Tại
buổi trao đổi với chủ đề: “Biển Đông: Tranh chấp, nguy cơ và chính sách
ngoại giao” do Viện Nghiên cứu Hoàng gia về các vấn đề quốc tế tổ chức,
Michael Williams, Quyền chủ nhiệm Chương trình Châu Á của Chatham House
và ông Christian Le Miere, chuyên gia nghiên cứu về an ninh hàng hải và
lực lượng hải quân của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS) đã đưa
ra phân tích đánh giá về tình hình Biển Đông gần đây.
Phần trình bày của ông Lord Williams, quyền chủ nhiệm Chương trình châu Á của Chatham House:
Về
chủ đề này, tôi tập trung vào một số ý như sau: có nhiều tranh chấp và
chủ yếu là tranh chấp giữa những nước có tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa
và một số ít ở Hoàng Sa, những tranh chấp này liên quan đến Trung Quốc,
Đài Loan và 4 nước trong khối ASEAN là Việt Nam, Brunây, Philíppin và
Malaixia. Tôi tin rằng có nhiều mối nguy hiểm và những nguy cơ này ngày
càng gia tăng. Đây là nơi đã diễn ra nhiều cuộc đụng độ trong quá khứ,
chủ yếu là giữa Việt Nam và Trung Quốc, gần đây có thêm sự xung đột giữa
Philíppin và Trung Quốc. Đây cũng là nơi mà hai cường quốc chính là Mỹ
và Trung Quốc đang tăng cường sự hiện diện. Trung Quốc có những lý do rõ
ràng, còn Mỹ, dù nước này chưa bao giờ quay lưng lại với châu Á-Thái
Bình Dương nhưng nay đang thể hiện quyết tâm trở lại châu Á mạnh mẽ hơn.
Cuối cùng là các giải pháp ngoại giao, đây là điểm mấu chốt của vấn đề
bởi theo tôi hình như chưa có nhiều giải pháp ngoại giao. Nói về các
tranh chấp, phải nói đây là những tranh chấp đã có từ lâu đời. Chúng là
những nguyên nhân gây xích mích giữa Trung Quốc và 4 nước ASEAN, những
nước cùng tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa, đặc biệt là xích mích giữa
Trung Quốc và Việt Nam. Trong những ngày tháng cuối của cuộc Chiến tranh
Việt Nam, Trung Quốc đã nhân cơ hội này chiếm quần đảo Hoàng Sa từ
chính quyền miền Nam năm 1974. Sau đó, giữa Trung Quốc và Việt Nam lại
xảy ra một cuộc chiến lớn vào năm 1979 nhưng không có sự can dự của hải
quân trong cuộc chiến này. Gần một thập kỷ sau đó, lại có một cuộc đụng
độ gay gắt nổ ra giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra vào năm 1988, kết
quả là phía Việt Nam có 70 người thiệt mạng.
