Võ Minh Tập
1. Chương trình, sách giáo khoa:
Sách giáo khoa có vị trí
rất quan trọng, ở đó có đầy đủ những kiến thức cơ bản, phổ biến nhất giúp học
sinh vừa nắm những kiến thức cơ bản, hiện đại, vừa phát huy khả năng tự học, tự
nghiên cứu, là phương tiện để học sinh tiếp thu kiến thức mới, ôn tập củng cố
những kiến thức đã học, trả lời các câu hỏi, làm bài tập về nhà. Đồng thời sách
giáo khoa cũng là chỗ dựa quan trọng, đáng tin cậy của giáo viên trong giảng
dạy.
Hiện nay sách giáo khoa
đã được đổi mới theo hướng giảm tải chương trình, đảm bảo tình khoa học, tính
khả thi, và sự phân hóa giữa sách giáo khoa theo chương trình chuẩn và sách
giáo khoa biên soạn theo chương trình nâng cao. Năm học 2006-2007 và 2007-2008,
sách giáo khoa lớp 10 và lớp 11 được ban hành và áp dụng đại trà vào dạy học ở
trường THPT trong cả nước. Đối với ban khoa học xã hội, học sinh được học nâng
cao ở các môn: Văn, Sử, Địa và sách giáo khoa theo chương trình chuẩn các môn
còn lại. Đối với ban khoa học tự nhiên, học sinh được học nâng cao ở các môn:
Toán, Lí, Hóa và sách giáo khoa theo chương trình chuẩn các môn còn lại.Còn với
ban cơ bản, học sinh được học theo chương trình chuẩn và tùy mỗi trường sẽ tự
chọn trong số tám môn học có nội dung nâng cao hoặc tổ chức cho học sinh học bổ
sung thêm những nội dung nâng cao từ chương trình chuẩn theo yêu cầu của học
sinh.
Theo kế hoạch dạy học ở
trường phổ thông, phân phối số tiết cho bộ môn Lịch Sử lớp 10 là 1,5 tiết/ tuần
( kể cả sách giáo khoa cơ bản và nâng cao), lớp 11 là 1,5 tiết/tuần, còn lớp 12
là 2 tiết/ tuần)
Sách giáo khoa Lịch Sử
mới được trình bày đẹp hơn, in màu, dễ nhìn, đồng thời có lưu ý đến việc đảm
bảo kiến thức cơ bản, hiện đại, sát thực tiễn Việt Nam. Hơn nữa, sách giáo khoa còn
đảm bảo tính liên môn sao cho các môn học hỗ trợ lẫn nhau, đặc biệt sách giáo
khoa Lịch Sử mới có nội dung lịch sử Việt Nam và thế giới, là một sự tiến bộ so
với sách giáo khoa cũ. Đồng thời, trong khi sách giáo khoa cũ chỉ chú trọng đến
kênh chữ, kênh hình rất ít và chỉ mang tính chất minh họa, thì sách giáo khoa
mới đã khắc phục được hạn chế này.
Tuy nhiên nói như thế
không có nghĩa là sách giáo khoa mới không có khiếm khuyết. Sách giáo khoa mới
được soạn ra theo xu hướng tinh giảm chương trình, giảm tải gánh nặng cho các
em, nhưng thực ra kiến thức lại quá nặng trong khi phân bố chương trình chỉ là
1,5 tiết/ tuần, nhưng lại phân theo chương chứ không phân theo bài, ví dụ như
chương 1 phần lịch sử thế giới cận đại gồm ba bài: cách mạng Hà Lan và cách
mạng tư sản Anh, chiến tranh giành độc lập của thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ, và cách
mạng tư sản Pháp và chỉ dạy trong bốn tiết, mà bài cách mạng tư sản Pháp quá
dài bắt buộc phải dạy trong hai tiết, tức là hai bài còn lại mỗi bài một tiết,
trong khi bài cách mạng Hà Lan và cách mạng tư sản Anh lại nhiều kiến thức nếu
dạy trong một tiết bắt buộc giáo viên phải “chạy” để đảm bảo chương trình. Vì
vậy, bắt buộc phải có sự đổi mới ở cả giáo viên và học sinh, giáo viên phải có
phương pháp dạy học mới và học sinh phải tích cực, chủ động chiếm lấy kiến
thức. Nhưng trên thực tế, việc đổi mới phương pháp vẫn chưa được thực hiện một
cách đồng bộ.
