THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Hai, ngày 29/10/2012
TTXVN(Hồng Công 28/10)
Bài viết trên tờ “Tín báo” ngày 22/10 của Tiết Lý Thái, nghiên cứu viên Trung tâm hợp tác An ninh Quốc tế Đại học Standford.
Bốn mươi năm qua, Trung Quốc đại lục, Đài Loan và
Nhật Bản hai nước ba bên luôn tranh chấp chủ quyền về đảo Điếu
Ngư/Senkaku, cho tới nay tranh chấp càng mạnh mẽ hơn. Cách đây không
lâu, Nhật Bản thực hiện “quốc hữu hóa” đối với đảo Điếu Ngư/Senkaku, dẫn
tới chính sách đồng loạt phản đối của Đại lục, thậm chí có lúc tình
hình trở nên vô cùng căng thẳng, tuy vậy, tình hình đảo Điếu Ngư/Senkaku
nay bỗng xuất hiện sự thay đổi kỳ diệu.
Đầu tiên, Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda thừa
nhận Tôkyô trước đó đã sai lầm khi đánh giá về những phản ứng có thể xảy
ra của Trung Quốc. Quả thực là ban đầu Tôkyô không đánh giá được Bắc
Kinh sẽ phản ứng mạnh mẽ như vậy.
Ngày 10/10, hãng tin Kyodo đưa tin Tôkyô đang
nghiên cứu phương án thỏa hiệp, áp dụng rằng quan chức Nhật Bản “nhận
thức thấy” phía Trung Quốc có đòi hỏi chủ quyền liên quan, cho rằng cách
làm như vậy vừa có thể duy trì được lập trường kiên định của Nhật Bản,
vừa có thể xem xét tới lập trường Trung Quốc yêu cầu Nhật Bản thừa nhận
sự tồn tại của tranh chấp chủ quyền. Theo tin, phía Nhật Bản phán đoán
Trung Quốc xây dựng mục tiêu ngắn hạn trong tranh chấp đảo Điếu
Ngư/Senkaku là ép phía Nhật Bản thừa nhận “tồn tại tranh chấp chủ
quyền”, tức phương pháp như vậy có tính khả thi.
Mỹ không muốn nhìn thấy chiến tranh Trung-Nhật
Động thái trên cho thấy phía Nhật Bản lộ ra kỳ
vọng dùng biện pháp thỏa hiệp để làm dịu quan hệ căng thẳng giữa hai
nước. Điều này hoàn toàn khác biệt so với lập trường cứng rắn của Nhật
Bản trước ngày 11/9.
Tiếp đó, lập trường của Mỹ cũng có thay đổi. Ngày
28/9, trong cuộc gặp với ngoại trưởng Nhật Bản tại Niu Yoóc, Ngoại
trưởng Mỹ Hillary đã nhắc nhở một cách bất thường (rằng) Nhật Bản cần
thận trọng xử lý quan hệ ngoại giao với Trung Quốc; về sự căng thẳng
trong quan hệ Trung-Nhật do tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku gây ra, bà
Hillary chỉ rõ khi hành động, Nhật Bản cần “thận trọng”. Thứ trưởng
Ngoại giao phụ trách vấn đề châu Á-Thái Bình Dương Mỹ Campbell cũng có
thái độ tương tự khi thúc giục Nhật Bản cần hành động thận trọng.
Hiện nay, nền kinh tế Trung Quốc đang đứng ở vị
trí thứ hai, hy vọng chiếm ngôi thứ nhất thế giới, nằm ở vị trí then
chốt đang trỗi dậy. Thực lực kinh tế của Trung Quốc và Nhật Bản đứng vị
trí thứ hai và thứ ba thế giới, khi hai bên phát sinh xung đột, va chạm,
Mỹ đương nhiên vui mừng đứng ngoài quan sát. Tuy nhiên, Mỹ thực sự cũng
không hy vọng xảy ra chiến tranh giữa hai nước này. Huống hồ, phương
Tây đang đánh bài ngửa quân sự với Têhêran xung quanh vấn đề vũ khí hạt
nhân của Iran, suy cho cùng thì tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku chỉ là
vấn đề nhỏ, vấn đề hạt nhân của Iran mới là nguồn căn của cơn bạo bệnh.
Quan sát kỹ thái độ của Mỹ trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku có thể
thấy được sự thay đổi tinh tế trong lập trường của Mỹ.
Theo phán đoán của các nhà chiến lược Trung Quốc,
mấy năm gần đây xung quanh Trung Quốc liên tục dậy sóng, hình thành cục
diện nguy hiểm bốn bề, cơn sóng lớn bao trùm nằm ở quyết định chiến
lược quay trở lại Châu Á của Mỹ và 65% lực lượng hải quân và không quân
của Mỹ sẽ bố trí tập trung ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Mỹ quyết định quay trở lại châu Á, đương nhiên
phải dựa vào sự phối hợp và ủng hộ của Nhật Bản, Hàn Quốc, ngược lại,
cũng tất phải coi trọng lời hứa đảm bảo quốc phòng cho đồng minh của Mỹ.
Nhật Bản có chỗ dựa nên không còn e sợ, xuất kích bốn phía
Về chiến lược an ninh Đông Bắc Á, Mỹ và Nhật Bản
không hẳn là cùng hội cùng thuyền, mà là “giống nhưng có khác”. Bắc Kinh
cần chú ý đến điều này khi đưa ra quy hoạch chiến lược.
Để duy trì cục diện chính trị ở khu vực châu
Á-Thái Bình Dương, Mỹ cần chú ý đề phòng trước ảnh hưởng mang tính khu
vực do sự tăng cường sức mạnh quốc gia của Trung Quốc tạo ra, Mỹ chỉ nên
trông chờ vào hành động chi viện của Nhật Bản chủ yếu giới hạn ở vùng
biên Đài Loan; còn Nhật Bản thì dựa vào những lời hứa của Mỹ nên đã nhân
cơ hội ra tay “xử lý việc riêng”, hy vọng Mỹ đồng ý để Nhật Bản có hành
động quân sự “ra bên ngoài”. Điều này chính là nguồn cơn của việc Nhật
Bản đã xuất kích tứ phía” mấy năm gần đây với tinh thần cứng rắn chưa
từng có trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku; ngoài ra còn tranh cướp
đảo Dokdo/Takeshima với Hàn Quốc, mở rộng phạm vi tranh chấp lãnh thổ
với Nga ở phía Bắc, kích động các tranh chấp ngoại giao.
