TS. Lionel Laroche1
Những
tiến bộ như vũ bão trong lĩnh vực viễn thông và công nghệ truyền thông
đã góp phần thúc đẩy sự phát triển thương mại quốc tế nói chung và hợp
tác, giao thương giữa hai bờ Đại Tây Dương nói riêng. Vì vậy, các quốc
gia Liên minh châu Âu và các quốc gia Bắc Mỹ hợp tác một cách đều đặn
hơn trong việc thương lượng và thực thi các hiệp định thương mại.
Quan
hệ thương mại giữa Bắc Mỹ và châu Âu dễ dàng hơn nhiều so với quan hệ
giữa họ với khối thương mại thứ ba, cụ thể là khối thương mại vùng Viễn
Đông. Thực vậy, Liên minh châu Âu và các nước Bắc Mỹ có chung những cội
nguồn văn hóa, tín ngưỡng nên việc qua lại, trao đổi giữa các quốc gia
này ít gặp rào cản văn hóa so với quan hệ, trao đổi với các quốc gia
vùng Viễn Đông.
Tuy
vậy, đằng sau những tương đồng dễ thấy giữa Liên minh châu Âu và Bắc Mỹ
lại ẩn chưa những khác biệt đáng kể về văn hóa. Doanh nhân của cả hai
bên khi vượt qua Đại Tây Dương đều có ảo tưởng về sự tương đồng vốn có.
Bài viết này nhằm phân tích những khác biệt văn hóa của hai khu vực nằm
hai bên bờ Đại Tây Dương nhằm góp phần nâng cao khả năng thành công cho
sự phát triển giao thương nơi đây.
Bài
viết gồm hai phần. Phần đầu mô tả một vài khác biệt cơ bản về văn hóa
giữa Liên minh châu Âu và Bắc Mỹ. Bởi cả hai khu vực này đều đa dạng nên
bài viết này có những nhận xét chung dùng cho cả Liên minh châu Âu và
Bắc Mỹ. Chính vì vậy, phần hai của bài viết đưa ra một sườn chung để
tiếp cận có hệ thống những khác biệt về văn hóa giữa hai khu vực này.
1. NHỮNG KHÁC BIỆT CƠ BẢN GIỮA LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ BẮC MỸ
1.1. Lịch sử
Hai
bên Đại Tây Dương có sự khác biệt cơ bản về bề dày và tầm quan trọng
của lịch sử. So với các quốc gia châu Âu có lịch sử lâu đời, Bắc Mỹ có
bề dày lịch sử ngắn hơn rất nhiều: Mỹ với tư cách là một quốc gia chỉ
thật sự bắt đầu từ năm 1776, còn Canada từ năm 1867. Sự
khác biệt này thể hiện trong kinh doanh gắn với yêu cầu giới thiệu những
cơ sở nền tảng của một công ty hoặc một dự án. Hầu hết người Bắc Mỹ chỉ
quan tâm đến những sự kiện trong vòng ba đến năm năm có liên quan đến
công việc làm ăn và thông tin về một dự án thì thường được giới hạn tới
những phát triển gần nhất. Ngược lại, người châu Âu lại quay trở lại quá
khứ từ rất xa xưa và bắt đầu phần giới thiệu về công ty hay dự án của
họ ngay từ giai đoạn còn trong ý tưởng mà không hề quan tâm sự kiện được
giới thiệu diễn ra cách đó bao lâu. Điều này dẫn đến những hiểu lầm khi
giao tiếp, bàn luận trong những buổi họp mà cả hai bên đều thuyết
trình. Người Bắc Mỹ cảm thấy nhàm chán với những thuyết trình từ phía
châu Âu bởi vì có quá nhiều thông tin thừa (theo tiêu chuẩn Bắc Mỹ).
Trong khi người châu Âu lại thấy rằng những bài thuyết trình của phía
Bắc Mỹ thiếu quá nhiều những thông tin nền tảng cần thiết nên khó thuyết
phục được họ.
