Tạp chí Xưa & Nay
Số 415 tháng 11/2012
Nguyễn Thị Hiển
TÁC GIẢ ĐÃ BẢO VỆ LUẬN ÁN TIẾN SĨ VỀ NGHIÊN CỨU
VĂN HÓA DÂN GIAN VÀ TÔN GIÁO TẠI ĐẠI HỌC INDIANA, HOA KỲ (2002), NGHIÊN
CỨU VÀ GIẢNG DẠY TẠI BẢO TÀNG LỊCH SỬ TỰ NHIÊN HOA KỲ (AMNH) Ở NEW YORK
(2003) VÀ ĐẠI HỌC CALIFORNIA Ở LOS ANGELES (UCLA, 2004), HIỆN LÀ TRƯỞNG
BAN NGHIÊN CỨU VĂN HÓA PHI VẬT THỂ, VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM,
BỘ VH-TT&DL. BÀI VIẾT NÀY ĐỀ CẬP ĐẾN KHÁI NIỆM TÔN GIÁO TỪ GÓC ĐỘ
NHÂN HỌC VĂN HÓA, NGUỒN GỐC CỦA THUẬT NGỮ “TÔN GIÁO”, ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
TỚI VIỆC XÁC ĐỊNH, ĐÁNH GIÁ CÁC THỰC HÀNH TÔN GIÁO BẢN ĐỊA CỦA VIỆT NAM
VÀ CÁC DÂN TỘC TRÊN THẾ GIỚI. THÔNG QUA THAM KHẢO CÁC TÀI LIỆU BẰNG
TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT, TÁC GIẢ THẢO LUẬN VỀ KHÁI NIỆM TÔN GIÁO TRONG
NHÂN HỌC NHẰM GÓP PHẦN MỞ RỘNG NHỮNG QUAN ĐIỂM HỌC THUẬT VỀ LĨNH VỰC NÀY
MÀ LÂU NAY TRONG DIỄN NGÔN VỀ TÔN GIÁO CỦA CÁC CÁN BỘ QUẢN LÝ VĂN HÓA,
CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO VIỆT NAM ĐÃ VÀ ĐANG TRANH LUẬN(1).
Qua những quan điểm học thuật từ góc độ nhân học
tôn giáo và những diễn ngôn về vấn đề này ở Việt Nam từ trước đến nay,
tác giả cho rằng khi bàn đến tôn giáo, chúng ta bị ảnh hưởng nặng nề từ
những khái niệm của phương Tây. Hậu quả là những loại hình tôn giáo bản
địa ở Việt Nam, của người Kinh cũng như của các dân tộc thiểu số bị giới
hạn thực hành và bị áp đặt dẫn đến nhiều thực hành tôn giáo của chúng
ta bị coi là lạc hậu, mê tín dị đoan, và thậm chí bị loại bỏ. Nếu tiếp
cận tôn giáo không phải từ nguồn gốc thuật ngữ “tôn giáo” của Kitô giáo
phương Tây, mà từ quan điểm học thuật nói chung, của nhân học nói riêng,
chúng ta có lẽ sẽ có quan điểm cởi mở hơn khi nghiên cứu, nhìn nhận và
đánh giá về vấn đề này ở Việt Nam. Để tránh những tranh luận về sự phân
biệt giữa tôn giáo và tín ngưỡng, mà về điều này từ góc độ nghiên cứu
nhân học là không cần thiết, tôi sử dụng quan điểm “tín ngưỡng thực ra
là tôn giáo” mà Nguyễn Quốc Tuấn đã đưa ra trong bài viết “Bàn thêm về
tín ngưỡng tôn giáo bản địa Việt Nam qua sự kiện ngày quốc lễ giỗ Tổ
Hùng Vương”(2).