Nếu quan hệ Trung-Nhật tiếp tục xấu đi, thậm chí
xảy ra xung đột quân sự thì sẽ không tránh khỏi ảnh hưởng tới lợi ích an
ninh quan trọng của Mỹ. Trước tiên, hòa bình và sự ổn định của khu vực
châu Á-Thái Bình Dương sẽ chịu tác động lớn, thậm chí mở rộng phạm vi.
Tiếp sau, dân chúng Trung-Nhật chịu tác động của lịch sử thù hận, dễ
bùng phát xung đột, sau khi nảy sinh xung đột, do nhân tố trong nước
(Trung Quốc) thiếu khả năng khống chế sự lan tràn của các hành động quân
sự, rất có khả năng xung đột leo thang. Trong tình huống này, Mỹ tất sẽ
bị cuốn vào và đó sẽ là thảm kịch mà các bên xung đột khó tránh khỏi.
Xung đột phá vỡ cục diện quân sự tại châu Á-Thái Bình Dương
Nói đến cục diện chính trị Đông Bắc Á, thì Nga
không có hy vọng chấn hưng, trong tương lai gần, chưa thể nói tới sự
thống nhất giữa hai miền. Triều Tiên sức ảnh hưởng của các nước trong
khu vực này thì chỉ có Trung Quốc và Nhật Bản. Nói về lợi ích chiến lược
của Mỹ, điều quan trọng hơn là, cho dù cuộc chiến Trung-Nhật diễn biến
như thế nào thì đều sẽ tác động trực tiếp tới sự tồn tại quân sự của Mỹ
tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, từ đó làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới
an ninh của nước Mỹ.
Trung-Nhật bùng nổ xung đột, sẽ có hai kết quả:
Nếu Mỹ-Nhật hợp lực đánh thắng Trung Quốc thì Trung Quốc suy sụp, không
chấn hưng được, Nhật Bản xưng bá ở Đông Á. Sự uy hiếp xung quanh Nhật
Bản đã hết, lực lượng kìm kẹp bị mất đi, Nhật Bản tất sẽ đánh giá lại
giá trị của Hiệp ước bảo đảm an ninh Mỹ-Nhật, không sớm thì muộn Nhật
Bản cũng mượn cớ làm theo yêu cầu của người dân đế ép Mỹ rút quân khỏi
Okinawa cũng như lãnh thổ Nhật Bản. Mỹ đã tiêu diệt được mối đe dọa từ
một Trung Quốc đang trỗi dậy, song lại phải đối diện với mối đe dọa của
một Nhật Bản đã từng trỗi dậy, đó cũng là “trăm sông về một biển”.
Nếu xảy ra chiến tranh, các bên tham chiến sẽ có
khả năng dẫn đến nguy cơ chiến tranh hạt nhân, nếu không có thỏa hiệp,
Trung Quốc tất sẽ “chơi sòng phẳng” với Mỹ và Nhật Bản. Nếu Mỹ tham
chiến mà không chế ngự được Trung Quốc, Nhật Bản tất sẽ nhìn Trung Quốc
với con mắt khác, sẽ tôn trọng quyền lợi và yêu cầu của Trung Quốc hơn.
Như vậy, về trật tự an ninh thế giới, Hiệp ước đảm bảo an ninh Mỹ-Nhật
trên thực tế đã có sự thay đổi về chất.
Từ đó có thể thấy chỉ cần Trung Quốc và Nhật Bản
xảy ra xung đột quân sự ở mức độ cao, thì cho dù kết thúc như thế nào,
cục diện quân sự ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương đều sẽ bị phá vỡ, từ
đó trực tiếp ảnh hưởng tới tổng thể lợi ích an ninh của Mỹ ở khu vực
này.
Mỹ không hy vọng các bên độc tôn xưng bá
Diễn biến của tranh chấp Trung-Nhật xem ra đều
chịu sự hạn chế bởi vai trò của Mỹ trong ván cờ chiến lược khu vực Đông
Bắc Á. Mỹ sẽ tăng cường sức ảnh hưởng, hạn chế mọi khả năng của Trung
Quốc và Nhật Bản trong tình hình cục diện xấu đi. Nếu xung đột quân sự
Trung-Nhật nổ ra Mỹ cũng sẽ đứng giữa kêu gọi điều đình, giúp đỡ bên
chịu thiệt hại, ngăn chặn cục diện độc tôn xưng hùng của bất cứ nước nào
ở Đông Bắc Á.
Nói tóm lại, Mỹ và Nhật Bản có lập trường tương
đối khác nhau, ngay cả trong vấn đề quan trọng nhất là đối đầu với Trung
Quốc. Nhật Bản hy vọng nổi lên ở Đông Á, do đó không thể tránh khỏi cần
phải hành động để dìm ép Trung Quốc. Tuy nhiên; Mỹ lại chỉ muốn có một
sự cân bằng giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Nói cách khác, lập trường của
Mỹ chính là một nhân tố kiềm chế các bên trong ván cờ chiến lược Đông
Bắc Á.