1.2. Ngôn ngữ
Ở
Bắc Mỹ, tiếng Anh là ngôn ngữ chính trong giao dịch thương mại. Chỉ có
một ngoại lệ là ở Quebec, nơi người địa phương sử dụng cả tiếng Pháp lẫn
tiếng Anh và việc chỉ đặc quyền dùng tiếng Anh trong giao dịch có thể
sẽ gây ra nhiều khó khăn. Ở Liên minh châu Âu, trong khi tiếng Anh được
thừa nhận rộng rãi như một ngôn ngữ quốc tế trong thương mại thì khả
năng nói tiếng Anh không phải ở đâu cũng có, xem bảng dưới đây:
Quốc gia
|
%
|
Đức
|
44%
|
Ý
|
16%
|
Pháp
|
31%
|
Tây Ban Nha
|
12%
|
Bỉ
|
34%
|
Bảng 1: Tỉ lệ người nói tiếng Anh (Eurodata, 1991)
Hơn
thế nữa, khả năng nói tiếng Anh giữa các thế hệ là không giống nhau.
Thực vậy, người ta chỉ mới thừa nhận tiếng Anh như một ngôn ngữ quốc tế
trong thương mại gần đây thôi. Ngoài Anh ra, giới trẻ châu Âu nói và
hiểu tiếng Anh tốt hơn nhiều so với những thế hệ trước. Sự khác biệt này
tạo ra những căng thẳng, nhất là những người đến từ các quốc gia coi
trọng tính tôn ti (như Pháp, Ý và Tây Ban Nha). Trong một vài trường
hợp, người ta có thể phản ứng vì những người có vai trò quyết định chính
không hiểu họ và họ cũng không muốn thừa nhận sự thiếu hiểu biết của
mình trước những đồng nghiệp trẻ hơn.
1.3. Đất đai, tài nguyên và thời gian
Cả
Mỹ và Canada đều nhận rằng mình luôn có đủ đất, năng lượng và và các
nguồn tài nguyên (như nước, khoáng sản, gỗ… ). Người ta vẫn nói rằng nếu
như ở chỗ bạn không có đủ các thứ thì hãy đến nơi nào đó, phía tây
chẳng hạn, bạn sẽ tìm thấy ngay. Ở Bắc Mỹ, năng lượng, đất và các nguồn
tài nguyên được xem là không bao giờ cạn, chỉ trừ thời gian. Trái lại,
không gian, năng lượng và tài nguyên ở châu Âu thì rõ ràng là có hạn
chế. Nhu cầu gìn giữ, bảo vệ tài nguyên luôn biểu hiện trong tinh thần
châu Âu, đặc biệt là ở những người từng chứng kiến sự tàn phá khốc liệt
của chiến tranh thế giới thứ II. Điều này dẫn đến những khác biệt thực
sự trong kinh doanh giữa Liên minh châu Âu và Bắc Mỹ: kích thước của xe
hơi và trang thiết bị (từ tủ lạnh cho đến văn phòng phẩm), việc sử dụng
năng lượng điện, sử dụng giấy và độ trắng của giấy (vd: các tài liệu của
Bắc Mỹ thường là một mặt và với nhiều khoảng trắng) là những ví dụ
thường ngày về sự khác biệt trong phương thức. Tương tự như vậy, các
doanh nghiệp Bắc Mỹ thường thích xây mới và xây ngăn phòng trong khuôn
viên rộng lớn hơn là sửa sang lại những tòa nhà cũ.
1.4. Tính đồng nhất
Từ
điểm nhìn văn hóa, cả hai bên đều xem nhau là có những quan hệ gần và
đồng nhất. Trong trường hợp ngoại lệ đáng chú ý như ở Quebec, nhiều
người châu Âu xem Bắc Mỹ như là một sự tiếp nối hay mở rộng của châu Âu
với một chút khác biệt từ địa phương này qua địa phương khác. Cũng như
vậy, người Bắc Mỹ thường xem châu Âu gồm Anh và phần còn lại của lục
địa.
