TCCSĐT - Ngày
9-5-2011, cùng với nhân loại yêu chuộng hòa bình và tiến bộ, Chính phủ,
các lực lượng vũ trang và nhân dân Liên bang Nga long trọng kỷ niệm Ngày
Chiến thắng của Liên Xô trong Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại nói
riêng và Chiến tranh thế giới lần thứ II nói chung nhằm tiêu diệt
chủ nghĩa phát xít. Tiếc thay, càng gần đến dịp kỷ niệm Ngày Chiến
Thắng đáng ghi nhớ mãi mãi này, trên thế giới xuất hiện nhiều tài liệu
công khai xuyên tạc lịch sử Chiến tranh thế giới lần thứ II nhằm các mục
đích chính trị và phục vụ âm mưu gây chiến tranh xâm lược trong kỷ
nguyên mới.
Một câu hỏi lớn đặt ra
trong bối cảnh ngày càng xuất hiện nhiều động thái xuyên tạc lịch Chiến
tranh thế giới lần thứ II là, ai là kẻ có lợi trong việc xem xét lại và
xuyên tạc lịch sử cuộc chiến tranh này? Nhà văn và là nhà chính luận nổi
tiếng ở Anh Giooc-giơ Ô-oen (George Orwell) đã từng đưa ra câu trả lời
như sau: "Ai kiểm soát được quá khứ, người đó sẽ kiểm soát được tương
lai". Trong tình hình hiện nay, luận điểm này của Giooc-giơ Ô-oen mang
tính thời sự cấp thiết hơn bao giờ hết (1).
Tham vọng của một số nước lớn đòi phân chia lại thế giới
Hệ thống quan hệ quốc tế dựa trên cơ sở Hiệp ước Vec-xây (Treaty of Versailles) được ký kết ngày 28-6-1919 là dấu mốc lịch sử kết
thúc Chiến tranh thế giới lần thứ I. Nhưng hiệp ước đó đã không trở
thành sự bảo đảm tin cậy để duy trì hoà bình thế giới bởi nó đã tạo ra
hệ thống quan hệ quốc tế có định hướng chống Liên Xô, đồng thời phản ánh
tham vọng của các nước phương Tây muốn đưa các nước bại trận trong
Chiến tranh thế giới lần thứ I vào thế bị lệ thuộc vào các nước giành
chiến thắng, trước hết là Mỹ, Pháp và Anh. Do đó, Hiệp ước Vec-xây đã
không làm dịu bớt mà thậm chí còn làm gia tăng những mâu thuẫn cơ bản
giữa các nước lớn hình thành trước chiến tranh.
So sánh lực lượng mới
trên trường quốc tế sau Cách mạng tháng Mười, trong đó Liên Xô trở thành
một cường quốc lớn cùng với các nước xã hội chủ nghĩa đã tạo ra một xu
thế mới trong nền chính trị thế giới. Đó là cuộc đấu tranh giữa hai hệ
thống chính trị, kinh tế và hai hệ thống tư tưởng. Do đó, các thế lực
vốn đối kháng nhau về lợi ích, nay quay sang liên kết lại với nhau nhằm
mục đích chống Liên Xô và hy vọng thông qua cuộc đối đầu với Liên Xô sẽ
giải quyết được, hoặc ít nhất là làm giảm bớt mâu thuẫn gay gắt giữa các
cường quốc phương Tây.
Hit-le đã từng công khai
tuyên bố về ý đồ tiến hành chiến tranh xâm lược trong bài phát biểu
trước các tướng lĩnh Đức vào ngày 3-2-1933, trong đó Bec-lin “sẽ tiến
hành chiến tranh giành giật không gian sinh tồn ở phía đông” và mở đầu
quá trình “Đức hoá” toàn bộ thế giới. Từ đó, nước Đức bắt đầu ráo riết
vũ trang, công khai hô hào xét lại hệ thống quan hệ quốc tế dựa trên
Hiệp ước Vec-xây, làm thay đổi bầu không khí chính trị ở châu Âu. Các
lực lượng quốc xã chủ trương thành lập "Đế chế của dân tộc Đức" trong đó
“dân tộc Đức thượng đẳng” sẽ cai trị “các dân tộc hạ đẳng” Xla-vơ và
với các dân tộc khác trên thế giới.