Khái niệm phương Tây về thuật ngữ tôn giáo
Thuật ngữ “tôn giáo” (religion) religio”. Religio
có nghĩa kép, là sự tồn tại của một quyền năng bên ngoài mà con người
tuân theo và thể hiện lòng mộ đạo vào quyền năng đó. Vào thời kỳ đầu,
thuật ngữ “religio” tương đương với “giáo hội”, là một cộng đồng gồm
những con chiên theo Chúa mà quan hệ thành viên của cộng đồng xác định
tất cả các khía cạnh đời sống của họ. Họ tin rằng những người là thành
viên của tôn giáo thì có niềm tin “thực sự”, còn những người khác thì ở
ngoài tôn giáo, không có đạo. Một thành tố không thể thiếu của tôn giáo
là ý thức về “một cộng đồng có tổ chức”, một giáo hội, nhà thờ có thứ
bậc chặt chẽ(3).
Ở châu Âu thời Trung cổ (khoảng thế kỷ V đến thế
kỷ XV), thuật ngữ “religio” có nghĩa là tu viện, là cuộc sống, một cộng
đồng riêng của các sơ, cha xứ, linh mục. Thời cải cách Tin lành
(1517-1648), có một sự phân chia nhà thờ Kitô giáo châu Âu, dẫn tới sự
hình thành hệ thống nhà thờ Tin lành. John Calvin (1509- 1564) là nhà
thần học hàng đầu đóng góp cho sự phát triển hệ thống tư tưởng của Tin
lành, ông tranh luận rằng mối quan hệ của con người vói Chúa cần phải
trực tiếp, mang tính riêng tư và siêu việt, có nghĩa là trên bất kể điều
gì có thể biết bằng cảm nhận hoặc thông qua cảm giác. Calvin dùng từ “religio”
không phải là sự tưởng tượng của cá nhân về Chúa mà lại mối quan hệ của
họ với Chúa, chỉ tất cả những niềm tin và thực hành mà Calvin xem như
là phương tiện đi đến đích. Ví dụ, những người theo chủ nghĩa Calvin
phản đối nghi lễ của Cônggiáo, trong đó bánh mì và rượu được biến thành
một bí tích như là cơ thể và máu của Chúa Giêsu, phản đôi ý tưởng cầu
nguyện trướe tượng Chúa, hay trang trí nhà thờ bằng tranh, hay vầng hào
quang lộng lẫy. Dưới con mắt của họ, cảm xúc là những điều làm phân tán
sự hiểu biết Chúa một cách trực tiếp. Do vậy, so với những nhà thờ được
trang hoàng lộng lẫy của Công giáo, nhà thờ của những người theo chủ
nghĩa Calvin, hay Tin lành rất đơn giản(4).
Kể từ thời đại Khai sáng ở châu Âu đến thời hiện
đại, cần thiết có một khái niệm cụ thể hơn về tôn giáo, nhấn mạnh tói
các khía cạnh nhận thức, trí tuệ, học thuyết và giáo lý. Từ thế kỷ XVII
trở đi, ở châu Âu ngày càng có nhiều mối quan tâm trong xây dựng hệ tư
tưởng, tính hệ thống và sự trừu tượng phức tạp trong lĩnh vực tôn giáo.
Smith cho rằng đầu tiên những người đứng đầu của hệ tư tưởng phương Tây
đưa ra từ “tôn giáo” mang tính chung chung, nhưng ngày càng trở thành
một hệ thống của các tư tưởng trong đó bao hàm những giáo lý mà người có
đức tin tuân theo(6). Vào cuối thế kỷ XVII, việc xem xét tôn
giáo như hệ thống của tư tưởng và niềm tin, như một học thuyết bắt đầu
trở nên thịnh hành. Khuynh hướng thống trị trong nghiên cứu và thảo luận
về tôn giáo vẫn chịu ảnh hưởng bởi đặc trưng ổn định của chủ nghĩa duy
lý từ thời đại Khai sáng, của ý thức ngày càng cao về lịch sử, triết
học.
