ta cũng không bao giờ có cơ hội tìm ra được những sự thật khoa học đích thực.
Nữ văn sĩ người Pháp Anais Nin đã nói rằng: “chúng ta không nhìn mọi vật như chúng vốn có, chúng ta thường nhìn mọi vật theo cách chúng ta là ai” ("We don't see things as they are, we see things as we are").
Cùng là một con bò. Một cậu bé sinh ra ở quê, quen với đồng ruộng nghĩ ngay đến "sức kéo". Một cậu bé sinh ra ở thành phố hay được bố cho đi ăn nhà hàng sẽ nghĩ ngay rằng: "À, con bò này mà làm món bò bít tết thì ngon tuyệt". Một cậu bé sinh ra trong gia đình làm kinh doanh sẽ nghĩ rằng: "Con bò này ít cũng phải hai chục triệu".
Trên thực tế luôn tồn tại ba điều được coi là “sự thật”:
1. có sự thật của bạn,
2.
có sự thật của tôi và
3. có sự thật của khoa học
Vấn đề chẳng qua là bạn là ai, đang đứng ở đâu để tiếp cận vấn đề mà thôi.
Tôi nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ tìm ra được cái thứ ba, cái mà tôi tạm gọi là “sự thật của khoa học”, nếu như bạn cho rằng chỉ có duy nhất một sự thật đó là sự thật là của bạn hoặc tôi cũng cho rằng chỉ có duy nhất một sự thật là sự thật của tôi.
Chúng ta chỉ tìm ra "sự thật của khoa học" khi có sự tôn trọng quan điểm lẫn nhau và suy xét vấn đề một cách toàn diện. Tôn trọng mọi quan điểm kể cả đó là những quan điểm khác biệt, cũng chính là đang tôn trọng quyền tự do ngôn luận.
Tại sao chúng ta lại cần phải có tự do ngôn luận? Vì thiếu tự do ngôn luận thì cũng không có sự xuất hiện đa dạng các quan điểm, và nếu như không có sự đa dạng các quan điểm, khoa học khi ấy sẽ rơi vào bế tắc.
Cách đây hơn ba thế kỷ quyền tự do ngôn luận[1] - một trong những quyền con người có giá trị nhất của nhân loại đã được chính thức ghi nhận tại Điều 11 Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp: „Việc tự do thể hiện ý tưởng và quan điểm là một trong những quyền con người có giá trị nhất; mỗi một công dân có thể tự do nói, viết và thể hiện quan điểm, miễn sao có trách nhiệm không lạm dụng quyền tự do này vào những trường hợp cụ thể mà pháp luật đã qui định.“[2]
Trên phương diện luật pháp quốc tế, năm 1948 quyền tự do ngôn luận đã được qui định ở Điều 19 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền : „Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do bảo lưu các ý kiến mà không chịu sự can thiệp nào và bao gồm cả việc được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông phi biên giới.“ [3]
Ở Cộng hòa liên bang Đức, Tòa án Hiến pháp liên bang Đức cũng đã khẳng định ý nghĩa của quyền tự do ngôn luận: „Quyền tự do ngôn luận là sự thể hiện trực tiếp nhất yếu tố cá nhân con người trong một xã hội đặt quyền con người lên vị trí tối thượng. Quyền này được thiết lập vì một trật tự nhà nước tự do dân chủ"[4]; „Trong một nhà nước dân chủ thì một ý kiến cho dù có trái với những ý kiến được nhiều người thừa nhận từ trước thì ý kiến đó vẫn phải được bảo vệ“[5]; "Quyền này ra đời mục đích để chống lại sự can thiệp của nhà nước, đặc biệt trong việc tranh luận về các vấn đề chính trị có liên quan đến các đảng phái, Nghị viện hay Chính phủ. (…) Trái với một chế độ độc tài, việc kiểm duyệt từ phía nhà nước trong một nền dân chủ thực sự phải bị cấm hoàn toàn.”[6].
Tóm lại, tự do ngôn luận là một giá trị văn minh của nhân loại. Thiếu tự do ngôn luận, bạn sẽ chỉ nhìn thấy sự thật của riêng bạn, còn tôi sẽ chỉ nhìn thấy sự thật của riêng tôi. Chúng ta không tôn trọng nhau, không tôn trọng ý kiến của nhau thì tất yếu chúng ta cũng không bao giờ có cơ hội tìm ra được những sự thật khoa học đích thực.