Hit-le đã từng khẳng
định: "Cuộc đấu tranh sắp tới của nước Đức có ý nghĩa hơn nhiều là một
cuộc chiến tranh. Tính đến lãnh thổ rộng lớn của Liên Xô, để hoàn thành
cuộc đấu tranh này không chỉ là đập tan các lực lượng vũ trang của Liên
Xô mà còn phải chia nhỏ lãnh thổ Liên Xô thành nhiều quốc gia độc lập và
những nước mới thành lập đó sẽ ký kết hiệp ước hòa bình với nước Đức”.
Giới tinh hoa chính trị ở
các nước châu Âu hồi đó biết rõ các kế hoạch của Hit-le nhưng đã không
ngăn cản mà thậm chí đã tạo điều kiện cho tên trùm quốc xã này thực hiện
các kế hoạch đó. Năm 1934, Bộ trưởng ngoại giao Anh An-tô-ni Ê-đen
(Anthony Eden) trong chuyến thăm nước Đức đã từng tuyên bố: "Bằng cách
tăng cường vũ trang, nước Đức góp phần to lớn cho châu Âu trong việc đập
tan nguy cơ chủ nghĩa cộng sản”. Ngoài sự ủng hộ về tin thần và chính
trị, các tập đoàn tài chính và công nghiệp Anh và Mỹ đã giúp đỡ nước Đức
trong việc xây dựng tiềm lực kinh tế quân sự. Tính tổng cộng, các tập
đoàn của Anh và Mỹ đã đóng góp tới 20 tỷ đồng mác Đức cho quá trình hiện
đại hoá trang bị của quân đội Đức. Ngoài ra, nước Đức đã nhận được vốn
đầu tư trên 31 tỉ đồng mác để hiện đại hóa kinh tế và quân phiệt hoá.
Nhờ đó, sản xuất quân sự của nước Đức từ năm 1934 đến năm 1940 tăng 22
lần. Trước chiến tranh, nước Đức nhận được từ phía Anh, Pháp và Mỹ
khoảng 50% tài nguyên và vật liệu cần thiết cho nền kinh tế quân sự của
họ.
Như vậy, với sự giúp đỡ
của các nước phương Tây, nước Đức đã có cơ sở nền tảng về tư tưởng,
chính trị và kinh tế để phát động Chiến tranh thế giới lần thứ II. Các
nước phương Tây hồi đó hy vọng rằng Hit-le sẽ không nhằm mũi tiến công
vào họ mà chỉ nhằm vào kẻ thủ chủ yếu là Liên Xô ở phía Đông. Nhưng họ
đã tính toán sai lầm về chiến lược.
Nỗ lực của Liên Xô ngăn chặn nguy cơ chiến tranh thế giới mới
Trong tình thế “nước sôi
lửa bỏng” đó, Liên Xô đã nỗ lực hoạt động ngoại giao để thành lập hệ
thống an ninh tập thể nhằm ngăn chặn hành động xâm lược của Đức và Nhật
Bản.
Tháng 7-1933, theo sáng
kiến của Liên Xô, Công ước xác định hành động xâm lược đã được ký kết.
Tiếp đến, Liên Xô đề xuất sáng kiến ký kết hiệp ước Thái Bình Dương với
sự tham gia của Mỹ, Anh, Pháp. Liên Xô còn đề xuất ký kết hiệp ước liên
minh với Pháp, Ba Lan, Tiệp Khắc và các nước khác ở châu Âu. Sau khi gia
nhập Hội quốc liên năm 1934, vào năm 1935, Liên Xô ký nhiều hiệp ước
quan trọng về giúp đỡ lẫn nhau với Tiệp Khắc và Pháp. Tháng 1-1936, Liên
Xô đề nghị Anh và Pháp ký kết hiệp ước ba bên nhưng đã không được hai
nước này đó ủng hộ.
Trong khi đó, Anh, Pháp,
Đức và I-ta-li-a lại ký kết Hiệp ước Mu-nich vào tháng 9-1938, theo đó
vùng Xu-đet của Tiệp Khắc sẽ trao trả cho nước Đức, trên thực tế là Anh
và Pháp đã tiếp tay cho Đức tiến hành xâm lược. Ba Lan và Hung-ga-ri
cũng tham gia vào quá trình phân chia Tiệp Khắc. Ban lãnh đạo Liên Xô
coi hành động này là một âm mưu của các nước đế quốc chống Liên Xô.