2. Thực trạng dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay:
“ Bộ môn Lịch Sử luôn giữ
vị trí quan trọng trong chương trình đào tạo học sinh PTTH vì bộ môn Lịch Sử
rất có ưu thế trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Do nhận thức chưa đầy đủ hoặc
phiến diện về vai trò, ý nghĩa, chức năng của bộ môn lịch sử, nhiều người thậm
chí cả những nhà quản lí giáo dục giáo dục đã tỏ thái độ coi thường, không đối
xử với bộ môn này như những môn khác. Nhiều nhà quản lí cho rằng, trong thời kì
khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng, sử học cũng như các khoa học xã hội
nhân văn khác không thể có vị trí ngang hàng với khoa học tự nhiên- kĩ thuật. Ở
phương Tây đã có ý kiến về việc “khai tử khoa học lịch sử” và biến môn học này
trong nhà trường thành việc kể chuyện lịch sử”[1:6]
Đặc biệt, kết quả của các
kì thi tốt nghiệp, và thi tuyển sinh Đại học, số thí sinh đạt điểm môn Sử ở mức
yêu cầu là rất thấp
Bảng thống kê tỷ lệ học
sinh tốt nghiệp và đạt yêu cầu về bộ môn Lịch Sử trong 4 kì thi tốt nghiệp THPT
tại TP.HM
Kì thi
(nămhọc)
|
Tổng số
thí sinh
|
Tỷ lệ
tốt nghiệp chung
|
Tỷ lệ đạt yêu cầu
môn lịch sử
|
1996-1997
|
26190
|
80,66%
|
84,7%
|
1997-1998
|
29205
|
69,34%
|
62,48%
|
1998-1999
|
32134
|
92,76%
|
80,3%
|
1999-2000
|
35939
|
89,3%
|
93,62%
|
Bảng thống kê tỷ lệ bài thi đạt và không đạt yêu cầu môn Lịch Sử
qua các kì thi TSĐH vào trường ĐHSP TP. HCM
Kì thi
(năm)
|
Tổng số
bài thi
|
Đạt yêu cầu
(từ 5 đến 10 điểm)
|
Không đạt yêu cầu
(từ 0 đến 4,5 điểm)
|
||
Số bài thi
|
Tỷ lệ
|
Số bài thi
|
Tỷ lệ
|
||
1995
|
2121
|
575
|
27,11%
|
1546
|
72,89%
|
1998
|
3186
|
500
|
15,69%
|
1686
|
84,3%
|
1999
|
5809
|
1585
|
27,29%
|
4224
|
72,71%
|
2000
|
11522
|
4425
|
38,4%
|
7097
|
61,6%
|
2005
|
8956
|
308
|
3,44%
|
8648
|
96,56%
|
2006
|
9241
|
613
|
6,63%
|
8628
|
93,37%
|
Điều đáng nói ở đây là
những em chọn thi khối C tức là em đó có năng khiếu về các môn xã hội cũng như
đã có sự chuẩn bị hơn một năm, một khoảng thời gian không phải dài nhưng cũng
đủ để cho các em chuẩn bị kiến thức và tâm lí cho kì thi đại học này. Nhưng
nguyên nhân lại rất thấp, vậy nguyên nhân là vì đâu.
Thứ nhất, do quan niệm xã
hội không coi trọng các môn khối C, chỉ chú trọng các môn khoa học tự nhiên với
câu nói cửa miệng “ chuột chạy cùng sào mới vào ban C”.
