Đỗ Kiên Cường
Cuốn
sách Một góc nhìn của tri thức, do tạp chí Tia sáng và NXB Trẻ ấn hành,
là tập hợp các bài báo của hàng trăm nhà khoa học và văn nghệ sĩ. Đọc
những cái tên như Hoàng Tụy, Phan Đình Diệu, Vũ Đình Cự, Phan Ngọc, Trần
Quốc Vượng, Lê Đạt, Nguyễn Ngọc...không thể không mua và bày ngay vào
vị trí trang trọng nhất! Và quả thật hy vọng đã được đền đáp: nhiều bài
viết rất trí tuệ, thú vị và kích thích tư duy, điều khó gặp trong cùng
một tác phẩm.
Tuy nhiên như lẽ thường tình, ngọc thường có vết. Lời dẫn viết: “Đọc
Tia sáng – Một góc nhìn của trí thức, bạn sẽ tìm thấy cái mình chờ đợi.
Trước hết ở những tri thức mới của nhiều ngành khoa học như: Bohr chưa
hẳn đã sai; Sự thức tỉnh vĩ đại; Mạng và cách mạng; Đi tắt, đón đầu như
thế nào? Nghịch lý công nghệ; Đạo lý và kinh tế: Kinh tế trí thức; Nỗi
niềm nông dân...”. Thế là tôi đọc ngay hai bài mà tiêu đề
mang đầy vẻ thách thức: Bohr chưa hẳn đã sai, Chu Hảo cho rằng nguyên lý
bất định Heisenberg, một trong những nguyên lý cơ bản nhất của vũ trụ,
đã đến hồi cáo chung; còn trong Sự thức tỉnh vĩ đại, Ngô Tự Lập cho rằng
văn minh xuất hiện là do sự thức tỉnh của con người về quyền tư hữu.
Ngô Tự Lập cũng mở rộng vấn đề, khi xem phương Đông tuy thức tỉnh trước,
nhưng không triệt để vì vẫn duy trì chế độ công hữu về ruộng đất đến
tận thế kỷ XIX. Và đó là lý do văn minh phương Đông đi trước về sau. Còn
phương Tây, tuy thức tỉnh muộn nhưng tư hữu triệt để hơn, nên đã vượt
xa phương Đông. Đến cuối thế kỷ XX, phương Đông đã thấy thiếu sót và lần
thức tỉnh thứ hai này (tư hữu triệt để hơn?) đem lại một làn sóng phát
triển mới.
Chúng
tôi sẽ trao đổi với Chu Hảo về những bí ẩn của cơ học lượng tử vào dịp
khác, ở đây xin được bàn với Ngô Tự Lập một số vấn đề về sự hình thành
và phát triển của nền văn minh nhân loại. Đầu tiên cầu lưu ý rằng, dường
như tác giả có xu hướng dùng lý luận phi mác xít trong lập thuyết. Để
tránh những hiểu lầm không đáng có, trước tiên cũng xin dùng lý luận phi
mác xít để trao đổi.
Khi
xem “sự trưởng thành và sau đó là sự phát triển của xã hội người gắn
liền, hay nói đúng hơn là phụ thuộc vào mức độ thức tỉnh của con người
đối với quyền tư hữu, một sự thức tỉnh đầy tính ích kỷ và mâu thuẫn”,
Tác giả đã sơ giản quá mức những động lực cơ bản của sự phát triển. Thế
các điều kiện tự nhiên, xã hội, điều kiện dân số không có vai trò gì hay
sao? Bao nhiêu nền văn minh đã sụp đổ, phải chăng vì họ thiếu quyền tư
hữu? Tác giả nghĩ sao khi người ta cho rằng, nền văn minh Maya của người
da đỏ bị diệt vong chủ yếu do động đất và bệnh tật? Tại sao chỉ đến 4-5
thế kỷ gần đây, phương Tây mới bỏ xa phương Đông, như tác giả đã nhận
xét?