Nhưng
tại sao những vấn đề này lại trở nên nóng bỏng và quyết liệt trong thời
gian gần đây? Tôi nghĩ có một số nguyên nhân. Nguyên nhân đầu tiên là
kinh tế. Tất cả các bên tuyên bố chủ quyền đều tin rằng khu vực Biển
Đông này có nhiều trữ lượng dầu mỏ, khí đốt và tất cả họ đều muốn tiến
hành khai thác các nguồn tài nguyên này. Một nguyên nhân kinh tế nữa là
vùng ven biển ở nhiều nước đã bị việc đánh bắt hải sản làm cho kiệt quệ
và các tàu cá phải ra khơi xa hơn. Đặc biệt Trung Quốc là nước đang phải
đương đầu với vấn đề này, nước này có dân số quá lớn, khó đáp ứng đủ
nhu cầu cung cấp lương thực và thực phẩm. Những tranh chấp trên lại càng
quyết liệt do căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ, đặc biệt khi Mỹ tuyên
bố chuyển trọng tâm chiến lược sang châu Á-Thái Bình Dương. Ngay cả
trước khi Mỹ chuyển hướng sang châu Á-Thái Bình Dương, quan hệ của hai
nước này cũng đã căng thẳng trong những năm gần đây về nhiều vấn đề như
kinh tế, sứ quán Trung Quốc ở Bêôgrát bị ném bom năm 1998, và vụ máy bay
do thám Mỹ va chạm với máy bay chiến đấu Trung Quốc năm 2001. Mối quan
hệ Mỹ-Trung là mối quan hệ phức tạp và ngày càng khó khăn hơn trong
tương lai. Một sự việc gây ấn tượng mạnh là thất bại của hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN diễn ra tại Phnôm Pênh, Campuchia vào tháng
7/2012. Sau khi hội nghị kết thúc, một điều bất thường xảy ra trong lịch
sử 45 năm của ASEAN là không đưa ra được thông cáo chung hoặc bất cứ sự
đồng thuận nào. Không có được thông cáo chung là do họ không có được sự
nhất trí về vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, mặc dù hầu hết các thành
viên, bao gồm cả những nước không có tuyên bố chủ quyền như Inđônêxia
cũng đồng cảm với các nước có tuyên bố chủ quyền. Việc không đạt được sự
đồng thuận này là kết quả của sự can thiệp trực tiếp của Trung Quốc
thông qua một nước ASEAN – Campuchia - hiện trong thời điểm này là nước
thân cận nhất với Trung Quốc can dự vào.
Điều
đó đã làm mất đi sự đồng thuận và làm cho khối này khó có được một quan
điểm chung. Sự gây hấn của Trung Quốc thông qua Campuchia, tại hội nghị
ở Phnôm Pênh hoàn toàn là một bước phát triển rất đáng chú ý và điều
này đã được nói đến nhiều trong khu vực. Tất cả các nước ASEAN đều có
người Hoa sinh sống và có một nhân tố trong những tranh chấp là thái độ
chống người Trung Quốc thể hiện ở nhiều cuộc biểu tình tại các thủ đô
của các nước Đông Nam Á. Lấy Inđônêxia làm ví dụ. Là nước lớn nhất trong
ASEAN và không có bất kỳ tranh chấp lãnh thổ nào với Trung Quốc nhưng
Inđônêxia vẫn e ngại khi nhìn thấy sự gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông
và khi điểm cực nam trong tuyên bố lãnh thổ của Trung Quốc đã đến rất
gần vùng lãnh hải của Inđônêxia. Trong lịch sử Inđônêxia cũng là nước
gặp nhiều vấn đề về quan hệ với Trung Quốc. Hai nước này đã không có
quan hệ ngoại giao trong 1/4 thế kỷ, từ năm 1965 đến 1990 và gần đây vào
năm 1998, nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã diễn ra ở
Inđônêxia… Một trong những điều đáng lo ngại là sự hiện đại hóa vũ khí
đặc biệt là tàu ngầm của nhiều nước ASEAN. Có sự tranh đua giữa các nước
ASEAN trong việc mua tàu ngầm của Hàn Quốc, Pháp, Đức và Thụy Điển. Tôi
thấy không có nhiều giải pháp ngoại giao. Điều này sẽ còn gặp nhiều trở
ngại hơn nữa trong ASEAN trong việc tạo ra một vị thế chung, tiếp theo
sau hội nghị ở Phnôm Pênh.
Inđônêxia
được cho là có đóng một vai trò điều phối trong vấn đề này nhưng vị thế
của họ chưa đạt được như vậy và họ đồng cảm với các thành viên của
ASEAN. Nhóm Khủng hoảng Quốc tế trong một báo cáo gần đây về khu vực có
gợi ý về một mô hình nhóm các bộ trưởng của ASEAN nhưng tôi thấy mô hình
này cũng không khả quan. Còn Michael Wesley, trước đây là chuyên gia
của Viện Lowy ở Xítni, cho rằng Ôxtrâylia có thể đóng vai trò làm cầu
nối đưa ra một giải pháp cho tình hình sẽ ngày càng căng thẳng hơn này.