Thứ hai, ở trường phổ thông thì môn Lịch Sử
được coi là môn phụ, không được các nhà quản lí của trường phổ thông quan tâm
chú ý. Thậm chí, nhà trường còn bố trí giáo viên không được đào tạo chuyên
ngành để dạy môn Lịch Sử. Việc bố trí dạy học “ trái ngành”, “cưỡng ép” càng
làm cho chất lượng dạy học môn Lịch Sử thêm tồi tệ và người ta càng có cớ để
coi thường môn Sử[1:6]. Tuy bị
coi là môn phụ nhưng tại các kì thi tốt nghiệp, môn Sử được coi là “cứu cánh”,
“vớt vát” điểm cho các môn khác. Việc bị coi là môn phụ nên giáo viên dạy Sử
cũng bị coi là giáo viên phụ, từ đó dẫn đến việc các em không yêu thích môn Sử,
hoặc nếu có yêu thích thì cũng bị bố mẹ cấm cản, có thể học bất cứ môn nào cũng
được nhưng không được học môn Sử. Do đó, dẫn đến sự việ một em thích môn Sử và
đã thi đậu vào đội tuyển học sinh giỏi của trường nhưng bố mẹ lại làm đơn rút.
Thứ ba,
xã hội cho rằng học Sử chỉ cần học thuộc, không cần tư duy, dẫn đến việc học
sinh nhàm chán.
Thứ tư,
đội ngũ giáo viên ở các trường phổ thông không được đảm bảo, vừa thiếu vừa yếu,
nhất là ở các vùng sâu, vùng xa. Hơn nữa, việc phải lo lắng về đời sống kinh tế
khiến giáo viên không quan tâm, chuyên chú trau dồi chuyên môn nghiệp vụ.
Nhiều ý
kiến cho rằng thực trạng môn Sử như hiện nay có một nguyên nhân bắt nguồn từ
lối dạy đọc- chép, không đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên. Tuy nhiên
tôi thấy nhiều tiết học diễn ra rất sôi nổi nhưng khi hỏi lại kiến thức cũ nhiều
em không nhớ hoặc chỉ nhớ loáng thoáng, mà một trong những nguyên nhân là do
học sinh không ôn lại bài cũ, không hệ thống kiến thức, không đặt các sự kiện
vào cùng một tọa độ để so sánh, đối chiếu để nhận thức rõ hơn về vấn đề. Vì vậy
một trong những nguyên nhân của thực trạng môn Sử hiện nay là ý thức học tập
cũng như phương pháp học môn Sử của học sinhTầm quan trọng của dạy
học liên môn trong dạy học Lịch Sử
Đối
tượng nghiên cứu của khoa học Lịch Sử bao gồm nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính
trị, quân sự, văn hóa, tư tưởng. Do đó, nghiên cứu, trình bày phải có kiến thức
của tất cả các lĩnh vực.
Các
khóa trình Lịch Sử ở trường phổ thông trình bày và cung cấp cho học sinh tiến
trình lịch sử thế giơi và dân tộc trên tất cả các mặt. Vì vậy để hiểu rõ cũng
như tránh nhận thức một cách rời rạc, tản mạn, thì việc chuẩn bị và vận dụng
kiến thức liên ngành là rất cần thiết.
Trong
dạy học nói chung và dạy học Lịch Sử nói riêng , nếu kết hợp trình bày miệng
với sử dụng đồ dung trực quan, tài liệu tham khảo của các khoa học khác thì bài
giảng sẽ hấp dẫn và hiệu quả hơn.
Thực
hiện dạy học liên môn trong xây dựng chương trìng, sách giáo khoa, trong dạy
học sẽ tránh sự trùng lắp. mất thời gian và tình trạng nặng nề, quá tải đối với
học sinh.
Trong
xu thế đổi mới phương pháp dạy học như ngày nay, làm sao vừa có thể đảm bảo
chương trình, học sinh vừa hiểu bài, cùng với nó là tạo ra tính tích cực ở học
sinh, thiết nghĩ dạy học liên môn là một trong những cách đảm bảo yêu cầu đó
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Ngô
Minh Oanh- Nhữ Thị Phương Lan- Đào Thị Mộng Ngọc, 2006, Tài liệu bồi dưỡng giáo
viên cốt cán trường THPT, môn Lịch Sử
2.
Lê
Vinh Quốc, 2007, Đề cương tóm tắt chuyên đề phương pháp dạy học lịh sử,
ĐHSPTPHCM