Văn minh và nhà nước
Do
sự xuất hiện của nông nghiệp 10 ngàn năm trước, nên sự phát triển xã
hội loài người đã có bước nhảy vọt về chất. Và khoảng 7000 năm trước,
xuất hiện một hình thức tổ chức chính trị xã hội hoàn toàn mới là nhà
nước, kèm theo một loại hình định cư cũng hoàn toàn mới là thành phố. Sự
xuất hiện của nhà nước và thành phố đồng thời với sự xuất hiện của nền
văn minh. Đối với chúng ta, thuật ngữ văn minh gợi nhớ đến nghệ thuật,
chữ viết cũng như những phương tiện vật chất và tinh thần do công nghệ
tạo ra. Năm 1972, Kent Flannery dùng thuật ngữ văn minh để chỉ “phức hợp
các hiện tượng văn hóa có xu hướng xuất hiện cùng một hình thức tổ chức
chính trị xã hội đặc biệt là nhà nước”. Còn nhà nước, theo V.G. Ghilde
(1952), là sự tồn tại của loại quyền lực trung tâm có quyền thu thuế
trên giá trị thặng dư do thâm canh đất đai và do nền sản xuất phát
triển. “phức hợp các hiện tượng văn hóa” bao gồm:
1. Chữ viết.
2. Các khoa học dự báo chính xác như thiên văn học và toán học.
3. Nghệ
thuật tượng trưng phản ánh quan niệm và kỹ thuật tinh tế, được đặc
trưng bằng một phong cách chính thống dành cho thần thánh và giới cầm
quyền.
4. Dân số và qui mô định cư lớn (thành phố)
5. Quyền công dân: tổ chức xã hội dựa trên giai cấp và sự ổn định cư hơn là quan hệ họ hàng.
6. Cấu trúc xã hội: phân chia thành các giai cấp khác nhau.
7. Các nghề nghiệp phi nông nghiệp: thợ thủ công, nhà buôn, tu sĩ, quan chức...
8. Mạng lưới thương mại rộng lớn, trao đổi cả như yếu phẩm vật dụng và dịch vụ xa xỉ.
9. Các công trình công cộng mang tầm vóc tượng đài.
10. Những chuyên gia tôn giáo chuyên nghiệp chăm lo tín ngưỡng quốc gia.
Không
phải mọi nền văn minh cổ đều thỏa mãn các tiêu chí này, tuy nhiên những
tiêu chí quan trọng nhất thì không được bỏ qua như chữ viết, khoa học
hay tổ chức xã hội và điều kiện dân cư.
Tuy
nhiên nhìn vào đây, vẫn chưa hiểu vì sao phương Tây vượt phương Đông
trong vòng 4-5 thể kỷ gần đây. Vì thế có lẽ nên tìm một tiếp cận khác.
Khoa học và sự xuất hiện của công nghiệp
Như
trên đã nói, văn minh xuất hiện cùng với nhà nước, mà tiền đề của cả
hai là sự xuất hiện của nông nghiệp. Trước thời kì công nghiệp, trình độ
phát triển Đông Tây không có sự khác biệt đáng kể, vì nền sản xuất nông
nghiệp chủ yếu dựa trên những tri thức mang tính kinh nghiệm. Sự khác
nhau rõ rệt xuất hiện từ thời Phục hưng và Khai sáng, khi mọi hoạt động
vật chất và tinh thần tại phương Tây bắt đầu phát triển mạnh mẽ. Khoa
học hiện đại xuất hiện cùng với Copernicus và Galilée, cho phép con
người khám phá những động lực cơ bản của vũ trụ và xã hội loài người.
Máy hơi nước của James Watt, cùng các loại máy móc khác, đã tạo tiền đề
cho nền công nghiệp xuất hiện và phát triển. Theo thiển ý, phương Tây
vượt phương Đông là do nền sản xuất công nghiệp vượt nền sản xuất nông
nghiệp. Gốc rễ của nó là trình độ khoa học hiện đại vượt qua hệ kiến
thức mang màu sắc trực quan và kinh nghiệm. Cũng cần nói thêm, ở đây
khái niệm khoa học được dùng với khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật
cùng mọi loại hình khoa học xã hội và nhân văn, bao gồm chính trị học và
khoa học quản lý.
