Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2012

40. Trọng tâm châu Á - Thái Bình Dương trong chiến lược toàn cầu của Mỹ

18:8' 13/11/2012
TCCSĐT - Do vị trí, vai trò ngày càng quan trọng của châu Á - Thái Bình Dương, các cường quốc, đặc biệt là Mỹ, đã có những điều chỉnh chiến lược nhằm tăng cường ảnh hưởng, bảo vệ lợi ích của mình ở khu vực này. Trong “Chiến lược quốc gia cho thế kỷ XXI”, Mỹ xác định châu Á - Thái Bình Dương là một địa bàn quan trọng đối với an ninh quốc gia của Mỹ. Khi bắt đầu chuyến công du Đông Á ngay sau Hội nghị thượng đỉnh APEC (tháng 11-2011), Tổng thống Mỹ B. Ô-ba-ma tuyên bố: “Mỹ là một cường quốc Thái Bình Dương và chúng tôi tới đây để ở lại”. Còn Ngoại trưởng Mỹ H. Clin-tơn khẳng định, châu Á - Thái Bình Dương là ưu tiên của Mỹ và tương lai của Mỹ gắn với khu vực này.

1. Vì sao châu Á - Thái Bình Dương trở thành trọng tâm trong chiến lược toàn cầu của Mỹ?
Xét trên góc độ địa - chính trị và địa - kinh tế thì khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp giáp với nhiều đại dương, trong đó Thái Bình Dương là “cửa ngõ” nối liền Mỹ với thế giới. Hiện nay, dân số ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương chiếm khoảng 1/2 dân số thế giới; là khu vực có trữ lượng dầu mỏ, khí đốt rất lớn và tập trung sự trỗi dậy kinh tế của nhiều nước; dự trữ ngoại hối chiếm 2/3 tổng lượng của thế giới.

Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực phục hồi nhanh nhất và đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất sau những tác động sâu sắc của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu. Sự tăng trưởng chung của khu vực này dự báo vượt tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới nhờ nhu cầu nội địa và thương mại nội khối tăng giúp bù đắp sự suy giảm xuất khẩu sang các nền kinh tế phát triển. Từ khi bước vào thế kỷ XXI đến nay, kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương phát triển nhanh chóng. Đây là một trong những khu vực kinh tế phát triển năng động nhất, có thị trường mới nổi lớn nhất thế giới. Hiện nay, xuất khẩu ở khu vực này chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu, dự trữ ngoại hối chiếm 2/3, quy mô kinh tế chiếm hơn một nửa. Theo dự báo của công ty Goldman Sachs, trọng tâm kinh tế thế giới có thể nhanh chóng chuyển dịch sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc sẽ vượt Mỹ vào năm 2027. Đến năm 2050, 4 quốc gia châu Á và 8 quốc gia ven bờ Thái Bình Dương sẽ nằm trong danh sách những nền kinh tế hàng đầu thế giới. Nền kinh tế Đông Á lúc đó sẽ vượt xa Bắc Mỹ và châu Âu.

Khu vực châu Á - Thái Bình Dương ngày càng quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Thứ nhất, kim ngạch thương mại mỗi năm giữa khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ vượt 1.000 tỷ USD. Trung Quốc và Nhật Bản lần lượt là chủ nợ lớn thứ nhất và thứ hai của Mỹ. Mọi hoạt động mua bán trái phiếu Mỹ của hai nước này đều tác động với hiệu quả thực tế đối với chính sách kinh tế của Mỹ. Ba nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc nằm trong số 7 đối tác thương mại hàng đầu của Mỹ. Ngoại trưởng Mỹ H. Clin-tơn tuyên bố: “Về kinh tế, Mỹ không thể tách rời khu vực này. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của các công ty Mỹ sang các nước châu Á - Thái Bình Dương lên tới 320 tỷ USD, đồng thời tạo cơ hội việc làm lương cao cho hàng triệu lao động Mỹ”.