*
* *
TTXVN (Bắc Kinh 25/10) Ngày 17/10, mạng “Quan điểm Trung Quốc” đăng bài viết của chuyên gia Lưu Vệ Đông về nhân tố Mỹ trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku, nội dung như sau:
Tháng 9 năm nay, Ngoại trưởng Mỹ H.Clinton và Bộ
trưởng Quốc phòng Leon Panetta đã lần lượt đến thăm Bắc Kinh. Đáng chú
ý, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ William Bums lại đến thăm Trung Quốc từ ngày
16- 17/10. Mục đích chuyến thăm Trung Quốc lần này của Thứ trưởng Ngoại
giao W.Burns được dư luận bên ngoài phổ biến cho rằng có liên quan đến
tình hình căng thẳng tranh chấp lãnh thổ tại Đông Bắc Á, nhưng vấn đề
dường như không đơn giản như vậy. Vì bên cạnh “sứ mệnh hòa bình” mà
W.Burns đem lại, Mỹ còn điều hai tàu sân bay được vũ trang toàn diện đến
khu vực này. Rốt cuộc Mỹ mong muốn đóng một vai trò như thế nào trong
tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku giữa hai nước Trung-Nhật?
Lịch trình chuyến thăm 3 nước Đông Bắc Á
Trung-Nhật-Hàn lần này của W.Burns tiếp tục được thực hiện tuần tự như
trong lịch sử, trạm thứ nhất đến Nhật Bản, trạm thứ hai đến Hàn Quốc và
tiếp theo đến Trung Quốc. Mục tiêu chủ yếu của Mỹ là thực hiện quay trở
lại châu Á-Thái Bình Dương để mở rộng sức ảnh hưởng toàn diện của mình.
Hơn nữa giữa Mỹ và 3 nước Đông Bắc Á vẫn tồn tại một số vấn đề cần thông
qua kênh song phương để giải quyết, cho nên hoàn toàn không thể cho
rằng mục đích chủ yếu trong chuyến thăm lần này của W.Burns là nhằm vào
tranh chấp Trung-Nhật xung quanh đảo Điếu Ngư/Senkaku. Nhưng, lợi ích
cốt lõi của Mỹ tại Đông Bắc Á là duy trì khu vực này hoà bình ổn định và
thịnh vượng, điều này hoàn toàn không phải lời đường mật của chính
khách Mỹ muốn dùng để lấy lòng các nước Đông Bắc Á, mà là nhu cầu lợi
ích hiện thực của Mỹ. Suy cho cùng con đường cường thịnh cơ bản của Mỹ
là dựa vào năng lực sản xuất hùng mạnh để hưởng lợi trong thương mại tự
do toàn cầu, trong khi để làm được điều này bắt buộc phải có thị trường
bên ngoài ổn định làm sự bảo đảm cơ bản. Do tranh chấp Trung-Nhật xung
quanh đảo Điếu Ngư/Senkaku ngày càng quyết liệt, rủi ro xảy ra xung đột
dân sự cục bộ, thậm chí là xung đột quân sự đều đang tăng lên, Mỹ tất
nhiên mong muốn lợi dụng sức ảnh hưởng lớn mạnh của mình đối với cả với
Trung Quốc và Nhật Bản để kiểm soát hữu hiệu quan hệ Trung-Nhật, điều
chỉnh mối quan hệ này phù hợp với sự vận hành trong phạm vi lợi ích của
bản thân nước Mỹ.
Đối với Mỹ, một quan hệ Trung-Nhật lý tưởng là
duy trì sự ổn định cơ bản trong sự cọ sát nhỏ liên tiếp. Cọ sát quá
quyết liệt, hoặc quan hệ Trung-Nhật quá mật thiết, đều không phù hợp với
lợi ích của Mỹ, do vậy Mỹ thông qua mọi phương thức cả công khai lẫn bí
mật để tiến hành can thiệp “mang tính uốn nắn”. Trước khi vấn đề đảo
Điếu Ngư/Senkaku trở nên gay gắt, Mỹ cho rằng quan hệ Trung-Nhật vẫn
chưa ở vào trạng thái cần khống chế, cho nên khi Ngoại trưởng Mỹ
H.Clintơn thăm Trung Quốc và bày tỏ về vấn đề này vẫn còn tương đối
thoải mái. Sau khi Nhật Bản quốc hữu hoá đảo Điếu Ngư/Senkaku và Trung
Quốc đưa ra phản ứng quyết liệt ngoài dự đoán của cộng đồng quốc tế,
Chính phủ Mỹ đã nhận thức đầy đủ được tính nghiêm trọng của vấn đề, bắt
đầu chuyển từ thái độ “từ chối làm nhà hoà giải” mà W.Burns từng nói
sang định vị vai trò là “trọng tài trung lập”. Bản thân Mỹ không có lợi
ích hiện thực trong vấn đề đảo Điếu Ngư/Senkaku. Đối với Mỹ, đảo Điếu
Ngư/Senkaku thuộc về ai đều không quan trọng, nhưng vì Trung Quốc – quốc
gia quan trọng nhất châu Á và Nhật Bản – liên minh quan trọng nhất của
Mỹ tại châu Á đều hết sức coi trọng thái độ của Mỹ trong vấn đề này, cho
nên Mỹ không thể không từ bỏ lập trường úp mở, lấy lòng cả hai, thậm
chí đứng ngoài cuộc trong vấn đề đảo Điếu Ngư, chuyển sang hy vọng thông
qua sự can dự của mình để ngăn chặn tình hình tiếp tục xấu đi, đề phòng
tranh chấp Trung- Nhật đi quá giới hạn tác động bất lợi đến lợi ích của
Mỹ tại Đông Á.
Lập trường chính thức của Mỹ trong vấn đề đảo
Điếu Ngư/Senkaku luôn thể hiện hai điều là không giữ lập trường trong
vấn đề quy thuộc chủ quvền, nhưng khẳng định Hiệp ước Bảo đảm an ninh
Nhật-Mỹ thích hợp cho trường hợp đảo Điếu Ngư. Có thể cho rằng, vế thứ
nhất là Mỹ nói cho Trung Quốc nghe, vế thứ hai là nói cho Nhật Bản nghe.