Bản
thân châu Âu thì đa dạng, và vương quốc Anh về mặt văn hóa lại có nhiều
mặt gần gũi với Mỹ và Canada hơn là với Ý và Pháp. Tương tự như vậy,
cũng có những khác biệt lớn mang tính khu vực ngay trong long Bắc Mỹ:
Canada và Mỹ có những giá trị rất khác nhau đối với các vấn đề xã hội
như y tế và giáo dục… Ngay trong nước Mỹ cũng có sự khác biệt giữa các
bang ở Đông Bắc, Đông, trung tâm phía Bắc và Tây Nam.
2. CĂN CỨ CƠ BẢN ĐỂ PHÂN TÍCH SỰ KHÁC BIỆT VĂN HÓA
Geert Hofstede, nhà nghiên cứu văn hóa so sánh người Hà Lan, trong
quá trình làm việc với IBM đã biên soạn cơ sở dữ liệu về văn hóa so
sánh và đề ra cách tiếp cận những khác biệt văn hóa. Trong công trình Các hệ quả của văn hóa, Geert Hofstede xác định 4 chiều kích văn hóa như sau:
· Tính cá nhân: phù hợp với phạm vi mà trong đó người ta nghĩ về mình như là những cá nhân hay những thành viên của một nhóm.
· Khoảng cách quyền lực: đo khoảng cách tâm lý giữa người quản lý và người cộng sự trong một nền văn hóa.
· Độ chắc chắn: đo độ khoan dung, sự chịu đựng của một nền văn hóa khi đối mặt với những rủi ro và tình huống bấp bênh trong kinh doanh.
· Thành tựu: tương ứng với sự tập trung vào công việc hay những mối quan hệ mà người ta đạt được những mục tiêu nghề nghiệp.
2.1. Tính cá nhân
Chiều
kích này đo mức độ hành động vì mục đích cá nhân hay nhóm trong một nền
văn hóa nhất định. Một xã hội có tính chất chủ nghĩa cá nhân là một nền
văn hóa của “cái tôi” và trong nền văn hóa ấy mỗi cá nhân quan tâm chủ
yếu đến mình và có mối quan hệ độc lập, linh hoạt với các nhóm xã hội.
Còn ở xã hội mang tính cộng đồng thì mỗi cá nhân phụ thuộc vào “cái
chúng ta”, trong đó họ đóng góp vào sự thịnh vượng chung của gia đình,
của nhóm, hoặc của tổ chức trong sự đồng thuận của tập thể. Sự khác biệt
này có thể tóm lược trong bảng dưới đây:
Cộng đồng
|
Cá nhân
|
Ý thức về “chúng ta”
|
Ý thức về “tôi”
|
Họ hàng, sự quan tâm của tập thể đối với cá nhân trên cơ sở tin cậy lẫn nhau
|
Cá nhân tự chăm sóc mình và gia đình riêng.
|
Lợi ích của cộng đồng đặt trên lợi ích cá nhân
|
Lợi ích cá nhân đặt trên lợi ích cộng
|
Sự phụ thuộc của cá nhân vào cộng đồng
|
Đời sống riêng tư và đời sống nghề nghiệp tách bạch nhau.
|
Cộng tác và hài hòa giữa các cá nhân
|
Cạnh tranh giữa các cá nhân
|
Lòng trung thành đặt trên hiệu quả
|
Hiệu quả là trên hết
|
Bảng 2: Sự khác biệt giữa các nền văn hóacoi trọng cá nhân và các nền văn hóa cộng đồng
Tìm hiểu về tính cá nhân ở các quốc gia thành viên EUcoi và
Bắc Mỹ bằng cách cho điểm, chúng ta có thể thấy Mỹ là một nước mang
tính cá nhân đậm nét nhất với 91 điểm; trong khi Bồ Đào Nha lại là một
quốc gia mang tính cộng đồng nhất với 17 điểm. Những khác biệt này thể
hiện trong những hoạt động hợp tác như ở một số lĩnh vực như:
· Bồi thường:
Trong xã hội coi trọng cá nhân, lương, tiền thưởng và thu nhập dựa vào
sự thể hiện của cá nhân; trong khi ở các nền văn hóa cộng đồng lại dựa
trên kết quả của tập thể.