Thứ hai, Mỹ lo lắng chủ nghĩa khu vực ngày càng gia tăng ở châu Á sẽ tác động xấu đến lợi ích của Mỹ ở khu vực này. Những năm gần đây, các cơ chế hợp tác châu Á phát triển mạnh mẽ, mối liên hệ nội bộ khu vực ngày càng chặt chẽ. ASEAN “10+1”, “10+3”, Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, Hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông Mê Công... đã thể hiện sức sống mạnh mẽ trong khu vực. Ngày 1-10-2010, khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN chính thức khởi động toàn diện, khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Ô-xtrây-li-a - Niu Di-lân cũng chính thức có hiệu lực. ASEAN còn lần lượt xây dựng khu vực mậu dịch tự do với Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ. Ba nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đã xây dựng cơ chế hội nghị lãnh đạo định kỳ và cơ chế hội đàm cấp ngoại trưởng. Cơ chế hợp tác đa phương khu vực không ngừng gia tăng làm cho ý thức cộng đồng của cả khu vực cũng tăng lên. Theo tờ Washington Quarterly của Mỹ, châu Á đang hình thành mô hình phát triển kinh tế song song kiểu “mành trúc”, các công ty châu Á ngày càng có xu hướng xây dựng hệ thống sản xuất phục vụ chính khu vực của mình, đồng thời liên kết kinh tế đã mở đầu cho việc xây dựng đồng thuận văn hóa Đông Á.

Từ khi bước vào thế kỷ XXI đến nay, do phải tập trung vào cuộc chiến chống khủng bố và hai cuộc chiến tranh I-rắc và Áp-ga-ni-xtan, Mỹ lo ngại sẽ bị gạt ra khỏi các tổ chức kinh tế và an ninh khu vực quan trọng này, từ đó khả năng can dự vào châu Á của Mỹ sẽ yếu hẳn. Do đó, để ngăn ngừa việc xuất hiện trên Thái Bình Dương giới tuyến chia cắt Mỹ với châu Á, Mỹ cần phải tham gia tích cực hơn vào các cơ chế có thể định hướng tương lai của châu Á, xây dựng khuôn khổ hợp tác khu vực có lợi cho lợi ích của Mỹ.

Với mục đích đó, chính quyền B. Ô-ba-ma đã cố gắng nhấn mạnh ý tưởng Mỹ là “quốc gia ở châu Á - Thái Bình Dương” và là “nước lớn thường trú ở châu Á”, mong muốn tham gia bàn bạc những công việc liên quan đến tương lai của khu vực, can dự toàn diện vào các cơ chế đa phương của châu Á. Mỹ muốn Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) trở thành Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước châu Á, APEC trở thành Hội nghị Bộ trưởng Thương mại châu Á - Thái Bình Dương. Từ đó, khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ hình thành khuôn khổ một Hội nghị thượng đỉnh cộng thêm hai diễn đàn chức năng, Mỹ sẽ phát huy ảnh hưởng hiệu quả hơn trong tiến trình liên kết châu Á.

2. Những trụ cột trong chiến lược châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ
Về chính trị: trên Tạp chí Foreign Policy tháng 11-2011 có bài viết của Ngoại trưởng H. Clin-tơn “Thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ” với lập luận chính: Tương lai chính trị sẽ được quyết định ở châu Á chứ không phải ở I-rắc hay Áp-ga-ni-xtan. Mỹ trong thập niên tới sẽ tăng cường đầu tư về ngoại giao, kinh tế, chiến lược và các mặt khác tại châu Á - Thái Bình Dương.

Một trong những công việc quan trọng nhất đối với các nhà chính trị của Mỹ trong thập niên tới là tăng cường đầu tư về ngoại giao, kinh tế, chiến lược và các mặt khác tại châu Á - Thái Bình Dương do tầm quan trọng của khu vực này đối với chính trị toàn cầu và đối với Mỹ. Vậy chiến lược châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ sẽ gồm những trụ cột nào? Trước hết, Mỹ cần thực hiện một cách nhất quán chính sách mà Ngoại trưởng H. Clin-tơn gọi là ngoại giao “tiến công”, nghĩa là Mỹ tiếp tục triển khai các công cụ ngoại giao, bao gồm các chuyến thăm của quan chức cấp cao nhất, các chuyên gia phát triển, các đoàn liên ngành, các cán bộ ngoại giao thường trú, tới tất cả các nước và mọi ngõ ngách của khu vực. Chiến lược của Mỹ cũng sẽ tiếp tục phải lý giải được và điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi lớn và nhanh chóng đang diễn ra tại khu vực. Theo đó, chiến lược này sẽ gồm 6 nhóm hành động lớn sau:

Thứ nhất, tăng cường các mối quan hệ đồng minh an ninh song phương. Theo đó, Mỹ cùng với các đồng minh là Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Thái Lan, Phi-líp-pin cần duy trì đồng thuận về chính trị đối với những giá trị cốt lõi của quan hệ đồng minh; bảo đảm quan hệ đồng minh linh hoạt và có tính thích nghi để đối phó thành công những thách thức mới cũng như tận dụng cơ hội mới; bảo đảm khả năng phòng thủ và hạ tầng thông tin để có thể răn đe bất cứ sự khiêu khích nào của các nhà nước và thực thể phi nhà nước.

Thứ hai, tăng cường quan hệ với các quốc gia mới nổi là Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po, Niu Di-lân, Ma-lai-xi-a, Mông Cổ, Việt Nam, Bru-nây và các quốc đảo tại Thái Bình Dương. Quan hệ với Trung Quốc là một trong những mối quan hệ song phương có nhiều thách thức nhất đối với Mỹ. Do vậy, Mỹ cần có cách đề cập cẩn trọng, nhất quán và năng động trên cơ sở thực tế, tập trung vào kết quả và trung thành với các nguyên tắc và lợi ích của Mỹ.

Thứ ba, tăng cường can dự vào các thể chế khu vực. Mỹ tin rằng, việc đối phó với các thách thức xuyên quốc gia cần các thể chế có khả năng tập hợp nhiều nước; rằng cấu trúc khu vực sẽ tăng cường cơ chế pháp quyền, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo đảm tự do hàng hải vốn là những trụ cột của trật tự quốc tế. Do đó, Mỹ đã tiến hành can dự đầy đủ vào các thể chế khu vực, trong đó có các thể chế ASEAN, APEC và đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng chương trình nghị sự. Mỹ cũng đã mở cơ quan đại diện bên cạnh ASEAN tại Gia-các-ta. Bên cạnh việc cam kết củng cố APEC như là cơ chế hợp tác kinh tế quan trọng nhất tại châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ cũng nỗ lực sáng tạo và khởi động một số diễn đàn “tiểu đa phương” như Sáng kiến hạ nguồn Mê công (LMI) và Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương.

Thứ tư, mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư với khu vực. Nhằm thực hiện mục tiêu tăng gấp đôi xuất khẩu của Mỹ vào năm 2015, Mỹ đang tìm kiếm cơ hội để tăng cường quan hệ kinh tế với khu vực. Với Hiệp định quan hệ đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Mỹ không chỉ nhằm tạo ra tăng trưởng kinh tế, mà còn tăng trưởng với chất lượng cao hơn. Bên cạnh đó, Mỹ tiếp tục thông qua APEC, G20 và các quan hệ song phương để thúc đẩy mở cửa thị trường, giảm rào cản thương mại, tăng cường minh bạch và thực hiện cam kết thương mại công bằng.

Thứ năm, tăng cường hiện diện quân sự tại khu vực. Một mặt, Mỹ tiến hành “hiện đại hóa” các mối quan hệ quân sự với đồng minh tại Đông Bắc Á, mặt khác, tìm cách tăng cường hiện diện tại Đông Nam Á và Ấn Độ Dương. Mỹ sẽ triển khai tàu tuần tra duyên hải (tàu chiến gần bờ) tại Xin-ga-po; đã thỏa thuận với Ô-xtrây-li-a nhằm mở rộng hiện diện quân sự tại nước này. Mỹ cũng đang tìm cách tăng cường tiếp cận chiến thuật tại Đông Nam Á và Ấn Độ Dương.

Thứ sáu, thúc đẩy việc sử dụng “vũ khí” dân chủ và nhân quyền. Mỹ sẽ tiếp tục thúc giục các nước tiến hành cải cách nhằm tăng cường quản trị, bảo vệ nhân quyền và tăng cường tự do chính trị theo mô hình Mỹ.