Tác
giả cho rằng ý thức về sự tư hữu khoảng 5-10 ngàn năm trước là động lực
thúc đẩy sự phát triển xã hội, là nguyên nhân khiến phương Tây đi sau
mà vượt trước. Lập luận như thế nghe qua cũng có lý, nhưng ngẫm kỹ thì
không ổn. Nên nhớ rằng, chỉ đến cách mạng tư sản Pháp 1789, quyền tư hữu
mới được pháp luật công nhận và bảo vệ một cách đầy đủ. Chỉ đến khi đó
loài người mới ý thức hoàn chỉnh về quyền tư hữu, mới “thức tỉnh vĩ đại”
về một quyền rất căn bản của mình. Trước đó chỉ hoàng đế mới có quyền
sở hữu đúng nghĩa, còn mọi thần dân, sinh mạng cũng chưa chắc giữ được,
nói gì đến sự tư hữu!
Được
đào tạo về khoa học tự nhiên nên có thể phiến diện, nhưng chúng tôi
thực sự tin rằng, chính khoa học đã làm nên sự khác biệt giữa Đông và
Tây trong khoảng 500 năm nay. Người ta nói rằng chỉ trong một thế kỷ,
khoa học đã làm biến đổi thế giới nhiền hơn 100 thế kỷ cộng lại. Và ngày
nay với sự xuất hiện của văn minh tri thức, văn minh thông tin (chứ
không phải văn minh “Tâm linh”), sự phát triển sẽ còn nhanh chóng hơn
nữa. Khi Clinton nhậm chức tổng thống tháng 1- 1993, chỉ có 35 địa chỉ
trang web trên internet. Vậy mà khi ông rời Nhà Trắng tháng 12-2000, con
số đạt 300 triệu! Tăng trưởng gần mười triệu lần trong tám năm, đó
không phải là llý do giúp phương Tây vượt lên hay sao?
Khi
Napoléon tấn công Ai Cập, một lần đang hành quân thì bị tập kích, vị
hoàng đế kiêu hùng đã ra một mệnh lệnh bất tử: “Lừa ngựa và các nhà khoa
học hãy đi vào giữa”. Lừa ngựa tất nhiên phải bảo vệ, vì đó là điều
kiện sống còn của đội quân viễn chinh giữa sa mạc. Nhưng kỳ diệu thay,
với Napoléon, các nhà khoa học cũng có tầm quan trọng sống còn như vậy,
cho dù ông đang ở Ai Cập,, chứ không phải giữa Viện hàn lầm khoa học tại
Paris. Và quả thật khoa học đáng được đối xử như vậy, nếu ta nhìn các
xãc hội tri thức ngày nay. Có thể sai lầm, nhưng chúng tôi cho rằng,
phương Động chậm bước chính vì ở đây, giới khoa học chưa bao giờ được đi
vào giữa.
Lực lượng sản xuất và các giá trị Châu Á
Sẽ
sai lầm nếu cho rằng phương Đông duy trì chế độ công hữu về ruộng đất
đến tận thế kỷ XIX. Làng xã phương Đông xưa luôn có một số công điền để
lấy hoa lợi chi cho việc làng. Nên xem đó là điều hay chứ không phải là
nét dở. Số công điền đó có diện tích rất nhỏ trên tổng quĩ đất nên không
thể là nguyên nhân kìm hãm phương Đông. Nếu không thì may cho phương
Đông quá: Chỉ cần tư hữu hết số công điền là phương Đông sẽ phát triển
vượt bậc ngay lập tức!
Thực
ra cách lập luận chỉ dựa trên khoa học khó tránh khỏi khiên cưỡng. Thoả
đáng nhất là dùng lý luận về các hình thái kinh tế xã hội, về mối quan
hệ giữa lực lượng và quan hệ sản xuất, về đấu tranh giai cấp (hiểu theo
nghĩa rộng, bao gồm cả sự hợp tác) trong sự thúc đẩy xã hội loài người.
Khi đó sẽ thấy ngay rằng khoa học có vai trò động lực là lẽ tự nhiên vì
nó đã thực hiện sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Và lực lượng
sản xuất phát triển mạnh mẽ sẽ kéo theo sự biến đổi thích đáng của quan
hệ sản xuất, dẫn tới sự phát triển nhanh chóng của xã hội phương Tây.
Dưới ánh sáng học thuyết mác xít, quan hệ Đông Tây trở nên khá rõ ràng.
Chúng ta nên học tập các học giả phương Tây trong việc đánh giá Marx.