Với cách Mỹ giữ thái độ như vậy, Trung-Nhật đều có thể có được những gì
mình muốn, đồng thời chấp nhận sự kiểm soát của Mỹ trong quan hệ
Trung-Nhật. Nhưng vấn đề là Nhật Bản cho rằng vế thứ nhất mà Mỹ đưa ra
là yếu ớt vì đảo Điếu Ngư/Senkaku nằm dưới sự kiểm soát thực tế của Nhật
Bản và bản thân Mỹ cũng ủng hộ quyền kiểm soát thực tế của Nhật Bản,
cho nên Nhật Bản không dám phá vỡ hiện trạng, thách thức giới hạn cuối
cùng của Trung Quốc. Cũng có thể nói thái độ lập trường xem ra tự mâu
thuẫn với chính mình của Mỹ đã đẩy tranh chấp đảo Điếu Ngư không ngừng
leo thang và đây là biểu hiện thứ nhất thể hiện sự mâu thuẫn giữa lời
nói và lợi ích của Mỹ.
Biểu hiện thứ hai là, để ngăn chặn tình trạng
tranh chấp đảo Điểu Ngư tiếp tục leo thang, Mỹ đã phái biên đội tàu sân
bay tiến hành uy hiếp Khách quan mà nói, điều này hoàn toàn không có
nghĩa là Mỹ nhất định sẽ trực tiếp bắt tay với Nhật Bản để tấn công
Trung Quốc sau khi Trung-Nhật xảy ra xung đột quân sự, sức mạnh của tàu
sân bay chủ yếu được coi là một dạng công cụ thể hiện sức mạnh nhằm ngăn
chặn tình hình leo thang và đưa ra phản ứng nhanh chóng trước khủng
hoảng, bản thân nó hoàn toàn không có tính khuynh hướng rõ rệt. Nhưng do
Mỹ luôn coi Trung Quốc là đối thủ tiềm tàng và coi Nhật Bản là đồng
minh quan trọng, cho nên động thái này của Mỹ hiển nhiên bị Trung Quốc
coi là khiêu khích, trong khi Nhật Bản lại coi là hành động trợ giúp.
Thế là việc Mỹ phái lực lượng đến duy trì hoà bình nhanh chóng chuyển
thành một nguyên nhân làm tăng rủi ro xung đột khu vực. Về điểm này e
rằng Mỹ cũng hoàn toàn bất ngờ.
Hiện nay, tranh chấp Trung-Nhật xung quanh đảo
Điếu Ngư/Senkaku đã diễn biến thành một dạng đối kháng sức mạnh song
phương, mắc một chút sai lầm đều có thể dẫn đến xung đột mà hậu quả khó
có thể tiên lượng. Hễ một bên súng bị cướp cò, tình hình có thể vượt ra
ngoai phạm vi kiểm soát của Chính phủ hai nước. Vì vậy, hiện nay ngoài
việc tích cực tiến hành hoà giải và giảm áp lực, Mỹ không còn sự lựa
chọn nào khác. Một trong những mục đích chủ yếu trong chuyến thăm Đông
Bắc Á lần này của W.Burns là nắm rõ tình hình và khuyên giải các bên.
Sau khi hội đàm với các quan chức cấp cao Nhật Bản, W.Burns sẽ thông báo
cho phía Trung Quốc về suy nghĩ của Chính phủ Nhật Bản trong vấn đề này
và Chính phủ Mỹ hy vọng sẽ đạt được mục đích, đồng thời mong muốn tìm
hiểu các biện pháp đối phó liên quan của phía Trung Quốc, để tiện cho
việc đặt nền móng cho các cuộc điều đình trong giai đoạn tiếp theo.
Trung-Nhật là hai đối tượng qua lại chủ yếu của Mỹ tại Đông Bắc Á, trong
khi Trung-
Nhật lại nằm trong top 3 các nước có nền kinh tế
lớn nhất toàn cầu, nên đối với Mỹ, xử lý tốt quan hệ 3 bên là nhiệm vụ
đặc biệt quan trọng trong tổng thể chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của
mình, Mỹ không thể không đầu tư nguồn lực vào khu vực này. Nhưng, chính
sách “trung tâm và các vệ tinh” truyền thống của Mỹ tại Đông Bắc Á vốn
đã tồn tại thiếu sót, nhất là sau khi Trung-Nhật hoàn thành hoán đổi địa
vị tại châu Á, đối xử như thế nào với Trung Quốc và Nhật Bản trong thời
kỳ mới sẽ trở thành vấn đề khó khăn đặt ra trước mắt Mỹ. Vai trò của
Trung Quốc là toàn diện, trong khi Nhật Bản chỉ là một đối tác an ninh;
ảnh hưởng của Trung Quốc khắp toàn cầu, trong khi giá trị của Nhật Bản
chủ yếu chỉ hạn chế ở khu vực châu Á; nhưng bên cạnh đó, Trung Quốc lại
là đối tượng ngăn chặn chủ yếu của Mỹ, trong khi lo ngại của Mỹ đối với
Nhật Bản lại ít hơn nhiều. Bối cảnh đan xen phức tạp như vậy khiến cho
Mỹ tỏ ra lực bất tòng tâm trong xử lý quan hệ Trung-Nhật, đến mức khó có
thể định vị chính xác rốt cuộc Mỹ là thiết bị dẫn cháy hay thiết bị dập
lửa trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku giữa Trung Quốc và Nhật Bản.
Sự lúng túng của Mỹ đã hiện rõ, điều này cũng có nghĩa chuyến thăm Đông
Bắc Á lần này của W.Bums lại một lần nữa không thành công.
