Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2011

Mỹ và Đông Nam Á 2011

(Toquoc)-Mỹ sẽ tiếp tục theo đuổi một chính sách can dự tích cực về  kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao tại Đông Nam Á. Nhưng cần rút kinh nghiệm bài học chính sách đối phó tình hình Ai Cập để đảm bảo sự nhất quán trong chính sách “trở lại châu Á”.
Việc Ngoại trưởng Mỹ bà Hillary Clinton mới đây được chọn là “Nhân vật Đông Nam Á năm 2010” mang lại một điều ngạc nhiên thú vị. Danh hiệu này nhằm tôn vinh những cá nhân có ảnh hưởng lớn tới việc củng cố mối quan hệ của Mỹ với Đông Nam Á. Khi thực hiện sự lựa chọn này, Trung tâm Nghiên cứu chiến lược quốc tế (CSIS) của Mỹ đánh giá đóng góp quan trọng nhất của người đứng đầu ngành ngoại giao Hoa Kỳ đối với quan hệ Mỹ-Đông Nam Á là có một tầm nhìn rõ ràng trong việc củng cố mối quan hệ của Mỹ tại khu vực và đã tích cực triển khai chính sách này trong năm 2010. Dưới sự lãnh đạo của nữ Ngoại trưởng, nước Mỹ đã xây dựng được nền tảng an ninh vững mạnh và sự can dự kinh doanh mạnh mẽ ở Đông Nam Á thông qua tăng cường quan hệ với ASEAN, ký Hiệp ước Hợp tác và Thân thiện (TAC), khởi xướng cuộc gặp cấp cao Mỹ-ASEAN, Mỹ tham gia Hội nghị cấp cao Đông Á. Bộ Ngoại giao Mỹ đã triển khai khuôn khổ đối tác mới với các nước ASEAN như Indonesia, Việt Nam và Malaysia, làm sâu sắc hơn quan hệ truyền thống với Philipinnes và Singapore. Bà Clinton còn đề xướng Sáng kiến Hạ nguồn sông Mê Kông nhằm hỗ trợ sự tăng trưởng bền vững và phát triển hạ tầng ở tiểu lục địa này.
Các máy bay F/A18F vừa được bổ sung vào lực lượng phòng vệ và răn đe của quân lực Australia
Tại cuộc họp báo kết thúc Hội nghị ARF 17, ngày 22/7/2010, bà đã có một tuyên bố mạnh mẽ gây chấn động liên quan Biển Đông: “Mỹ, cũng như các quốc gia khác, có lợi ích quốc gia đối với tự do hàng hải và tôn trọng luật quốc tế ở Biển Đông. (Mỹ) phản đối sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực bởi bất kỳ bên yêu sách nào... Mỹ đang sẵn sàng để tạo điều kiện thực hiện các sáng kiến và các biện pháp xây dựng lòng tin  phù hợp với Tuyên bố (Ứng xử của các bên trên Biển Đông)”. Tuyên bố này trở thành nền tảng chính sách của chính quyền Mỹ đối với vấn đề Biển Đông.
Người trong thiên hạ có thể khen hoặc phê phán các quan điểm thẳng thắn của Hillary Clinton, nhưng điều dễ nhận thấy chúng thích hợp với vị thế nước Mỹ hiện nay và với một khu vực tương quan quyền lực đang biến đổi nhanh chóng. Tuy vậy nhân các sự kiện dẫn tới sự sụp đổ các chính quyền thân Mỹ ở Trung Đông, các nhà quan sát cho rằng, phản ứng của Nhà Trắng đối với những diễn biến ở Ai Cập, từ đầu tới cuối, đều là sự giật gấu vá vai, cho thấy mâu thuẫn giữa việc bảo vệ lợi ích và việc phổ biến giá trị dân chủ về lâu dài trong chính sách ngoại giao của Mỹ. Bài học này cần được Washington nghiên cứu trong quá trình “trở lại châu Á”
Chiến lược quân sự, ngoại giao: Hợp tác chiến lược, cạnh tranh chiến lược
Kể từ sau cuộc chạy đua vũ trang giữa Mỹ và Liên Xô thời Chiến tranh Lạnh, lần đầu tiên người ta ghi nhận một làn sóng mới nâng cấp vũ khí và hiện đại hóa quốc phòng diễn ra với tốc độ mạnh mẽ, quy mô rộng lớn ở châu Á - Thái Bình Dương. Hai yếu tố tạo ra chiều hướng này, đó là sự phát triển nhanh chóng toàn diện của quân lực Trung Quốc; và Mỹ dường như “lực bất tòng tâm”. Một chuyên gia quốc phòng của Australia cho rằng, hiện nay có khả năng “hình thành một thế trận an ninh nghiêm trọng nhất kể từ Chiến tranh Thế giới thứ hai đến nay”. Báo cáo của các cố vấn quân sự nước này cho chính phủ Canbera  cho rằng, Australia cần tập trung phát triển quân sự để “triệt tiêu và uy hiếp lại tốc độ phát triển của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA)”.
Thích ứng với tình hình mới, tại cuộc họp báo ngày 26/1 ở Lầu Năm Góc, phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Mỹ Geoff Morrell cho biết Mỹ đang xem xét việc tăng cường hơn nữa sự hiện diện quân sự trong vùng châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Đông Nam Á, trong bối cảnh sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc.
Trong chiến lược quân sự mới nhất của Mỹ từ 6 năm nay, công bố hôm 8/2/2011, Lầu Năm Góc đề ra các phương hướng ưu tiên phân bổ quân sự Mỹ, trong đó khẳng định việc chú trọng và tăng cường nguồn lực vào các nước Đông Nam Á. Đây là phần đóng góp của Bộ Quốc phòng Mỹ cho Chiến lược An ninh Quốc gia Mỹ 2011. Chiến lược An ninh Quốc gia thường kỳ này là tổng hợp các đánh giá của chính phủ Mỹ về các đe dọa an ninh cũng như cách thức đối phó.