Giáo sư triết học George J.Stack của Đại học bang New York cho rằng: “Dù
tốt hay xấu, Marx có ảnh hưởng đối với thế giới hơn bất cứ nhà tư tưởng
hiện đại nào” (Bách khoa toàn thư về không tín ngưỡng, NXB Prometheus
Books, 1985, trang 443). Trong cuốn tiểu thuyết về lịch sử triết học Thế giới của Sophie bán hàng chục triệu bản tại châu
Âu, tác giả Jostein Gaader người Đan Mạch viết: “Ngày nay tại châu Âu,
chúng ta được sống trong một xã hội vô cùng công bằng và văn minh. Chúng
ta đạt được điều đó là nhờ Marx. Đi tìm nhà khoa học ảnh hưởng nhất tới tư duy hiện đại, giáo sư sinh học Ernst Mayr tại Đại học Harvard dẫn ra Marx, Ernst, Einstein và Darwin (Người Mỹ khoa học, 7-2000).
Vì sao cuối thế kỷ XX, xuất hiện hàng loạt những con rồng châu Á? Học tập phương Tây về quản lý và khoa học thì đã hẳn nhưng điều đó vẫn chưa giải thích được vì sao Trung Quốc phát triển quá nhanh. Thiết nghĩ ở đây các giá trị châu Á có tiếng nói quyết định, như Lý Quang Diệu từng phát biểu. Đó là coi trọng các giá trị tinh thần; là tìm kiếm sự đồng điệu với môi trường
và xã hội; là ý thức cộng đồng; là đặt lợi ích quốc gia, lợi ích tập
thể lên trên lợi ích cá nhân...Giữa lúc khoa học công nghệ phương Tây bắt đầu bộc lộ những nhược điểm chết người
bên cạnh vai trò động lực phát triển, các giá trị đó càng có sức hấp
dẫn và lan toả. Một số học giả Âu Mỹ cho rằng, chủ nghĩa cá nhân là căn
nguyên tạo nên năng suất lao động cao tại phương Tây, còn chủ nghĩa tập thể là vấn đề cần tháo gỡ của phương Đông. Sự phát triển của Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc và nhất là Trung Quốc cho thấy đó là một định kiến sai lầm.
Chiêm
ngưỡng các công trình vĩ đại như Kim tự tháp, lăng mộ Tần Thuỷ
Hoàng,...có người cho rằng, các công trình đó phản ánh ước nguyện được
đối diện với những thế lực cơ bản của vũ trụ. Tuy nhiên nuế không có ước
nguyện khám phá và ý thức cộng đồng, loài người không thể đạt được
trình độ phát triển như ngày nay. Không phải “sự thức tỉnh vĩ đại” về
quyền tư hữu, mà chính ý thức cộng đồng mới là động lực chủ yếu của xã
hội. Tìm lợi ích riêng trong lợi ích chung, đó không phải là nguyên tắc
ứng xử căn bản hiện nay sao?
Tại sao khoa học không xuất hiện tại phương Đông?
Xem
khoa học là động lực phát triển, là căn nguyên vượt trội của phương Tây
sẽ dẫn ngay tới câu hỏi: Vì sao khoa học không xuất hiện tại phương
Đông, dù bánh xe, thuốc súng, là bàn...xuất phát ở đây? Đó là câu hỏi
thú vị nhưng rất khó trả lời. Chúng tôi xin mạo muội trình bày một số ý
kiến ban đầu, rất mong được sự thông cảm của bạn đọc.
Lý
do đầu tiên, theo quan điểm của nhà khoa hóa học Bỉ đoạt giải Nobel
Ilya Prigogine, là các tôn giáo phương Đông không có một đấng tối cao
quản lý vũ trụ bằng các quy luật xác định. Và dĩ nhiên giới trí thức
phương Đông không tìm cách giải mã các qui luật thần thánh đó, như sự
ngợi ca đối với tín ngưỡng và tôn giáo của cộng đồng mà nhà tri thức là
một thành viên. Đây là điều ngược với phương Tây, nơi giới học giả thấm
đẫm tinh thần Thiên chúa giáo tìm mọi cách khám phá các qui luật tự
nhiên nhằm sáng danh Chúa và kỳ lạ thay, cuối cùng tìm ra khoa học. Tại
phương Đông các học giả lảng tránh trách nhiệm này, khi giữ quan điểm
kính nhi viễn chi (kính cẩn mà tranh ra xa) đối với thánh thần và ma
quỉ, là những thế lực quản lý vũ trụ, nói cách khác là những qui luật
khoa học.