*
* *
TTXVN (Hồng Công 28/10)
Trong bối cảnh căng thẳng giữa Trung Quốc và các nước Đông Bắc Á đang gia tăng mạnh trong thời gian gần đây, Mỹ đã xúc tiến chiến lược trở lại châu Á. Nhiều chuyên gia đã cho rằng chiến lược này của Mỹ là nhằm mục đích kiềm chế và bao vây Trung Quốc. Báo mạng Asia Times Online vừa đăng bài phân tích cho rằng Mỹ đang lôi kéo các đồng minh Đông Bắc Á, đặc biệt là Nhật Bản, vào cuộc đối đầu với Trung Quốc. Dưới đây là nội dung bài viết:
Richard Armitage – Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ dưới
thời cựu Tổng thống George W Bush, là người đảm trách nhiệm vụ “nói với
Nhật Bản phải làm gì”. Thủ tướng Nhật Bản khi đó, ông Junichiro Koizumi,
đã từng hai lần xem xét việc tham gia “liên minh tự nguyện” tại Irắc và
Armitage đã nói với một quan chức: “Đừng lùi bước”. Trước đó, Armitage
đã tư vấn cho Nhật Bản “kéo quân ra khỏi bờ biển và chắc chắn rằng lá cờ
của đất nước mặt trời mọc sẽ được trông thấy tại cuộc chiến ở
Ápganixtan”
Giờ đây, trong một báo cáo cùng thực hiện với
Joseph Nye gửi cho Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế (CSIS),
ông Armitage tuyên bố: “Nhật Bản nên đối mặt với các vấn đề mang tính
lịch sử đang tiếp tục làm phức tạp hóa quan hệ với Hàn Quốc”. Báo cáo
được công bố ngày 15/8, trong lúc căng thẳng giữa Nhật Bản và các nước
láng giềng đang dâng cao. Người dân Hàn Quốc, Trung Quốc và các nước
châu Á khác đã trải qua một thời kỳ kinh hoàng dưới thời phát xít Nhật,
và mặc dù Tôkyô nhiều lần đưa ra lời xin lỗi cũng như bồi thưòng chiến
tranh, nhiều người dân tại các nước đó vẫn cho rằng Nhật Bản đã không cư
xử đủ để bù đắp những sai lầm trong lịch sử. Hàng triệu người Nhật Bản
cũng đồng tình với quan điểm này.
Tuy nhiên, những sửa chữa sai lầm đã bị giảm giá
trị với những chuyến thăm gây tranh cãi đến các hòn đảo tranh chấp chủ
quyền, các cuộc biểu tình rầm rộ và những yêu cầu xin lỗi được cho là sẽ
làm trỗi dậy tinh thần dân tộc chủ nghĩa của tất cả các bên.
Kiểu mẫu của chủ nghĩa thống trị
Không ai nói rằng vượt qua những khác biệt này là
mong muốn của cả Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Tuy nhiên, điều đó
sẽ giúp các nước hợp tác hòa bình và sử dụng toàn bộ nguồn lực cho việc
giải quyết các vấn đề tại đây và ngay lúc này. Hầu hết trong số đó, sẽ
bảo đảm cho công lý. Nhưng chính xác là tại sao Armitage và Nye lại hối
thúc Nhật Bản làm như vậy?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải xem xét một
trong số những khuyến nghị của họ đối với Nhật Bản. Những khuyến nghị
này bao gồm việc thận trọng nối lại hoạt động điện hạt nhân, quyết định
đơn phương của Nhật Bản gửi tàu phá mìn tới Vịnh Pécxích khi xuất hiện
những tín hiệu đầu tiên ám chỉ đến ý định của Iran về việc muốn đóng cửa
eo biển Hormuz, “tăng cường cộng tác với Mỹ tham gia giám sát tại Biển
Đông và mở rộng phạm vi trách nhiệm của Nhật Bản, trong đó có sự phòng
thủ của Nhật Bản và hoạt động phòng vệ cùng với Mỹ trước những biến cố
tại khu vực.”
Điều cuối cùng cần sự giải thích: đó là việc xem
xét đến phòng thủ tập thể (sử dụng lực lượng để bảo vệ một nước đồng
minh). Điều 9 trong Hiến pháp Nhật Bản về vấn đề tham chiến đã cấm điều
này. Việc ngăn cấm này là một trong những lý do mà Điều 9 vẫn được tôn
trọng, biến nó thành một vấn đề lịch sử khác làm phức tạp các vấn đề đối
với sự phô trương sức mạnh của người Mỹ. Báo cáo lưu ý rằng sự hỗ trợ
của quân đội Mỹ đối với Nhật Bản sau trận động đất và sóng thần ngày
11/3/2011 đã hình thành một tiền lệ về sự hỗ trợ lẫn nhau với Lực lượng
phòng vệ Nhật Bản. Điều này đã rõ ràng ngay từ đầu rằng cụm từ “bạn bè”
được dùng để người dân Nhật Bản chấp nhận sự hiện diện của quân đội Mỹ
dễ dàng hơn.
Trong những ngày này, người Mỹ đã sử dụng nhiều
ngôn từ khéo léo và khẳng định sự tôn trọng của họ đối với các ý kiến
trong xã hội khi đưa ra yêu cầu đối với Nhật Bản – ít nhất là về mặt
công khai. Nhưng liệu đó có là vấn đề đối với các tác giả của báo cáo,
khi mà những cuộc điều tra đều cho thấy sự ủng hộ đối với việc hạn chế
điện hạt nhân. Có thể là không!
Michael Green, một cựu quan chức khác trong Chính
quyền Bush, người tham gia viết báo cáo này, đã đánh giá việc phản đối
điện hạt nhân tại Nhật Bản là chủ nghĩa NIMBY (chủ nghĩa lợi ích cục bộ
địa phương) – chỉ vài tuần trước sự cố tại Fukushima. Tất nhiên, các tác
giả khẳng định rằng tất cả là vì lợi ích của Nhật Bản, nhưng lạ thay,
trong sự trình bày của họ, Nhật Bản hiếm khi có lợi ích xung đột với Mỹ.
Thử hình dung những phản ứng mạnh từ Quốc hội Mỹ nếu một nhóm các cựu
quan chức Nhật Bản đưa ra mệnh lệnh đối với Mỹ – khuyên nhủ họ, chẳng
hạn như làm thế nào để giải thích về luật pháp của họ và sử dụng lực
lượng vũ trang của họ.