· Cấu trúc công việc:
Ở các quốc gia coi trọng cá nhân, mỗi cá nhân làm việc tương đối độc
lập, ít mang tính xã hội. Ởvcác quốc gia có nền văn hóa cộng đồng, người
ta tự động hướng về tập thể cả trong công việc lẫn ngoài công việc.
· Việc ra quyết định:
Ở các quốc gia coi trọng cá nhân, người quản lý có thể không bàn với
tập thể trước khi đưa ra một quyết định và những quyết định thường hướng
đến lợi ích cho cá nhân. Ở các quốc gia mang tính tập thể, người quản
lý và các nhóm cùng đưa ra quyết định, những quyết định này đưa ra trên
cơ sở của lợi ích tập thể hơn là lợi ích cá nhân.
2.2. Khoảng cách quyền lực
Khoảng cách quyền lực là cách đo mức độ khoảng cách của sự bất bình đẳng giữa người
quản lý và những cộng sự trong một nền văn hóa. Một xã hội độc đoán dựa
vào cấu trúc bề bậc, chặt chẽ trong đó những cá nhân biết rõ về vị trí
và vai trò của mình. Một xã hội dân chủ tham dự dựa vào sự bình đẳng và
phụ thuộc lẫn nhau giữa những tầng bậc quyền lực khác nhau.
Dân chủ tham dự
|
Tôn ti
|
Phương thức tư vấn
|
Phương thức “từ trên xuống”
|
Thoải mái
|
Nguyên tắc, tôn ti
|
Mọi người đều có quyền bình đẳng
|
Tuỳ thuộc vào người có đặc quyền
|
Cơ cấu tố chức thực dụng tập trung vào công việc
|
Cấu trúc hình chóp
|
Độc lập, sáng tạo
|
Phụ thuộc, thụ động
|
Chấp nhận sự hài hòa ngầm giữa quyền lực và không quyền lực
|
Chấp nhận những mâu thuẫn ngầm giữa quyền lực và không quyền lực
|
Bảng 3: Những khác biệt giữa nền văn hóa dân chủ tham dự và nền văn hóa độc đoán
Khoảng
cách quyền lực ở các nước thuộc Liên minh châu Âu và Bắc Mỹ có những
điểm số rất khác nhau. Đan Mạch là quốc gia dân chủ có tính tham dự cao
nhất với điểm số là 18; trong khi Pháp là quốc gia độc đoán nhất với 68
điểm. Trong trường hợp này, Mỹ và Canada nằm trong nhóm giữa với 39 điểm
và 40 điểm. Những khác biệt này thể hiện trong rõ trong hoạt động hợp
tác trong một vài lĩnh vực, như:
· Cấu trúc tập đoàn:
Những quốc gia coi trọng tính tôn ti, thứ bậc thiên về tổ chức tập đoàn
theo kiểu từ trên xuống cùng với nhiều tầng quản lý; trong khi các quốc
gia có tính dân chủ tham dự lại ưa sử dụng cấu trúc khuôn cối (matrix
structure) cùng với sự cộng tác đan xen chức năng và ít tầng quản lý.
· Môi trường làm việc:
Ở các quốc gia coi trọng tính tôn ti, bề bậc, công việc chỉ được hoàn
tất khi đã qua tất cả các bộ phận chức năng và người quản lý giao phó
công việc cùng với những chỉ dẫn rõ ràng. Ở các quốc gia dân chủ tham
dự, hoàn thành công việc thì quan trọng hơn là phải theo đúng thủ tục,
và người quản lý giao phó trách nhiệm mà không chỉ dẫn mấy; vì vậy nhân
viên cần phải sáng tạo, báo cáo tiến trình công việc cũng như đề xuất
các giải pháp.