Không dừng lại trước mọi
khả năng có thể ngăn cản chiến tranh bùng nổ ở châu Âu, ngày 7-4-1939,
Chính phủ Liên Xô một lần nữa đề nghị Anh và Pháp bắt đầu cuộc đàm phán
ba bên về sự giúp đỡ lẫn nhau trong trường hợp xảy ra chiến tranh xâm
lược ở châu Âu, trong đó có cam kết giúp đỡ tất cả các nước Đông Âu một
khi họ bị Đức xâm lược. Thế nhưng, chính phủ các nước Anh, Pháp và Ba
Lan không muốn ký kết hiệp ước liên minh với Liên Xô. Trong tình hình
đó, Liên Xô buộc phải đơn phương tìm kiếm giải pháp nhằm ngăn chặn cuộc
chiến tranh xâm lược từ phía Đức, đồng thời Liên Xô phải tính toán để
không bị cô lập về chính trị trong bối cảnh cuộc chiến tranh đang gần
kề.
Như vậy, trước khi Chiến
tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, các nước hàng đầu thế giới một mặt bị
chia rẽ thành các phe phái chính trị quân sự thù địch, mặt khác liên
kết với nhau trong một liên minh chống Liên Xô. Ngày 11-8-1939, Hit-le
đã đánh giá tình hình chính trị quân sự lúc đó trong bản tuyên bố nổi
tiếng: "Tất cả những gì tôi đang làm đều nhằm chống lại nước Nga. Nếu
phương Tây quá ngu xuẩn và mù quáng không nhận thấy điều đó, thì tôi
buộc phải đập tan khối liên minh các nước phương Tây và sau khi đánh bại
họ, tôi sẽ chuyển sang tiến công Liên Xô với tất cả sức mạnh đã tích
lũy được".
Sau khi thất bại trong
việc thuyết phục Anh và Pháp ký kết hiệp ước liên minh, Liên Xô đứng
trước hai sự lựa chọn: ký kết hiệp ước không tiến công lẫn nhau với nước
Đức để có thời gian hoãn binh, hoặc phải đơn phương đối mặt với nguy cơ
chiến tranh đang gần kề từ phía nước Đức. Liên Xô đã phải chọn phương
án đầu. Đây là cách lựa chọn duy nhất đúng của Liên Xô. Bằng Hiệp ước
này, Liên Xô loại bỏ khả năng tham chiến với nước Đức vào năm 1939 vì
lúc đó Liên Xô chưa sẵn sàng đối phó với một cuộc chiến tranh trên quy
mô lớn. Hồng quân Liên Xô chưa có đủ số lượng nhân lực cũng như vũ khí
trang bị và do đó có thể bị thất bại lớn trong cuộc đối đầu với nước
Đức. Với việc ký kết hiệp ước không tiến công lẫn nhau với nước Đức,
Liên Xô đã có điều kiện để tăng cường lực lượng, tạo điều kiện cho họ
đứng vững trong thời kỳ đầu của chiến tranh vào năm 1941.
Hành động của Hit-le tiến
công Ba Lan vào ngày 01-09-1939 mở đầu cuộc Chiến tranh thế giới lần
thứ II kéo dài tới 6 năm và trở thành một trong những giai đoạn có tính
bước ngoặt quan trọng nhất trong lịch sử thế kỷ XX, trong đó chiến
trường chủ yếu diễn ra ở châu Âu và châu Á. Vào ngày 3-9-1939, Anh và
Pháp tuyên chiến với Đức, sau đó tham gia chiến tranh về phía liên minh
chống phát xít có các nước Áo, Tân Tây Lan, Ấn Độ, Liên minh Nam Phi và
Ca-na-da. Còn liên minh với Đức có I-ta-li-a và Nhật Bản, sau đó có thêm
Hung-ga-ri, Ru-ma-ni, Bun-ga-ri.
Vai trò quyết định của Liên Xô trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít Đức
Ngày 22-6-1941, Đức và
đồng minh tiến công Liên Xô, mở đầu cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại.
Trên mặt trận Xô-Đức có tính quyết định trong Chiến tranh thế giới lần
thứ II, Hồng quân Liên Xô đã tiến hành các chiến dịch và trận đánh cực
kỳ ác liệt, gây nhiều tổn thất có tính quyết định đối với phát xít Đức
và buộc chúng phải rút lui. Liên Xô đã phải thực hiện một cuộc sơ tán và
di chuyển lớn nhất trong lịch sử thế giới để đưa nền công nghiệp và dân
chúng từ lãnh thổ phía tây sang phía đông. Trong trận đánh ở ngoại ô
Mat-xcơ-va, phát xít Đức lần đầu tiên phải nếm mùi thất bại kể từ ngày
đầu chiến tranh.