Tuy nhiên, những báo cáo như vậy có thể vấp phải
phản ứng từ phòng họp của giới chức Nhật Bản. Sự hình thành mang tính
bảo thủ đã tồn tại từ lâu trong những điều cấm ở Điều 9. Bất chấp nhiều
cuộc đối thoại về “quyền lực mềm,” khuynh hướng áp đảo là giao phó vấn
đề an ninh cho lực lượng quân sự – đầu tiên, dưới “cái ô hạt nhân” Mỹ,
nhưng tăng lên mức các lực lượng của Mỹ và Nhật Bản “diễn” chung trong
một “buổi trình diễn,” dưới sự chỉ huy toàn bộ của Mỹ. Đương nhiên là
như vậy!
Tất cả những điều này phù hợp với sự miêu tả của
McCormack rằng Nhật Bản đóng vai trò là một “quốc gia đối tác” của Mỹ,
với “một bên mang thân phận nô lệ, hạ mình và một bên coi thường bên còn
lại.” Khi thủ tướng Nhật Bản Yukio Hatoyama nỗ lực hình thành Cộng đồng
Đông Á và giảm bớt mạnh của các căn cứ quân sự Mỹ tại Okinawa, ông
Yukio Hatoyama đã bị trừng phạt bằng một bức tường đá chống lại từ phía
Chính quyền Obama và đã phải từ chức sau chưa đầy chín tháng cầm quyền.
Kể từ đó, các thủ tướng Nhật Bản đã bám chặt hơn vào người Mỹ. Mặc dù
ngày càng xuất hiện nhiều hơn những lời kêu gọi về việc xem xét lại liên
minh này xét trên góc độ về một thế giới đa cực ngày càng tăng, báo cáo
gửi CSIS nhằm mở rộng vai trò của Nhật Bản dưới quyền lãnh đạo của Mỹ.
Với các mối liên kết pháp lý và con người lâu nay giữa hai thể chế an ninh quốc gia của hai nước, điều này có thể thành công.
Kích hoạt những sự phản đối
Và trường hợp này được coi là một sự mâu thuẫn.
Như những quan sát của Philip Seaton trong cuốn “Những Ký ức chiến tranh
gây tranh cãi của Nhật Bản”, Mỹ đóng vai trò là một nước kích động các
chính trị gia Nhật Bản đã hủy bỏ những lời xin lỗi trước đây về các hành
động trong thời chiến tranh với những hành động và ngôn từ gây hấn:
Xét tổng thể, chính sách của Mỹ, kể từ sau vụ
khủng bố 11/9 rõ ràng là hữu ích đối với phe bảo thủ Nhật Bản. Chính phủ
Mỹ hỗ trợ cho Chính phủ Nhật Bản về bồi thường (bất chấp bị người dân
Mỹ chỉ trích) nhằm loại bỏ các yếu tố theo chủ nghĩa hòa bình trong pháp
luật của Nhật Bản không lên án việc thờ cúng tại ngôi đền Yasukuni, nơi
thờ cúng tất cả những quân nhân Nhật bị phe Đồng Minh kết tội phạm tội
ác chiến tranh và thúc đẩy mạnh mẽ việc tái vũ trang của Nhật Bản. Một
số nhà nghiên cứu mới của Mỹ đã khuyến cáo Nhật Bản nên tự vũ trang bằng
vũ khí hạt nhân để đối phó với nguy cơ từ Bắc Triều Tiên, một đề xuất
kinh khủng đối với nhiều người Nhật Bản.
Tất cả các điều này được xem là “sai lầm khi giải
quyết quá khứ” nếu Chính phủ Nhật Bản đơn phương theo đuổi, khi đó tội
đồng lõa của Nhật Bản với đồng minh quan trọng nhất trong cái “sai lầm
khi giải quyết quá khứ” trở nên rõ ràng.
Báo cáo của Armitage và Nye rõ ràng muốn khẳng
định sự đồng lõa này. Tăng cường khả năng tấn công và phạm vi hoạt động
của quân đội Nhật Bản là điều cuối cùng có thể xoa dịu những ký ức cay
đắng của phát xít Nhật trong suốt thời kỳ 15 năm chiến tranh 1931-1945.
Và muốn khuyến khích sự tin tưởng vào lực lượng quân sự thì hãy để những
vết thương này có thể lành lại.
Do vậy, mục tiêu chính của báo cáo này mâu thuẫn
với lời kêu gọi vượt qua các vấn đề lịch sử của nó. Nếu nhóm của
Armitage có bất kỳ quan tâm thực sự nào tới việc sửa chữa sai lầm quá
khứ trong chiến tranh, họ sẽ là nhừng con diều hâu xem xét những phàn
nàn của người Trung Quốc cũng như của người Triều Tiên, mà không đề cập
tới các nạn nhân của sự tàn ác của người Mỹ.
Thay vào đó, họ lại cho sự gây hấn ngày càng tăng
của Trung Quốc là lý do chính cho sự hỗ trợ quân sự Mỹ-Nhật. “Các nhà
quản lý đồng minh” tại Oasinhtơn và Tôkyô đã mượn cớ triệt để mâu thuẫn
với Trung Quốc (và Bắc Triều Tiên) để vượt qua sự phản đối khi họ giới
thiệu ngày càng nhiều hệ thống vũ khí tại Nhật Bản. Và một khuyến nghị
mà báo cáo không đưa ra – trong dịp tưởng niệm 75 năm vụ thảm sát Nam
Kinh – là Nhật Bản phải đối mặt với càng nhiều sự xúc phạm về những gì
đã gây ra tại Trung Quốc.
Không, các chuyên gia của CSIS thích thú với việc
tranh luận về lịch sử chỉ với một chừng mực rằng nó liên quan đến mục
tiêu chiến lược của Mỹ: Nhật Bản và Hàn Quốc phải ngừng cãi vã, như vậy
hai nước này mới có thể được Mỹ sử dụng hiệu quả hơn để chống lại Trung
Quốc. Khi Hàn Quốc, trong thế đối mặt với sự phản đối của dư luận tập
trung vào các tranh cãi lịch sử, vội vã ký kết một thỏa thuận chia sẻ
tình báo với Nhật Bản, đó là một tin rất xấu tại Lầu Năm Góc. Chắc chắn,
bản báo cáo hối thúc “nhanh chóng tiến tới chấm dứt” thỏa thuận này.