Tuy nhiên, vì Ôxtrâylia là đồng minh thân cận với Mỹ nên chắc chắc Trung
Quốc sẽ không coi Ôxtrâylia là một trung gian trung lập. Ngoài ra,
không có nhiều khả năng khác. Có một hướng mà tôi đưa ra được gọi trong
Hiến chương của Liên hợp quốc là “những thẩm quyền” của tổng thư ký. Ví
dụ như trước đây, dưới thời Tổng thư ký Perez de Cúella, Liên hợp quốc
đã đóng vai trò hỗ trợ Liên bang Xôviết rút quân khỏi Ápganixtan trong
năm 1989. Tôi cho rằng các nước ASEAN sẽ đồng ý với giải pháp có vai trò
của Liên hợp quốc, nhưng đối với Trung Quốc sẽ khó thuyết phục về
phương án này. Thời gian trôi đi, tôi tin rằng Trung Quốc sẽ thấy không
dễ chịu nếu quan hệ có vấn đề với các nước ASEAN, các nước châu Á láng
giềng và hy vọng lúc đó có thể tìm đến các giải pháp ngoại giao.
Phân tích
đánh giá của ông Christian Le Miere, chuyên gia nghiên cứu về an ninh
hàng hải và các lực lượng hải quân của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc
tế (IISS):
Trong
khi ông Lord Williams tập trung vào giải pháp ngoại giao và tầm quan
trọng chiến lược của các quần đảo thì tôi lại phân tích nhiều hơn về
việc mua sắm thiết bị quân sự, động thái của các lực lượng bán quân sự
và điều đó có ý nghĩa gì đối với giải pháp ngoại giao cũng như là tình
hình ở Biển Đông.
Trước
hết phải nói là có một quá trình mua sắm vũ khí quân sự chưa từng thấy
đang diễn ra ở Đông Á nói chung, và ở một phạm vi nào đó ở Đông Nam Á.
Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, việc mua sắm vũ khí đã được
thực hiện nhiều ở Đông Nam Á, sau đó bị thu hẹp lại do cuộc khủng hoảng
tài chính châu Á năm 1997. Lúc đó đã có nhiều thảo luận đề cập đến một
cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực Đông Nam Á và có những phản ứng
trái chiều về vấn đề này. Và hiện nay, lại đang diễn ra thảo luận về một
cuộc chạy đua vũ trang ở Đông Á. Tôi cho rằng đó chủ yếu xuất phát từ
động cơ hành động/phản ứng mà chúng ta chứng kiến trong một số vụ mua
sắm trang thiết bị quân sự trong khu vực. Ông Williams đã đề cập đến
việc mua tàu ngầm. Tàu ngầm là loại thiết bị rất hữu hiệu. Hiện Việt Nam
đang mua một số tàu ngầm vì không thể cạnh tranh được với những đội tàu
trên biển hiện đại hơn nhiều của Trung Quốc. Do vậy có bằng chứng cho
thấy có những động cơ hành động/phản ứng và do đó theo lý thuyết là có
một cuộc chạy đua vũ trang.