Về kinh tế, TPP là một mắt xích quan trọng để Mỹ khẳng định sự tăng cường hiện diện tại khu vực, lấy TPP làm khâu đột phá, xây dựng hệ thống hợp tác châu Á - Thái Bình Dương do Mỹ chủ đạo. Cho dù hiệp định này liên quan đến nhiều vấn đề lợi ích cụ thể như thuế quan, tiền tệ, kỹ thuật cao và đàm phán trong thời gian dài, phức tạp, nhưng Mỹ tỏ ra rất nỗ lực thu hút sự chú ý của các quốc gia châu Á, thể hiện Mỹ là nhân tố không thể thiếu trong tiến trình xây dựng hệ thống hợp tác này.

Tập trung thúc đẩy sự thịnh vượng của Mỹ nghĩa là tập trung vào thương mại và sự cởi mở kinh tế trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhằm thực hiện mục tiêu tăng gấp đôi xuất khẩu của Mỹ vào 2015 do Tổng thống B. Ô-ba-ma đặt ra và tìm kiếm cơ hội để tăng cường quan hệ kinh tế với khu vực.

Tại Hội nghị APEC 19 (tháng 11-2011), vấn đề TPP nổi lên như một trọng tâm bàn thảo của 9 nước thành viên bên lề Hội nghị. Sự quan tâm của Nhật Bản, Ca-na-đa, Mê-hi-cô càng làm cho TPP trở nên quan trọng và Mỹ cũng không ngần ngại thể hiện chiến lược của mình trong tương lai thông qua TPP. Thông qua TPP, Mỹ muốn khai thác nhiều hơn thị trường nhiều tiềm năng này sau một thời gian có phần xao nhãng. Đặc biệt là trong bối cảnh hình ảnh của Mỹ bị sa sút nghiêm trọng bởi cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế thế giới 2008, bắt đầu từ Mỹ. Trong cuộc khủng hoảng đó, tương quan lực lượng giữa Mỹ và nhiều nước khác đã thay đổi, nhiều nguồn lợi đã vượt ra khỏi tầm tay của Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và nhiều khu vực khác trên thế giới. Mỹ muốn thông qua TPP để có thể gây dựng lại ảnh hưởng của mình tại khu vực này, sau đó tìm kiếm lại những lợi ích đã mất từ trước đó.

Rõ ràng, Mỹ không muốn mất vai trò người đứng đầu thực sự trong hợp tác tại châu Á - Thái Bình Dương, bất chấp sự không ổn định hiện nay của kinh tế Mỹ. Mỹ cam kết theo đuổi TPP như một mũi tên trúng hai đích. Một mặt, nó sẽ giúp Mỹ lấy lại các đồng minh trong khu vực, qua đó dọn đường cho việc tăng cường sự hiện diện của Mỹ trong tương lai. Mặt khác, giúp giải quyết phần nào những khó khăn nội tại của kinh tế Mỹ trong tương lai gần.

Với TPP, bước đi nhằm cụ thể hóa chiến lược mới trong nỗ lực chuyển trọng tâm chiến lược sang châu Á của Oa-sinh-tơn đã được khởi động. TPP mang tính chất kinh tế nhưng dường như nó đã mở ra một tương lai mới, với lợi ích mới, to lớn của Mỹ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đại diện Thương mại Mỹ R. Kớt mô tả hiệp định này như là một hiệp định của “thế kỷ XXI”, sẽ dẫn đến sự hưng thịnh trong hoạt động thương mại của khu vực.

3. Thách thức đối với việc chuyển trọng tâm chiến lược toàn cầu của Mỹ sang châu Á - Thái Bình Dương
Thứ nhất, Mỹ làm thế nào để phân phối cân bằng nguồn lực chiến lược? Về ý nghĩa địa - chính trị, Trung Đông vẫn là khu vực chiến lược hàng đầu trong chiến lược đối ngoại của Mỹ. Một thời gian tương đối dài từ nay về sau, Mỹ vẫn tập trung tâm sức chủ yếu vào khu vực này. Mỹ đã tiêu tốn 150 tỷ USD mỗi năm cho hai cuộc chiến ở I-rắc và Áp-ga-ni-xtan. Số tiền này chiếm 10-15% phần ngân sách bội chi của chính quyền Mỹ. Ngoài ra, từ năm 2010 đến nay, tình hình các nước A-rập tại Tây Á, Bắc Phi liên tục rối ren. Những nhân tố bất ổn mới đó không những đe dọa an ninh dầu mỏ của Mỹ ở khu vực này mà còn ảnh hưởng xấu đến quan hệ đồng minh giữa Mỹ và các nước trong khu vực, ảnh hưởng đến chiến lược chống khủng bố của Mỹ, dẫn đến một bộ phận lực lượng quân sự và nguồn lực ngoại giao bị lôi kéo trở lại khu vực này. Cho dù Mỹ không mong muốn, nhưng về khách quan, khu vực Trung Đông vẫn phân tán sự chú ý của Mỹ đối với châu Á - Thái Bình Dương.