Trong một buổi thuyết trình báo cáo, Armitage nói
một cách đầy thán phục về “nỗi nhục quốc gia” của Nhật Bản, dường như
không để ý đến vai trò của Điều 9 trong việc xây dựng nó. Armitage và
Nye viết rằng Nhật Bản có thể bỏ qua báo cáo của họ trừ phi muốn trở
thành một “quốc gia bậc một – nghĩa là cùng cấp với nước Mỹ, với “sức
mạnh kinh tế đáng kể, tiềm lực quân sự, tầm nhìn toàn cầu, và vai trò
lãnh đạo chủ chốt đối với các vấn đề quốc tế . Điều đó có nghĩa nếu muốn
trở thành một quốc gia mạnh mẽ thì hãy tiến về phía trước. Tuy nhiên,
Armitage kỳ vọng về “một Nhật Bản mà trong đó người Nhật trẻ tuổi có thể
mơ ước, chứ không chỉ tồn tại”. Để làm được cái điều “không chỉ là tồn
tại” rõ ràng, đất nước Nhật Bản phải luôn trong tình trạng chiến tranh.
Nói cách khác, Nhật Bản phải là một đế quốc, hay ít nhất là một nước chư
hầu yêu thích.
Trong thời điểm khủng hoảng hiện nay, con đường
phía trước đòi hỏi việc nhận ra lợi ích chung của tất cả người dân trong
khu vực Đông Bắc Á – bất kể họ khác biệt như thế nào trong chính sách
đối ngoại của Mỹ.
*
* *
TTXVN (Oasinhtơn 22/10)
Ngày 12/10, Tạp chí Chính sách đối ngoại đăng bài viết “Giải quyết vấn đề Okinawa - Bao nhiêu lính thủy đánh bộ của Mỹ vẫn cần hiện diện tại Nhật Bản” của tác giả Mike Mochizuki, giáo sư chính trị học và các vấn đề quốc tế tại Đại học George Oasinhtơn, Mỹ và Michael O’Hanlon giám đốc nghiên cứu chính sách đối ngoại tại Viện Brookings,Mỹ. Nội dung bài viết như sau:
Thời gian gần đây, lính thủy đánh bộ Mỹ bắt đầu
triển khai máy bay quân sự V-22 Osprey tới Okinawa, Nhật Bản. Osprev bay
giống như một chiếc máy bay cánh quạt nhưng có thể cất và hạ cánh như
máy bay trực thăng. Nó bay nhanh hơn máy bay trực thăng và có sự linh
hoạt chiến thuật hơn loại máy bay cánh quạt. Sự xuất hiện của loại máy
bay này cũng khơi lại cuộc tranh luận dai dẳng giữa Nhật Bản và Mỹ về
tương lai sự hiện diện của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ trên đảo
Okinawa. Các ý kiến chỉ trích cho rằng Osprey không an toàn và yêu cầu
đưa loại máy bav này về Mỹ. Trong khi dữ liệu về chuyến bay chưa phản
ánh các cáo buộc cụ thể này, giới hoạch định chính sách ở Tôkyô và
Oasinhtơn cần phải nhận ra rằng họ có một vấn đề thậm chí còn lớn hơn
phải đối mặt, đó là tìm kiếm một cách thức mới ít khả năng xâm nhập hơn
trong việc đặt căn cứ lính thủy đánh bộ trên hòn đảo nhỏ ở cực nam của
quần đảo Nhật Bản.
Các câu hỏi về sự hiện diện của quân đội Mỹ trên
đảo Okinawa đã gây nhiều tranh cãi trong suốt hai thập kỷ qua. Với
khoảng 15,000 đến 20.000 quân có mặt ở đây, lính thủy đánh bộ Mỹ chiếm
hơn 1/3 quân đội Mỹ có mặt tại Nhật Bản. Ngoài ra, có khoảng 10.000 lính
trong lực lượng không quân đồn trú tại căn cứ không quân Kadena trên
đảo Okinawa. Sự có mặt của lính thủy đánh bộ Mỹ khiến người dân địa
phương phẫn nộ. Ngoài ra, Okinawa là một trong những tỉnh duy nhất ở
Nhật Bản có sự gia tăng dân số thực sự, vì vậy, các quan chức địa phương
muốn dành đất cho các mục đích khác.
Có rất nhiều lý do để bảo vệ sự hiện diện của lực
lượng lính thủy đánh bộ, cũng như vị thế của Mỹ tại Nhật Bản, trước hết
là phục vụ lợi ích liên minh chung tại một khu vực châu Á-Thái Bình
Dương ổn định. Oasinhtơn đã cố gắng phối hợp với Tôkyô để di dời căn cứ.
Đề nghị gần đây nhất là xây dựng một sân bay trên bờ vịnh Henoko cách
xa về phía Bắc, tại khu vực ít đông dân hơn trên đảo Okinawa. Tuy nhiên,
các chính trị gia cấp địa phương và trung ương của Nhật Bản đã nhiều
lần chặn lại. Năm 2006, Mỹ và Nhật Bản đồng ý di dời gần một nửa lực
lượng lính thủy đánh bộ từ Okinawa tới đảo Guam trong vài năm tới nhằm
giảm áp lực cho Okinawa. Đáng chú ý, mặc dù có một số vụ tai nạn liên
quan tới dòng máy bay Osprey, song thống kê hồi tháng 8/2012 cho thấy
vòng đời của nó dài hơn so với loại máy bay trung bình của lính thủy
đánh bộ. Theo Bộ tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ, Osprey có tỷ lệ tai nạn
nghiêm trọng thấp hơn 20% trong cùng số giờ bay so với máy bay trực
thăng điển hình hoặc các loại máy bay khác của lính thủy đánh bộ. Mặc dù
vậy, cần phải thảo luận công khai hai vụ tai nạn gần đây nhằm giảm bớt
lo lắng trên đảo Okinawa.