Tuy nhiên, đến mùa hè và
mùa thu năm 1942, quân đội Liên Xô đã bị tổn thất lớn trên sườn phía nam
của mặt trận Xô-Đức, vì thế quân Đức đã có điều kiện tiến sát bờ sông
Vôn-ga và Bắc Cap-ca. Mặc dù bị lâm vào tình trạng cực kỳ khó khăn trên
mặt trận Xô-Đức, Hồng quân Liên Xô vẫn kịp thời tổ chức lại lực lượng và
đập tan kế hoạch “chiến tranh chớp nhoáng” của phát xít Đức. Nền kinh
tế Liên Xô đã bắt đầu sản xuất loại vũ khí mới, cán bộ chỉ huy quân sự
có được nhiều kinh nghiệm cần thiết, tạo tiền đề để thay đổi cục diện
chiến lược trên mặt trận Xô-Đức.
Ngày 2-2-1943, Hồng quân
Liên Xô giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong trận đánh
Xta-lin-grat, tạo ra bước ngoặt căn bản trong cuộc Chiến tranh giữ nước
vĩ đại nói riêng cũng như trong Chiến tranh thế giới lần thứ II nói
chung. Bộ chỉ huy quân Đức buộc phải điều động lực lượng từ các mặt trận
khác và tập trung lực lượng dự bị vào hướng chống Liên Xô. Trong điều
kiện đó, các nước đồng minh đã giành chiến thắng trước quân Đức ở Bắc
Phi.
Trong các chiến dịch tiến
công tiếp sau đó, Hồng quân Liên Xô đã giải phóng U-crai-na,
Be-lô-ru-xi-a, Môn-đa-vi-a, các nước cộng hoà cận Ban Tích, giải phóng
thành phố Lê-nin-grat và bán đảo Crưm. Năm 1944, quân đội Liên Xô đã
đuổi quân Đức ra khỏi biên giới quốc gia và chuyển hoạt động quân sự
sang lãnh thổ các nước khác.
Chỉ tính riêng trên mặt
trận Xô-Đức, Hồng quân Liên Xô đã đánh tan tất cả các cụm lực lượng
chiến lược của phát xít Đức, bao gồm 314 sư đoàn và 47 lữ đoàn tinh nhuệ
nhất. Trong tình thế đó, các nước đồng minh với phát xít Đức gồm
Ru-ma-ni, Bun-ga-ri, Phần Lan và Hung-ga-ri rút khỏi cuộc chiến. Tháng
6-1944, các nước đồng minh chống phát xít gồm Mỹ, Anh và Pháp mở mặt
trận thứ hai đổ bộ lên vùng Nooc-măng-đi của Pháp. Lúc đó phát xít Đức
vẫn còn rất mạnh nên các lực lượng của Anh và Mỹ bị thất bại nặng nề
trong chiến dịch En-dat A-đen vào tháng 1-1945. Theo đề nghị của thủ
tướng Anh Sơc-sin, Hồng quân Liên Xô đã kịp thời điều động lực lượng tới
chi viện cho quân đồng minh và tạo điều kiện cho họ chuyển sang thế
tiến công.
Đầu năm 1945, Hồng quân
Liên Xô đập ta các lực lượng lớn của Hit-le trên lãnh thổ Ba Lan và Đông
Phổ, chiếm thành phố Bec-lin và phối hợp với quân đồng minh để hoàn
toàn tiêu diệt phát xít Đức. Hoạt động trên một phòng tuyến rộng, Hồng
quân Liên Xô đã giáng những đòn quyết định vào phát xít Đức, giải phóng
hoàn toàn các nước Trung và Đông - Nam châu Âu, buộc quân Đức phải đầu
hàng. Ngày 8-5-1945, ở ngoại ô thủ đô Bec-lin, Hiệp ước đầu hàng vô điều
kiện của phát xít Đức đã được ký kết. Chiến tranh giữ nước vĩ đại của
nhân dân Liên Xô kết thúc thắng lợi.