Thứ hai, làm thế nào để xử lý mối quan hệ với Trung Quốc? Việc Mỹ xử lý mối quan hệ với Trung Quốc như thế nào sẽ quyết định hiệu quả lâu dài chiến lược châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ. Nguyên cố vấn quốc gia Mỹ Brê-din-xki đã nói: “Đối với những bất đồng, hai nước Trung - Mỹ nên xử lý trên tinh thần hiểu biết lẫn nhau. Nếu hai nước không thể củng cố và mở rộng hợp tác thì không những tổn hại đến lợi ích của hai nước mà còn bất lợi cho cả thế giới”. Nếu trong chính sách châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ quan tâm nhiều đến việc gây sức ép với Trung Quốc, bao vây và kiềm chế Trung Quốc thì sự điều chỉnh chiến lược châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ sẽ bị Trung Quốc phản ứng mạnh mẽ, từ đó sẽ tác động tiêu cực đến lợi ích của Mỹ. Mặc dù trong chuyến công du châu Á (tháng 11-2011) Tổng thống B. Ô-ba-ma đã có những tuyên bố cứng rắn nhưng cũng bày tỏ Mỹ “không lo ngại” Trung Quốc và không tìm cách ngăn cản sự phát triển của Trung Quốc.

Thứ ba, làm thế nào để Mỹ nhận thức vai trò của mình ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương? Mỹ là một bộ phận không thể tách rời của sự trỗi dậy kinh tế ở châu Á. Tuy nhiên, sự trỗi dậy về kinh tế và nâng cao vị thế địa - chính trị châu Á trước hết được quyết định bởi bản thân các nước châu Á. Mỹ là một trong những nước quan trọng trong hợp tác, đầu tư, cung cấp kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý cho các nước châu Á, nhưng châu Á cũng có tiềm năng thị trường to lớn và ưu thế phát triển lâu dài sau này. Giữa Mỹ và các nước châu Á có quan hệ mang tính phụ thuộc và bổ sung cho nhau. Nhiều nước châu Á hoan nghênh Mỹ tiếp tục tham gia các hoạt động kinh tế ở châu Á. Tuy nhiên, việc Mỹ tuyên bố mình “lãnh đạo châu Á” đã đi ngược lại tinh thần cơ bản “hợp tác bình đẳng” sẽ khiến cho nhiều nước châu Á cảnh giác.

Thứ tư, một nhân tố quan trọng thách thức Mỹ chính là Nga - một cường quốc Âu - Á. Hiện nay, Nga cũng đang tăng cường hợp tác với các nước châu Á - Thái Bình Dương để cân bằng lực lượng với phương Tây. Về kinh tế, Nga tích cực tham gia hợp tác và hội nhập với các nền kinh tế ở khu vực, nâng cao tính ảnh hưởng của họ đối với khu vực này. Nga chủ trương mở cửa miền Viễn Đông để thu hút đầu tư nước ngoài; áp dụng nhiều chính sách ưu đãi, đưa ra các hạng mục hợp tác, thành lập các khu vực kinh tế tự do ở các miền ven biển Viễn Đông. Nhiều nước, trong đó quan trọng là Nhật Bản, Hàn Quốc đang tích cực hợp tác với Nga phát triển kinh tế ở vùng này. Bên cạnh đó, Nga coi trọng xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc, Việt Nam, tập trung vào các lĩnh vực kinh tế, thương mại, kỹ thuật quân sự, trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi. Phát biểu tại Diễn đàn Hội nghị APEC (Ha-oai - 2011), cựu Tổng thống Nga Đ. Mét-vê-đép khẳng định: “Nga là một phần không thể tách rời của khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ở đây tập trung những dòng thương mại và tài chính lớn và việc hợp tác với khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tham gia vào các chương trình hội nhập khu vực dĩ nhiên là ưu tiên tất yếu của Nga”./.
Tuấn Anh