Nhưng
cũng có trường hợp mua tàu ngầm lại không nhất thiết vì lý do đó hoặc
không phải do sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ví dụ như Malaixia, đã mua 2
tàu ngầm trong những năm gần đây, không hẳn vì Trung Quốc mà có lẽ là vì
Xinhgapo, nước đối thủ trong khu vực trong nhiều thập kỷ qua. Mặc dù
điều này không được công khai thừa nhận nhưng có thể đó là động cơ chính
khiến Malaixia mua tàu ngầm. Philíppin thì lại bắt đầu trang bị vũ khí
cho mình qua việc xem xét những tàu do Mỹ tài trợ. Nhưng đây là một vấn
đề vô cùng phức tạp và chồng chéo, do đó về bản chất khó mà coi đây là
một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực. Tuy nhiên, đã có nhiều vụ việc
thường liên quan đến tàu bán quân sự hàng hải cho thấy có sự quyết đoán
hơn của Trung Quốc và tình trạng căng thẳng hơn ở khu vực này nói
chung. Thuật ngữ “sự quyết đoán” là một trong những tranh luận mang tính
học thuật lớn khi nói đến những hoạt động của Trung Quốc gần đây. Trung
Quốc không cho rằng họ hiếu chiến, mà họ chỉ phản ứng lại trước những
khiêu khích khác. Tôi có một chút đồng cảm với tuyên bố này. Những vụ xô
xát của các lực lượng bán quân sự xảy ra trên biển liên quan đến việc
cắt cáp thăm dò, hoặc các tàu tuần tra, ở Việt Nam trong năm 2011 một
phần liên quan đến các hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam và Philíppin, khiến Trung Quốc cho rằng nó làm thay đổi hiện trạng trong phạm vi nào đó. Chưa rõ liệu Trung Quốc có quyết đoán hay không, nhưng một điều chắc chắn là nước này đã tự tin hơn trong việc sử dụng các lực
lượng bán quân sự hàng hải trong chính sách ngoại giao của mình. Việc
sử dụng lực lượng bán quân sự trên biển này còn gọi là “ngoại giao hàng
hải cưỡng chế”, hay còn gọi là “ngoại giao bán pháo hạm”, nghĩa là dùng
lực lượng cưỡng chế để bắt ép hoặc cản trở các đối thủ thông qua sử dụng
các đội tàu không có vũ trang. Và đây chính là hình thức của lực lượng
tiềm ẩn đang được sử dụng tại đây.
Việc
sử dụng các lực lượng bán quân sự trên biển chứ không phải pháo hạm là
rất hiệu quả, đặc biệt đối với Trung Quốc do ba nguyên nhân chính sau:
Trước
hết, vì là tàu không trang bị vũ khí nên tất nhiên phi quân sự hóa tình
hình và không cho phép bất cứ khả năng nào làm leo thang quân sự. Thứ
hai, đây là cách thức rất hữu hiệu để Trung Quốc củng cố tuyên bố về chủ
quyền của mình. Chúng đóng vai trò như là một tuyên bố chủ quyền trên
thực tế và của chính họ, mặc dù họ không có tài liệu liên quan đến chủ
quyền chính thức đối với các khu vực này. Việc huy động các đội tàu bán
quân sự trên biển giống như đưa một xe cảnh sát đến một ngôi làng ở vùng
biên giới có tranh chấp bằng việc có chiếc xe cảnh sát hiện hữu ở đó,
nó chứng tỏ rằng bạn phải có quyền lãnh thổ ở khu vực đó. Nó không có cơ
sở pháp lý nhưng đó là sự hiện diện thực tế để duy trì chủ quyền. Cuối
cùng, đặc biệt là theo quan điểm của Trung Quốc, sử dụng các hình thức
bán quân sự hàng hải sẽ tránh bị lên án là thái độ đạo đức giả. Các lực
lượng bán quân sự trên biển không có vũ trang không gặp trở ngại về pháp
lý trong việc huy động và rất dễ dàng đóng vai vì những mục đích hòa
bình hơn là cho bất cứ lý do hiếu chiến nào. Người ta cho rằng có lo
ngại về việc sử dụng các lực lượng bán quân sự hàng hải và điều đó có
nghĩa là họ có thể làm giảm các rào cản dẫn đến bạo lực hoặc sử dụng bạo
lực. Họ dễ dàng mua sắm trang bị và duy trì. Đó là những chiếc tàu hoàn
toàn rẻ tiền nếu so với những đội tàu rất đắt tiền hiện đang được sản
xuất. Họ có khả năng lớn hơn trong việc có những hành động gây hấn… Do
đó tôi cho rằng có thể tiếp tục có sự đối đầu của các lực lượng bán quân
sự hàng hải không có vũ trang. Những nguyên nhân khác nhau này làm cho
các nước trong khu vực theo đuổi những hình thức ngoại giao cưỡng bức
đặc biệt.