Mặc dù có nhiều nước tham
gia mặt trận đồng minh chống phát xít trong cuộc Chiến tranh thế giới
lần thứ II, nhưng Liên Xô phải chịu gánh nặng chủ yếu. Trên mặt trận
Xô-Đức diễn ra 37 chiến dịch tiến công quy mô lớn nhằm mục tiêu chiến
lược, trong khi đó trên mặt trận phía tây chỉ có 6 chiến dịch, trên mặt
trận I-ta-li-a và Bắc Phi-3 chiến dịch. Tổng thiệt hại về nhân lực của
quân Đức trong Chiến tranh thế giới lần thứ II và 13,4 triệu người trong
đó thiệt hại trên mặt trận Xô-Đức là 10 triệu người. Trong khi đó,
thiệt hại về nhân lực của Liên Xô trên mặt trận Xô - Đức là gần 27 triệu
người, trong đó có 8,6 triệu quân nhân Xô-Viết hy sinh trên các mặt
trận.
Đánh giá về vai trò của
của Liên Xô trong việc đập tan chủ nghĩa phát xít và giành chiến thắng
trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, trong một bức điện của Thủ tướng
Anh Sơc-sin gửi Xta-lin ngày 27-10-1944 có ghi: "Quân đội Liên Xô đã đập
tan bộ máy quân sự của phát xít Đức". Còn Tổng thống Mỹ Ru-dơ-ven khẳng
định: "Xét về quan điểm chiến lược lớn, thì một thực tế không thể bác
bỏ là số lực lượng và vũ khí của quân Đức do người Nga tiêu diệt lớn hơn
rất nhiều so với số tương tự của tất cả 25 quốc gia đồng minh chống
phát xít khác cộng lại”.
Hành động xuyên tạc lịch sử Chiến tranh thế giới lần thứ II có lợi cho ai?
Nếu trong thời kỳ “chiến
tranh lạnh”, các hành động xuyên tạc lịch sử Chiến tranh thế giới lần
thứ II chủ yếu liên quan đến việc đánh giá lại phần đóng góp của các
nước đồng minh trong chiến thắng đập tan chủ nghĩa phát xít Đức, thì sau
“chiến tranh lạnh” các nội dung xuyên tạc lịch sử lại diễn biến theo
một hướng khác nguy hiểm hơn và nghiêm trọng hơn. Nhiều nước phương Tây
đưa ra nhiều “bằng chứng” để chứng tỏ rằng Liên Xô cũng “có tội” như
nước Đức quốc xã trong việc gây ra Chiến tranh thế giới lần thứ II (!)
(2).
Từ lâu, các nước phương
Tây đã đưa ra lập luận rằng họ cũng “có tội” trong việc xoá bỏ chủ nghĩa
quốc xã cũng như trong việc công nhận vai trò đáng kể nhất của Liên Xô
trong cuộc chiến đập tan thảm hoạ diệt chủng đối với loài người. Định
hướng xuyên tạc lịch sử này trước hết nhằm xoá bỏ ký ức của cộng đồng
thế giới về cuộc đấu tranh thiêng liêng không chỉ của các dân tộc ở Liên
Xô mà cả cộng đồng quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát
xít. Thí dụ, nhiều quốc gia thuộc khu vực Ban Tích đã có quyết định tôn
vinh những công dân của họ đã từng phục vụ trong các đội quân phát xít
SS khét tiếng tàn bạo đã từng phạm tội sát hại dân thường vô tội, trước
hết là những người Do Thái, cũng như những người du kích Xô-Viết hoạt
động tại các khu vực giáp với biên giới của các nước cộng hoà này cũng
như trên lãnh thổ của họ. Còn các cựu chiến binh trong Chiến tranh thế
giới lần thứ II đã từng gan dạ chống lại chủ nghĩa phát xít Đức lại bị
chính quyền các nước đó truy đuổi. Thí dụ điển hình nhất về xu hướng
đáng lo ngại này là ông Va-xi-li Cô-nô-lốp (Vassili Kononov), đội trưởng
một đội du kích chống phát xít, sau chiến tranh đã từng là đại tá công
an Cộng hoà Lat-vi-a, đã bị Toà án tối cao Lat-vi-a quy kết “tội phạm
chiến tranh” và tội “diệt chủng”. Ông Va-xi-li Cô-nô-lốp đã bị chết sau 2
năm bị giam hãm trong nhà tù. Ở thành phố Ta-lin, thủ đô Cộng hoà