Các chương trình di dời hiện bị mắc kẹt trong bãi
lầy của nền chính trị Okinawa, tháng 6 vừa qua, liên minh cầm quyền của
tỉnh trưởng Hirokazu Nakaima không giành đa số phiếu trong cuộc bầu cử
hội đồng tỉnh. Thực tế này đặt ông Nakaima vào thế phòng ngự. Trước sự
bất mãn của dân chúng về việc triển khai Osprey, tỉnh trưởng Okinawa có
ít sự lựa chọn ngoài việc cứng rắn hơn trong việc giải quyết vấn đề căn
cứ Futenma, không phê duyệt căn cứ bên bờ vịnh Henoko, cũng như chống
lại việc triển khai Osprey.
Một vấn đề khác trong kế hoạch của lực lượng lính
thủy đánh bộ Mỹ tại khu vực là kế hoạch xây dựng sân bay kết hợp với
việc di dời một phần quân tới đảo Guam. Đây không phải là lỗi của lực
lượng lính thủy đánh bộ bởi họ đã cố gắng tìm kế hoạch tốt nhất cho mọi
vấn đề. Ngoài những thách thức về chính trị, kế hoạch này phải đối mặt
với thách thức về ngân sách khi nó cần khoảng 30 tỷ USD, được chia đều
cho Tôkyô và Oasinhtơn, trong bối cảnh ngân sách của Lầu Năm Góc bị đe
dọa cắt giảm thêm 10% nữa. Trên thực tế, khoản cắt giảm gần 10% ngân
sách trước đó đã có hiệu lực từ lúc ký Đạo luật kiểm soát ngân sách 2011
của Mỹ.
Có một cách làm kinh tế, đơn giản và triển vọng,
đó là cắt giảm biên chế của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ tại Nhật Bản.
Nó sẽ tốn một khoản tiền nhất định, song có thể được tài trợ phần lớn
bởi Nhật Bản (vì Mỹ giúp Nhật Bản giải quyết một vấn đề gai góc của địa
phương). Bù lại, Mỹ sẽ tiết kiệm được khoảng 30 tỷ USD do không phải
triển khai kế hoạch hiện tại. Futenma cuối cùng sẽ được đóng cửa. Từ nay
đến đó sẽ cần thực hiện các điều khoản đầu tiên nhằm hạn chế việc sử
dụng các sân bay trên đảo Okinawa của lính thủy đánh bộ Mỹ và Nhật Bản
được quyền tiếp cận đầy
đủ các cơ sở lính thủy đánh bộ trong thời điểm khủng hoảng hoặc chiến tranh.
Cụ thể, Mỹ chỉ nên giữ lại từ 5.000 đến 8.000
lính lính thủy đánh bộ trên đảo Okinawa và đưa số còn lại đến các nơi
như Camp Pendleton, California mà không phải là xây dựng căn cứ mới trên
đảo Guam. Sau đóMỹ sẽ điều tàu trang bị vũ khí và vật tư cho vài nghìn
lính lính thủy đánh bộ trong vùng biên Nhật Bản (để bổ sung cho năng lực
tương tự hiện có tại các cảng ở Guam) nhằm cho phép lính thủy đánh bộ
đã được tái triển khai ở Mỹ nhanh chóng trở lại Tây Thái Bình Dương khi
xảy ra một cuộc khủng hoảng. Ngoài ra, lính thủy đánh bộ đóng tại Mỹ sẽ
luân chuyển thường xuyên tới khu vực châu Á-Thái Bình Dương để diễn tập
với bạn bè và các đồng minh, trong đó có Nhật Bản.
Về sân bay, Mỹ có thể thực hiện một số thay đổi,
trong đó thực hiện kịp thời cam kết đóng cửa căn cứ Futenma và trả lại
đất cho địa phương quản lý. Để thay thế một số chức năng của căn cứ
Futenma, Mỹ cần xây dựng một sân bay trực thăng nhỏ bên trong một căn cứ
Lính thủy đánh bộ hiện có ở nửa phía Bắc của đảo, nơi lực lượng lính
thủy đánh bộ Mỹ đang thực hiện hầu hết các chương trình huấn luyện, đồng
thời giảm thiểu tác động về mặt hậu cần.
Ngoài ra, theo thỏa thuận với Tôkyô và Chính
quyền Okinawa, Mỹ sẽ tìm kiếm quyền triển khai một số chuyến bay của
lính thủy đánh bộ tại căn cứ không quân Kadena nếu cần thiết, với điều
kiện tổng số lần cất cánh và hạ cánh tại căn cứ đó không tăng lên. Để
đảm bảo rằng căn cứ không quân Kadena không bận rộn hơn, Mỹ nên đưa một
số máy bay của không quân tại đây tới những nơi khác như Misawa ở miền
Bắc Nhật Bản hoặc thậm chí đảo Guam. Cuối cùng, Nhật Bản có thể xây dựng
một đường bang thứ ba tại sân bay quốc tế Naha, phục vụ cho việc phát
triển kinh tế của đảo trong thời bình và cung cấp khả năng sử dụng quân
sự cho Mỹ và Nhật Bản khi xảy ra khủng hoảng hoặc chiến tranh.
Đây là kế hoạch toàn thắng. Nó giúp tiết kiệm
ngân sách cho cả hai nước Mỹ và Nhật Bản; đồng thời thực sự giúp cải
thiện khả năng phản ứng của Mỹ trước các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra ở
khu vực.
Mỹ và Nhật Bản đã bị sa lầy bởi vấn đề Okinawa
quá lâu. Vừa qua, thời gian quý báu và tài năng của các nhà hoạch định
chính sách đi theo hướng cố gắng giải quyết một vấn đề đã trở nên gần
như không giải quyết được. Chúng ta cần xem xét vấn đề này một lần nữa,
giải quyết nó, và cuối cùng vượt qua nó. Việc thắt chặt ngân sách quốc
phòng Mỹ có thể là động lực cuối cùng cần thiết để thúc đẩy các nhà
hoạch định chính sách tới suy nghĩ mới mẻ và hành động quyết đoán.