Nhưng
cũng có thực tế rằng việc sử dụng các lực lượng bán quân sự cho thấy
không có nước nào thực sự tìm kiếm một giải pháp dựa trên xung đột. Đúng
là những hoạt động này thường được hỗ trợ bởi các mối đe dọa tiềm tàng
của lực lượng quân sự. Lấy ví dụ ở Biển Hoa Đông, việc triển khai gần
đây các tàu bán quân sự của Trung Quốc đã được hỗ trợ bởi một cuộc diễn
tập quân sự, diễn tập bắn đạn thật, nơi họ đã bắn 40 tên lửa ở vùng Biển
Hoa Đông như là một minh chứng và nhắc nhở về sự có mặt của lực lượng
quân sự Trung Quốc và chúng có thể được sử dụng và huy động nếu cần
thiết.
Tuy
nhiên, xung đột dường như không thể xảy ra trong khu vực tại thời điểm
này vì một loạt lý do khác nhau. Một trong những lý do đó là hậu quả
tiềm tàng của xung đột, cả về con người và tài chính. Còn nguyên nhân
khác thì tôi không chắc chắn liệu hoạt động quân sự sẽ diễn ra như thế
nào ở Biển Đông hiện nay. Ông Williams đã đề cập đến sự kiện năm 1974 và
chiếm quần đảo Hoàng Sa; năm 1988 là năm đầu tiên Trung Quốc tiến vào
quần đảo Trường Sa và đã xây dựng nhiều công sự ở đó. Nhưng bây giờ đối
với Trung Quốc, việc tiến hành bất cứ hoạt động nào đối với các bên có
tranh chấp chủ quyền ở Trường Sa sẽ ngày càng phức tạp…
Cuối
cùng là sự hiện diện của Mỹ và chiến lược chuyển hướng sang châu Á của
nước này. Tôi cho rằng việc sử dụng các lực lượng hàng hải bán quân sự
là một tín hiệu ngầm của Trung Quốc và các nước khác rằng nhiều con
đường ngoại giao vẫn còn để ngỏ và chúng ta không thể tránh khỏi hướng
tới một số loại xung đột giữa những quốc gia khác nhau, ngay cả khi họ
trang bị cho mình chính sách bảo hiểm có vũ khí. Quan điểm này hơi trái
ngược với những gì ông Williams đã nói. Nhưng vẫn còn nhiều lĩnh vực
khác nhau mà tiến bộ về ngoại giao có thể đạt được thông qua việc làm rõ
các tuyên bố hợp tác ở Biển Đông—những lĩnh vực này vẫn còn rất không
rõ ràng, đặc biêt về đường đứt khúc chín đoạn của Trung Quốc, nhưng
không có quốc gia nào không liên quan ở đây. Việt Nam không xác định
những đảo nào thực sự thuộc quần đảo Trường Sa. Philíppin có nhóm đảo
Kalayaan nhưng lại chưa rõ ràng liệu đó có phải là một tuyên bố vùng đặc
quyền kinh tế hay không. Việc làm rõ liệu những chi tiết là đảo hay bãi
đá theo qui định của luật hàng hải sẽ rất hữu ích. Thảo luận về chủ
quyền hàng hải một cách hợp tác hoặc thực hiện nguồn tài nguyên chung sẽ
là một cách tốt để thực hiện điều này. Đã có nhiều thảo luận ở hậu
trường về Bộ Quy tắc ứng xử sẽ là công cụ ràng buộc pháp lý và xây dựng
dựa trên Tuyên bố về cách ứng xử các bên ở Biển Đông năm 2002. Vì vậy,
việc hướng tới một Bộ Quy tắc ứng xử sẽ tiếp tục cho thấy các quốc gia
đang tìm kiếm một hướng đi hòa bình, để nếu không giải quyết được, thì
ít nhất cũng gác lại những tranh chấp này trong thời điểm hiện nay. Đây
là một quan điểm mà không nhất thiết phải phù hợp với những gì báo chí
nói về Biển Đông, hoặc ở một chừng nào đó ở Biển Hoa Đông, vào thời điểm
hiện nay, nhưng tôi cho rằng đó là điều sẽ hình thành nên khuôn khổ
ngoại giao ít nhất là trong vài năm tới./.
Theo Chathamhouse (ngày 23/10)
Hương Trà (gt)
http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/3158-van-de-bien-dong-tranh-chap-nguy-co-va-chinh-sach-ngoai-giao