E-xtô-ni-a, chính quyền sở tại đã xây dựng một bức tường có dòng chữ "Ký
ức về những kẻ xâm lược" ngay dưới chân tượng đài “Chiến sĩ giải
phóng”. Tại thành phố Cu-tai-xi của Cộng hoà Gru-ri-a, chính quyền sở
tại đã phá tượng đài kỷ niệm “Vinh quang thuộc về những chiến sỹ hy sinh
trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại”. Đây chỉ là một số ít trong nhiều
hành động nhằm xoá bỏ quá khứ anh hùng của các dân tộc trong đại gia
đình Liên Xô trước đây. Nước Nga được kề thừa hợp pháp Liên Xô, cũng
đang bị kết tội gây ra Chiến tranh thế giới lần thứ II. Bằng cách cáo
buộc Liên Xô là “kẻ xâm lược” ngang hàng với Đức quốc xã, những kẻ xuyên
tạc lịch sử Chiến tranh thế giới lần thứ II cho rằng nước Nga ngày nay
phải chịu trách nhiệm về “hành động xâm lược” đó. Đáng chú ý là những
nước trước đây đã từng được Hồng quân Liên Xô giải phóng và cứu thoát
khỏi hoạ bị diệt dụng thì nay quay sang xuyên tạc vai trò của Liên Xô và
nước Nga, lấy đó làm “món quà” để được gia nhập NATO - liên minh quân
sự lớn nhất thế giới hiện nay lẽ ra đã phải được giải thể sau “chiến
tranh lạnh”.
Hành động xuyên tạc lịch
sử về Chiến tranh thế giới lần thứ II nhằm phục vụ cho ý đồ chiến tranh
xâm lược trong thời đại mới, khi các thế lực phản động và hiếu chiến
đang mưu toan giành ưu thế toàn diện nhằm thiết lập vai trò “lãnh đạo”
thế giới. Trước hết, những hành động xuyên tạc lịch sử ngày một trắng
trợn nhằm tạo “luận cứ” cho việc tiếp tục mở rộng NATO sang phía đông,
đưa hạ tầng cơ sở của liên minh này dịch chuyển về biên giới nước Nga.
Thậm chí, họ còn sử dụng lập luận này để biện minh cho hành động của
Gru-ri-a chống lại nước Nga khi phát động “Cuộc chiến tranh 5 ngày” ở
Nam Ô-xe-ti-a vào năm 2008.
Bằng một chiến dịch tuyên
truyền được dàn dựng công phu, các nước phương Tây tuyên truyền rằng
“nước Nga tiến hành xâm lược một nước Gru-ri-a nghèo khó”. Đây là một
trong những hậu quả thực tế của chiến dịch xuyên tạc lịch sử Chiến tranh
thế giới lần thứ II. Ngoài ra, hiện nay một số nước Đông Âu như Ba Lan,
Tiệp Khắc và Ru-ma-ni đã đồng ý cho Mỹ và NATO bố trí hệ thống phòng
thủ tên lửa và các căn cứ quân sự trên lãnh thổ của họ là xuất phát từ
“nguy cơ chiến tranh tiềm tàng” từ phía nước Nga (!).
Rõ ràng, những hành
động xuyên tạc lịch sử Chiến tranh thế giới lần thứ II nói chung và
Chiến tranh vệ quốc vĩ đại nói riêng đều nhằm đổi trắng thay đen để phục
vụ cho mục đích của một số thế lực hiếu chiến và xâm lược vẫn ôm ấp
tham vọng giành ưu thế toàn diện nhằm chiếm đoạt “không gian sinh tồn”
của các nước khác, vi phạm chủ quyền thiêng liêng của các quốc gia và
dân tộc. Các cuộc chiến tranh do họ gây ra trong những thập kỷ gần đây
đã chứng tỏ điều đó, trong đó cuộc chiến tranh ở Li-bi do NATO chỉ huy
đã vượt ra khỏi quyền hạn được uỷ nhiệm theo Nghị quyết 1973 của Hội
đồng bảo an Liên hợp quốc là một trong những minh chứng về xu hướng đáng
lo ngại này./.
Lê Việt Nga
----------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
1. Giá trị đích thực của
Chiến thắng vĩ đại và sự tồn tại nền văn minh của chúng ta.
http://nvo.ng.ru/history/2011-04-29/1_victory.html
2. Về vai trò quyết định
của Liên Xô trong cuộc chiến tranh tiêu diệt phát xít Đức.
http://www.warandpeace.ru/ru/exclusive/view/57730/