Bản chiến lược mới khẳng định quân đội Mỹ cần tìm cách “tăng chú ý và đầu tư nguồn lực vào Đông Nam Á và Nam Á”, tăng số lượng các cuộc tập trận với Thái Lan, Philippines và Việt Nam, cùng một số nước khác. Văn bản cũng chỉ ra nhu cầu mở rộng và làm sâu thêm quan hệ quân sự với Ấn Độ và Trung Quốc. Bộ Quốc phòng Mỹ bày tỏ “quan ngại về quy mô và mục đích chiến lược của quá trình hiện đại hóa quân sự Trung Quốc, cũng như thái độ ngày càng mạnh bạo của nước này trong không gian, không gian ảo, tại Hoàng Hải, Đông Hải và Biển Đông. (Mỹ) sẽ tiếp tục theo dõi sát sao sự phát triển quân sự của Trung Quốc cũng như tác động của nó lên cán cân quân sự ở khu vực”; quân đội Mỹ phải chuẩn bị sẵn sàng để đáp lại điều được gọi là “các khả năng chống tiếp cận” mà Trung Quốc đang triển khai. Quân đội Mỹ sẽ tìm kiếm các mối quan hệ chặt chẽ hơn với các đối tác Trung Quốc nhằm mở rộng các khu vực lợi ích và quan tâm chung, tăng cường hiểu biết, giảm bớt hiểu lầm và ngăn chặn các tính toán sai lầm.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates và người đồng cấp Trung Quốc trong chuyến thăm chính thức Bắc Kinh tháng 1/2011: Mỹ và Trung Quốc vừa tăng cường hợp tác chiến lược trên nhiều lĩnh vực, vừa đẩy mạnh khả năng răn đe và kiềm chế chiến lược về quân sự
Abraham M. Denmark, nhà nghiên cứu về châu Á-TBD tại Trung tâm An ninh Mỹ, trả lời phỏng vấn RFA, nhận xét Mỹ bắt đầu nhận ra rằng khu vực châu Á Thái bình Dương ngày càng đóng vai trò quan trọng cho sự ổn định của thế giới và cho lợi ích của Mỹ. Thứ nhất, vì sự phát triển kinh tế của khu vực Đông Nam Á, vì dân số đông đảo và vì vị trí địa lý của khu vực. Thứ hai, vì sự gia tăng về sức mạnh quân sự và chính trị của Trung Quốc trong khu vực mà Mỹ muốn đảm bảo sự hiện diện của mình ở khu vực này. Chính sách của Mỹ là theo đuổi một mối quan hệ rất tốt và hiệu quả với Trung Quốc đồng thời duy trì một khả năng quân sự cần thiết trong khu vực. Hai hành động này đúng là sẽ dẫn đến một mối quan hệ phức tạp nhưng không mâu thuẫn.
Giáo sư Simon Tay, người đứng đầu Viện Nghiên cứu các vấn đề quốc tế ở Singapore, nói: “Chúng tôi nhìn Trung Quốc với những mối hy vọng về kinh tế, nhưng lo ngại về vấn đề chính trị và an ninh. Chúng tôi trông đợi Mỹ tiếp tục mang lại ổn định và hòa bình, vốn là nền tảng của sự tăng trưởng và thịnh vượng của chúng tôi”.
Mặt khác, Mỹ muốn tìm kiếm cơ chế đối thoại an ninh quốc phòng khu vực. Ngày 1/2, Robert Scher, Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, nói tại Heritage Foundation, một viện nghiên cứu đặt tại Washington, bày tỏ mong muốn tăng cường tần suất cuộc họp cấp bộ trưởng quốc phòng các nước trong khuôn khổ Hội nghị ADMM+, lần đầu tiên tổ chức ở Hà Nội tháng 10/2010.
Ngày 14/2, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Michael Michalak đã rời Việt Nam, kết thúc 3 năm rưỡi nhiệm kỳ công tác của ông tại đây được đánh giá là thành công mỹ mãn, với việc mở rộng hơn nữa quan hệ Mỹ-Việt.
Chính quyền Obama đã cử ông David Shear, nguyên Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương của Bộ Ngoại giao Mỹ, làm Đại sứ mới tại Hà Nội. Ông David Shear là một nhà ngoại giao thông thạo tiếng Trung và tiếng Nhật sau nhiều năm du học tại Đài Bắc, Nam Kinh và Tokyo. Ông cũng là một chuyên gia về Trung Quốc, từng giữ chức vụ số hai tại Sứ quán Mỹ tại Malaysia. Một nhà ngoại giao thâm niên về châu Á có mặt tại Hà Nội sẽ giúp chính quyền Mỹ đưa sự hợp tác vào một giai đoạn mới tích cực hơn, nhằm củng cố các trụ cột quan hệ về kinh tế, an ninh, nhân quyền, giáo dục cũng như biến đổi khí hậu. Tại Campuchia,  chính quyền Mỹ cũng cử một nhân vật từng là phó Trợ lý ngoại trưởng Mỹ phụ trách châu Á-TBD, làm Đại sứ. Điều này cho thấy, chính quyền Mỹ muốn tăng cường chất lượng các cơ quan ngoại giao để dự báo chiến lược và thực thi đối sách thích hợp tại một khu vực đang diễn ra cạnh tranh chiến lược./. 
http://www.toquoc.gov.vn/Thongtin/O-Cua-Chau-A/My-Va-Dong-Nam-A-2011.html
Nguyễn Nguyên