· Ra quyết định:
Ở các quốc gia coi trọng tính tôn ti, người quản lý đưa ra quyết định
trong quyền hạn của họ và rất ít tham khảo ý kiến của nhân viên. Ở các
quốc gia có nền dân chủ tham dự, những người quản lý thường tham khảo ý
kiến của nhân viên và mong muốn nhân viêc tham gia vào việc ra quyết
định.
2.3. Độ chắc chắn
Độ
chắn chắn đo mức độ con người ở những nền văn hóa khác nhau đối mặt với
những tình huống mạo hiểm, nhập nhằng, không tiên đoán được; hay mặt
khác, là đo những người thích sống theo nguyên tắc, qui định và mệnh
lệnh. Các tổ chức trong các xã hội có cấu trúc chặt chẽ ưa những qui
định khắt khe về hành vi và công việc quản lý, ít thấy sự hiện diện của
tính “khoan dung”, những người lãnh đạo có khuynh hướng hỗ trợ nhân viên
của mình. Những tố chức trong xã hội thiên về coi trọng cá nhân khuyến
khích cá nhân sáng tạo và mạo hiểm; nhân viên ít nhận được hỗ trợ từ
lãnh đạo.
Mạo hiểm
|
Chắc chắn
|
Coi trọng sự linh hoạt: nguyên tắc phải phù hợp với tình huống và nguyên tắc có thể bị phá vỡ
|
Các nguyên tắc và thủ tục đã ấn định là không thể phá vỡ
|
Chủ nghĩa thực dụng, những nguyên tắc có tính thực tế
|
Những nguyên tắc có tính qui phạm
|
Chấp nhận liều lĩnh
|
Dè dặt và bảo thủ
|
Khoan dung tương đối, tùy vào đối tượng khác nhau
|
Không khoan dung theo đối tượng
|
Bảng 4: Những khác biệt giữa văn hóa có tính chặt chẽ và văn hóa có tính mạo hiểm
Độ
chắc chắn ở các quốc gia châu Âu và các quốc gia Bắc Mỹ có điểm số cũng
rất khác nhau. Đan Mạch là quốc gia có nền văn hóa chấp nhận mạo hiểm
nhất với 23 điểm, trong khi đó Hy Lạp là quốc gia chặt chẽ và nguyên tắc
nhất với 112 điểm. Trong trường hợp này, Mỹ và Canada rơi vào nhóm giữa
với 46 và 48 điểm. Những khác biệt này cũng tác động đến sự hợp tác ở
một số khía cạnh, chẳng hạn trong điều luật và nguyên tắc: các quốc gia
có tính chặt chẽ thường có nhiều chính sách, thủ tục và người lãnh đạo
mong muốn mọi nguyên tắc và thủ tục phải được tuân thủ trong tất cả các
tình huống; họ hiếm khi khuyến khích sự mạo hiểm và không mấy khoan dung
cho những lầm lỗi của nhân viên. Ở các quốc gia mạo hiểm thường có ít
nguyên tắc và luật, chấp nhận phá vỡ nguyên tắc để phục vụ khách hàng và
khuyến khích mạo hiểm ngay cả khi không thành công vì cho rằng như vậy
sẽ học hỏi được cái mới.
2.4. Thành tựu
Chiều kích này đo mức độ các nền văn hóa đánh giá những nhiệm vụ và công việc hay những mối quan hệ và chất lượng cuộc sống.