LS.MT
[1] Thuật ngữ tự do ngôn luận trong bài viết này hiểu theo
nghĩa rộng, tức là quyền được tự do thể hiện ý tưởng của cá nhân
(Meinungsfreiheit - freedom of
expression) không chỉ dưới dạng lời nói, mà cả chữ viết hay hình ảnh
hoặc bất
cứ loại phương tiện truyền tin nào. Tự do ngôn luận theo nghĩa của bài
viết rộng hơn cách hiểu tự do ngôn luận chỉ tồn tại dưới dạng lời nói (Redefreiheit/ Freedom of speech), tự do ngôn luận cũng hoàn toàn khác
với tự do tư tưởng (Freedom of thought/ conscience). Vấn đề tự do tư tưởng,
không thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức cụ thể, không thuộc phạm vi bài
viết này.
[2] Nguyên bản Tiếng
Pháp: „La libre communication des pensées et des opinions est un des droits
les plus précieux de l'homme : tout citoyen peut donc parler, écrire,
imprimer librement, sauf à répondre de l'abus de cette liberté, dans les cas
déterminés par la loi.“. Dịch Tiếng Đức: „Die freie Äußerung von
Meinungen und Gedanken ist eines der kostbarsten Menschenrechte; jeder Bürger
kann also frei reden, schreiben und drucken, vorbehaltlich seiner
Verantwortlichkeit für den Missbrauch dieser Freiheit in den durch das Gesetz
bestimmten Fällen“. Tiếng Việt: „Việc tự do thể hiện ý tưởng và quan điểm là
một trong những quyền con người có giá trị nhất; mỗi một công dân có thể tự do
nói, viết và thể hiện quan điểm, miễn sao có trách nhiệm không lạm dụng quyền
tự do này vào những trường hợp cụ thể mà pháp luật đã qui định“. (NMT)
[3] Nguyên
bản Tiếng Anh: “Everyone has the right to freedom of opinion and expression;
this right includes freedom to hold opinions without interference and to seek,
receive and impart information and ideas through any media and regardless of
frontiers”; Dịch Tiếng Đức: „Jeder Mensch hat das Recht auf freie
Meinungsäußerung; dieses Recht umfasst die Freiheit, Meinungen unangefochten
anzuhängen und Informationen und Ideen mit allen Verständigungsmitteln ohne
Rücksicht auf Grenzen zu suchen, zu empfangen und zu verbreiten“; Dịch Tiếng
Việt: „Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm. Quyền này
bao gồm sự tự do bảo lưu các ý kiến mà không chịu sự can thiệp nào và bao gồm
cả việc được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi
phương tiện truyền thông phi biên giới.“ (NMT)
[4] Nguyên bản „Das
Grundrecht auf Meinungsfreiheit ist als unmittelbarster Ausdruck der
menschlichen Persönlichkeit in der Gesellschaft eines der vornehmsten
Menschenrechte überhaupt. Für eine freiheitlich-demokratische Staatsordnung ist
es schlechthin konstituierend.“ (BVerfGE 7, 198 (208) – Lüth).
[5] Nguyên
bản Tiếng Đức: „Jede Meinung, auch die von etwa herrschenden Vorstellungen
abweichende, schutzwürdig“ Nguồn: BVerfGE 33, 1 (15).
[6] BVerfGE 33, 1 [14
f.]; Manssen, Staatsrecht II, 7. Aufl., 2010, 330f.; Epping,
Grundrechte, 2. Aufl., 2004, Rn. 190.
(Ghi chú: Trong bài viết tác giả có sử dụng một số từ viết tắt trong Footnote theo thông lệ nghiên cứu khoa học pháp lý ở Đức: ví dụ: BVerfGE 33, 1, (14 f.), thì BVerfGE có nghĩa là Phán quyết của Tòa án Hiến pháp liên bang Đức [Bundesverfassungsgerichtsentscheidung], số 33 tiếp theo là số tập [Bandnummer], các số tiếp theo là số trang trích dẫn [Seite], trong đó số 1 đầu tiên là số trang bắt đầu phần phán quyết có liên quan và số (14 f.) trong ngoặc đơn là số trang trích dẫn chính xác; Aufl. có nghĩa là lần xuất bản (Auflage); Rn. có nghĩa là số đoạn (Randnummer); S. 300f. có nghĩa là từ trang (Seite) 300 đến trang tiếp theo (folgende). Những thuật ngữ quan trọng để đảm bảo tính chính xác, được trích lại tiếng nước ngoài, để trong dấu ngoặc.)