Lý
do thứ hai nằm chính ở điểm được xem là mạnh của phương Đông. Để nhận
thức vũ trụ và xã hội loài người, văn minh Trung Hoa sáng tạo ra thuyết
âm dương, một học thuyết có tính duy vật chất phác và biện chứng thô sơ,
xem vũ trụ khởi nguyên từ Thái cực, một loại nguyên khí hỗn mang. Thái
cực sinh Lưỡng nghi sinh Tứ tượng sinh Bát quái rồi sinh ra 64 đại thành
quái. Các đại thành quái tương tác nhau tạo nên một mạng lưới mà không
một hiện tượng tự nhiên hay xã hội nào không bị chi phối. Sự chặt chẽ
nội tại của học thuyết lớn đến nỗi, trải hàng ngàn năm mà kẻ sĩ chỉ cần
học thuộc là đủ cho mọi hoạt động nhận thức! Suy ngẫm quan điểm của
triết gia Poper, rằng một lý thuyết chỉ được xem là khoa học khi chứa
đựng những yếu tố tự phủ định nhằm tạo điều kiện cho lý thuyết mới ra
đời, ta sẽ hiểu vì sao khoa học không thể xuất hiện tại phương Đông. Và
ta sẽ hiểu vì sao các nhà nho xưa xem khoa học chỉ là trò dâm xảo của
người Tây dương. Trong mội trường nhận thức như thế, phát minh là bàn,
thuốc súng...chỉ là sự ngẫu nhiên nên không thể trở thành hạt giống tốt
gieo mần cho một mùa thu hoạch khoa học và công nghệ, điều kiện tiên
quyết của nền sản xuất đại công nghiệp, điều mà phương Tây vượt trội
phương Đông.
Cần
nói thêm rằng, trong phong trào khám phá phương Đông một số học giả
phương Tây cho rằng, nhận thức phương Đông xưa rất gần với khoa học hiện
đại, nhất là vật lý và vũ trụ học. Tiêu biểu là cuốn Đạo của vật lý của
Fritjof Capra, do tiến sĩ Việt kiều Nguyễn Tường Bách biên dịch. Theo
tác giả, lý luận của các học thuyết tôn giáo và triết học phương Đông
rất phù hợp với quan điểm vật lý hiện đại về thế giới vi mô, về sự phát
sinh và phát triển vũ trụ. Đây chính là ví dụ điển hình của việc ca ngợi
phương Đông không đúng cách và thiếu cơ sở. Ngay phụ để sách cũng bị vô
tình hay cố ý dịch sai. Một khám phá mới về sự tương đồng giữa vật lý
hiện đại và huyền bí học là hai vấn đề khác hẳn nhau. Còn sự tương đồng
hình thức trong ngôn ngữ giữa đạo học phương Đông và vật lý hiện đại thì
đã được Michael Shermer nhận chân trong Những ngôi sao trong Tử cấm
thành: Sự tương đồng mơ hồ đó chỉ là kết quả của một sự thật; rằng có sự
uyển chuyển trong cách giải thích thế giới; và tình cờ một số cách tỏ
ra trùng hợp về mặt hình thức. Nói cách khác, tương quan giữa hệ kiến
thức trực quan, kinh nghiệm, tư biện phương Đông và nền khoa học duy lý,
giầu tính thực nghiệm phương Tây chỉ là tương quan ảo.
Cuối
cùng xin nhấn mạnh rằng, chính khoa học đã tạo nên sự phát triển của
phương Tây kể từ thời Phục hưng và Khai sáng chính là sự kết hợp khoa
học hiện đại với hệ giá trị phương Đông đã tạo nên kỳ tích Nhật Bản và
Trung Quốc. Và chúng ta cần nhanh chóng đưa các nhà khoa học đi vào
giữa, cùng với lừa và ngựa.
Nguồn: Tạp chí Tia Sáng