Trọng tình
|
Trọng công việc
|
Chất lượng cuộc sống đặt lên trên thành tựu
|
Thành tựu và kết quả đặt lên trên chất lượng cuộc sống
|
Khiêm tốn, đoàn kết, thống nhất và giúp đỡ lẫn nhau
|
Khẳng định, tranh đua và tham vọng
|
Ưa nhỏ và vừa
|
Ưa to và nhanh
|
Cảm thông với bên thua
|
Ngưỡng mộ bên mạnh
|
Vai
trò của giới vừa phải, đàn ông có phần ưu thế. Nam và nữ đều ít có
tham vọng lớn. Phụ nữ được làm việc mà không cần phải đảm nhận những
công việc như của nam giới.
|
Ở
nhà, sự khác biệt sinh học chính là sự khác biệt về vai trò giới. Nam
giới lao động còn phụ nữ chăm sóc gia đình. Ở một số nền văn hóa, phụ
nữ chỉ được làm việc nếu đảm nhận được vai trò của phái mạnh.
|
Bảng 5: Những khác biệt giữa văn hóa trọng tình và văn hóa trọng công việc
Ở
góc độ này, giữa các quốc gia EU và Bắc Mỹ cũng có những điểm số rất
khác nhau. Thụy Điển là một quốc gia trọng tình nhất với 70 điểm. Sự
khác biệt về điểm số giữa Mỹ (62) và Canada (52) trong chiều kích này
như sau: Canada thì trọng tình và trọng quan hệ hơn Mỹ và thực thi các
chương trình xã hội (gồm cả bảo hiểm y tế) mà ở Mỹ không có. Những khác
biệt này thể hiện rõ trong các hoạt động kinh doanh và hợp tác thương
mại về:
· Chính sách:
Ở các quốc gia trọng tình và trọng quan hệ, các công ty cung cấp cho
nhân viên những chương trình trợ giúp hữu hiệu và có những chính sách
giúp cho nhân viên cân đối được công việc và gia đình (ví dụ như sắp xếp
thời gian linh động, nghỉ hộ sản…). Ở các nước trọng công việc, công ty
ít trợ giúp nhân viên và ít xem xét đến vấn đề gia đình của nhân viên.
· Công việc và gia đình:
Ở các quốc gia trọng công việc, công việc đặt lên trên gia đình, làm
việc nhiều giờ và cả cuối tuần. Ở các nước trọng tình và trọng quan hệ
thì yếu tố gia đình luôn được xem xét trong tương quan với công việc.
3. KẾT LUẬN
Những khác biệt văn hóa
giữa Bắc Mỹ và Liên minh châu Âu là rất có ý nghĩa và cần phải được đặc
biệt quan tâm khi có quan hệ thương mại. Cũng cần đặc biệt chú ý là cả
Bắc Mỹ lẫn Liên minh châu Âu cũng đều không phải là hai khối có sự đồng
nhất cao về văn hóa: Trong mỗi khối thương mại có những khác biệt đáng
kể của nó, và có rất ít những điểm chung để có thể nói rằng khối thương
mại này đối lập với khối thương mại kia. Thêm vào đó, sự khác biệt giữa
các quốc gia châu Âu và Bắc Mỹ còn phụ thuộc vào từng quốc gia của hai
bên, chẳng hạn như người Thụy Điển khoan dung hơn và mạo hiểm hơn so với
người Mỹ, nhưng người Pháp thì chặt chẽ và nguyên tắc hơn người Mỹ.
` Bùi Hải Đăng dịch
Theo Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu - 2007
1. TS. Lionel Laroche, chủ tịch tập đoàn ITAP Canada, chuyên đào tạo về giao lưu văn hóa và tư vấn đặt tại Toroto Ontario, Canada.
(ĐT: 1-416-248-4064, e-mail:
itapcanada@home.com).
ITAP Canada gúp đỡ tư vấn cho các công ty kinh doanh hiệu quả hơn trên
thương trường toàn cầu bằng cách cung cấp cơ sở nghiên cứu, huấn luyện
về văn hóa cho khách hàng.
Bài viết này được xuất bản lần đầu tiên trong Stainless Steel World, tháng 12, 1999. Nguồn: http://www.itapintl.com/articlelibrarymain.htm