Trong bài phân tích đăng trên tạp chí Diễn đàn Đông Á (EAF) “The limits of chinese power in Southeast Asia”
nhà phân tích Evelyn Goh thuộc Đại học Luân Đôn nhận định “chính bản
thân việc liệt kê những nguồn vật chất ngày càng tăng của Trung Quốc
không cho thấy quyền lực lớn của Trung Quốc”.
Trung
Quốc là một trong những quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới không còn
là một sự khẳng định bị thách thức, nhưng chính bản thân việc liệt kê
những nguồn vật chất ngày càng tăng của Trung Quốc không cho thấy quyền
lực lớn của Trung Quốc.
Một
câu hỏi gây ấn tượng mạnh hơn là Trung Quốc làm thế nào để biến các
nguồn lực ngày càng phát triển của mình thành ảnh hưởng đối với những
lựa chọn chiến lược của các quốc gia khác cũng như những kết quả của các
sự kiện một cách hữu hiệu? Đông Nam Á là một trường hợp dường như "dễ
dàng" để tìm hiểu sức mạnh đang tăng lên của Trung Quốc. Căn cứ vào sự
không đối xứng đáng kể trong sức mạnh, nếu sức mạnh của Trung Quốc tăng
lên thì người ta có thể mong đợi nhìn thấy những sự ưa thích và cách ứng
xử bị thay đổi trong số các nước láng giềng yếu hơn khi đáp lại tình
trạng bị ép buộc, thuyết phục hay khích lệ. Những kết quả cho đến nay là
lẫn lộn. Trong khi Trung Quốc có thể khai thác phần lớn năng lượng kinh
tế của khu vực này theo một phương hướng thuận lợi, Bắc Kinh không phải
luôn tìm được hướng đi trong các cuộc xung đột về lãnh thổ và tài
nguyên.
Trên
đất liền của Đông Nam Á, sự tham gia của Trung Quốc vào các kế hoạch
phát triển kinh tế khu vực rộng lớn tạo tính khả thi cho sáng kiến Tiểu
vùng Mê Công mở rộng của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), thu hút đầu
tư quốc tế cho các dự án cơ sở hạ tầng. Những dự án đó liên kết các nước
nghèo hơn (Campuchia, Lào và Việt Nam) với các thị trường của Trung
Quốc và Thái Lan, trong khi cải thiện sự tiếp cận của Bắc Kinh đối với
các nguồn cung cấp nguyên liệu thô và hải cảng ở Ấn Độ Dương và biển Hoa Đông. Những kế hoạch đó cũng thúc đẩy sự quan tâm và đầu tư của Nhật Bản và Mỹ trong khu vực Mê Công.
Nổi
bật hơn, sáng kiến về một hiệp định thương mại tự do (FTA) với ASEAN đã
vượt qua được vấn đề phức tạp của việc khuyến khích một dự án hội nhập
kinh tế. Khi có hiệu lực vào năm 2010, FTA Trung Quốc-ASEAN hình thành
một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới, bao gồm 1,9 tỉ người
tiêu dùng và 4,3 nghìn tỉ USD trong thương mại.
Những
hoàn cảnh mà trong đó các ưu tiên tồn tại từ trước của những quốc gia
khác là không rõ ràng và chưa dứt khoát (như cuộc tranh luận vào những
năm 1990 về việc liệu nước Trung Quốc đang nổi lên có là một mối đe dọa
hay không) mang lại các cơ hội để Trung Quốc gây ảnh hưởng với các nước
láng giềng bằng cách thuyết phục họ rằng bài tường trình của Bắc Kinh là
chính xác hơn và hầu như chắc chắn mang lại lợi ích nhiều hơn. Chiến
dịch này, từ giữa những năm 1990, liên quan đến một bài tường trình khác
về Khái niệm an ninh mới mang tính hợp tác của Trung Quốc, cũng như "sự
trỗi dậy hòa bình" hoặc "sự phát triển hòa bình" của nước này khi Bắc
Kinh phấn đấu vì một "thế giới hòa đồng". Thông điệp đó được dự định đưa
ra để tái đảm bảo với các nước láng giềng rằng sự trỗi dậy của Trung
Quốc sẽ không đe dọa các lợi ích kinh tế hoặc an ninh của những nước đó
do những ý định hòa bình, những khả năng quốc gia hạn chế, con đường
phát triển đôi bên cùng có lợi và định kiến quốc tế đa nguyên của Trung
Quốc.
Lời
nói đi kèm với hành động chính sách. Ở Đông Nam Á, Trung Quốc đã thương
lượng các cuộc tranh chấp biên giới trên bộ (dù cho không phải là trên
biển) với Việt Nam; tham gia các thể chế của ASEAN; và công khai thực
hiện kiềm chế cũng như viện trợ trong các cuộc khủng hoảng tài chính
1997 và 2008. Sức mạnh mang tính thuyết phục của Trung Quốc đã bao gồm
sự khích lệ kinh tế. Các chương trình FTA Trung Quốc - ASEAN của Bắc
Kinh với một số nước ASEAN (việc dỡ bỏ từng phần các hàng rào thương mại
đối với những mặt hàng cụ thể) được các nhà phân tích Trung Quốc mô tả
là Trung Quốc "cho nhiều và nhận ít hơn", làm việc hướng tới quyền lợi
và việc làm giàu của các nước láng giềng.
Thế
nhưng có những hạn chế trong việc các nhà hoạch định chính sách ở Đông
Nam Á được đảm bảo đến mức nào liên quan đến mối đe dọa từ Trung Quốc.
Sức mạnh thuyết phục của Trung Quốc được bám rễ trong khả năng nước này
duy trì chính sách ôn hòa. Ngoài những nỗ lực bù đắp một số tác động bất
lợi từ sự cạnh tranh kinh tế của Trung Quốc, các nước láng giềng của
Trung Quốc cũng đang theo dõi cách ứng xử của Bắc Kinh trong những xung
đột lợi ích nghiêm trọng hơn.
Biện
pháp tốt nhất để đánh giá việc chuyển hóa sức mạnh thành ảnh hưởng là
trong những trường hợp mà một bên hùng mạnh buộc một bên khác phải thay
đổi chính sách đối với một vấn đề bất đồng nghiêm trọng. Trong trường
hợp của Trung Quốc và ASEAN, những vấn đề như vậy bao gồm Đài Loan, các
quan hệ quốc phòng với Mỹ và các chính sách đối với những tranh chấp
lãnh thổ. Trong những trường hợp khó khăn tiềm tàng này, cho tới nay,
khó có thể tìm thấy những thay đổi quan trọng trong chính sách của các
nước Đông Nam Á liên quan đến những hành động của Trung Quốc.
Trong
những trường hợp đó, Trung Quốc đã sử dụng hầu hết nỗ lực vào các tranh
chấp về những đảo san hô ở Biển Đông. Trung Quốc và ASEAN nhất trí với
Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông vào năm 2002, cam kết
với các cuộc thương lượng hòa bình. Thế nhưng, hải quân Trung Quốc đã
tiếp tục thực hiện tập trận để khẳng định những đòi hỏi chủ quyền của
nước này, dẫn đến các vụ đụng độ nhỏ với Việt Nam và Philíppin. Hai
tháng sau khi có được sự đồng ý của Việt Nam để phát triển các mỏ khí
đốt ngoài khơi bờ biển Việt Nam năm 2007, BP đã phải đình chỉ các hoạt
động, có tin nói là do Trung Quốc đe dọa không cho tập đoàn này tham gia
các hợp đồng năng lượng trong tương lai ở Trung Quốc. Trong tháng
3/2011, các tàu hải quân Trung Quốc đã tìm cách ngăn cản việc thăm dò
dầu mỏ của Philíppin trong các vùng biển mà Manila coi là của mình.
Tại
một hội nghị các bộ trưởng quốc phòng khu vực hồi tháng 6/2010, những
tuyên bố gợi ý rằng Trung Quốc giờ đây coi Biển Đông là một phần trong
"những lợi ích quốc gia cốt lõi" của nước này đã dẫn đến việc Bộ trưởng
Quốc phòng Mỹ Robert Gates phải cảnh báo là Mỹ "phản đối việc sử dụng vũ
lực và hành động gây trở ngại cho quyền tự do hàng hải". Một tháng sau,
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tái khẳng định "lợi ích quốc gia" của
Mỹ trong giải pháp hòa bình đối với những tranh chấp đa phương đó. Tháng
9/2010, sau khi Lực lượng phòng vệ bờ biển Nhật Bản bắt giữ một tàu
đánh cá của Trung Quốc vì bị cáo buộc thâm nhập vùng biển của Nhật Bản,
một cuộc tranh cãi đã nổ ra giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Một kết quả
trực tiếp là sự củng cố thêm lợi ích của Mỹ trong cách ứng xử của Trung
Quốc đối với các tranh chấp trên biển. Chính quyền của Tổng thống Barack
Obama đã công khai khẳng định rằng hiệp ước Mỹ - Nhật mở rộng tới quần
đảo Điếu Ngư/ Senkaku và tái nhấn mạnh tầm quan trọng của giải pháp hòa
bình cho tranh chấp, quyền tự do hàng hải và sự tôn trọng các luật biển
quốc tế ở Biển Đông.
Cách
ứng xử của Trung Quốc trong những tranh chấp đó là một trắc nghiệm mang
tính then chốt về những dự định của Bắc Kinh, và sự không khoan nhượng
của Trung Quốc đã mang lại kết quả ngược lại mong đợi một cách nghiêm
trọng, dẫn đến một sự xích lại gần nhau hơn trên khắp Đông Nam Á, Nhật
Bản và Mỹ. Những hành động của Bắc Kinh tác động đến những người bi quan
trong khu vực (những người không được thuyết phục bởi sự trỗi dậy hòa
bình của Trung Quốc) và hành động cưỡng ép liên tục có thể khiến cho các
nước láng giềng của Trung Quốc hướng tới những chính sách ngăn chặn mà
họ muốn tránh.
Cho
đến nay, có một vài ví dụ cho thấy hành động của Trung Quốc khiến cho
các nước Đông Nam Á làm điều mà họ đã không muốn làm. Cùng với thành
công của Bắc Kinh trong việc thuyết phục và khuyến khích, Trung Quốc đã
cho thấy sự thận trọng trong việc gây sức ép đối với các nước láng giềng
bằng những vấn đề thách thức nhất. Phản ứng dữ dội gần đây ở Biển Đông
có thể sẽ khiến cho Trung Quốc thận trọng hơn. Khả năng quân sự vẫn còn
hạn chế của Trung Quốc là một giải thích quan trọng vì sự hiện diện của
Mỹ vẫn đóng vai trò như là một sự răn đe đáng kể, đặc biệt trong các
tiếp cận biển và vũ đài an ninh.
Theo Eastasiaforum
Viết Tuấn (gt)
http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-trung-quoc/1505-1505