Vào thời kỳ Khai sáng thế kỷ XVIII, tư tưởng của
châu Âu liên quan đến những kiến thức có hệ thống về thế giới tự nhiên
và tinh thần. Vì vậy, thuật ngữ “tôn giáo” được xác định như là một hệ
thống duy lý những ý tưởng mà người có đức tin theo đuổi, là những văn
bản có giá trị hơn hành động nghi lễ. “Tôn giáo thế giới” được nhận diện
như là những truyền thống giáo lý bằng văn bản, và được coi cao hơn
những tôn giáo với những nguyên lý thực hành truyền thống, lưu truyền
bằng miệng.
Hậu quả của khái niệm “tôn giáo” phương Tây
Vào thế kỷ XIX khi nghiên cứu, tiếp cận với những
thực hành tôn giáo không phải của phương Tây, các học giả phương Tây đã
dán nhãn cho các tôn giáo lớn thành học thuyết (isms): chẳng hạn như Hindu giáo (Hinduism), Phật giáo(Buddhism), Khổng giáo (Confucianism)…
Trong sự mô tả và dán nhãn “học thuyết” vào các tôn giáo, những đức tin
và giáo lý của các tôn giáo phương Đông trở nên nổi bật như là tâm điểm
của nghiên cứu. Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo, Hindu giáo là những hệ
thống giáo lý có văn bản, nhưng là những hệ thống khác biệt trong đó
bao gồm những giải thích duy lý về bản chất và sự vận hành của vũ trụ.
Như vậy trong nghiên cứu tôn giáo phương Đông, “giáo” và “đạo” (Khổng
giáo, Phật giáo, Đạo giáo) trở thành những môi quan tâm của các học giả
về các vấn đề giáo lý, học thuyết. Còn các hành động mộ đạo, nghi lễ và
những trải nghiệm về cái thiêng đứng hàng thứ yếu, chẳng hạn trải nghiệm
Darshan (gặp chúa trời) trong Hindu giáo, thực hành ma thuật của Đạo
giáo, hay những dịch vụ, lễ nghi trong Phật giáo dân gian ở Trung Quốc
và Việt Nam. Các tôn giáo có văn bản, có hệ thống được xếp ở cấp độ cao
hơn những tôn giáo không có hệ thống văn bản, thực hành và trao truyền
bằng miệng. Vì vậy, một số thực hành nghi lễ và những hành động mộ đạo,
chẳng hạn như lên đồng, cầu cúng, bói toán, đốt đồ mã, bùa chú ở Việt
Nam, bị xếp vào loại hình “mê tín dị đoan”.
Trên thực tế, hiện nay cũng như trong quá khứ chỉ
có một số ít ngôn ngữ mà người ta có thể dịch thuật ngữ “religion” bằng
tiếng Anh sang những ngôn ngữ của các dân tộc khác mà vẫn đảm bảo được ý
nghĩa của thuật ngữ này theo khái niệm của Kitô giáo. Các nhà nhân học
cũng đã tự hỏi, liệu có một khái niệm tương đương về tôn giáo ở bất kì
nền văn hóa nào khác mà không chịu ảnh hưởng bởi khái niệm tôn giáo của
phương Tây? Thực tế là “không” có bất kì nền văn hóa nào mà không bị ảnh
hưởng như Wilfred Cantwell Smith đã tuyên bố. Smith không nói là chỉ ở
phương Tây mới có tôn giáo “thực sự”. Smith nhận định rằng trong các
ngôn ngữ không phải của phương Tây, thuật ngữ “tôn giáo” là một thuật
ngữ được dịch ra từ ngôn ngữ của phương Tây, ví dụ như từ “tôn giáo”
trong tiếng Việt(6). Về điều này, Nguyễn Quốc Tuấn cũng đã
nhận định “không một dân tộc nào ở phương Đông cổ và trung đại có một
khái niệm “tôn giáo” giống như phương Tây thế kỷ XIX”(7). Nhà
nhân học Talal Asad đã chấp nhận tiền đề cơ bản của Smith và cho rằng
hầu như các định nghĩa tôn giáo, bao gồm những định nghĩa do các nhà
nhân học đưa ra đều chịu ảnh hưởng của truyền thống lịch sử Kitô giáo
của phương Tây. Từ việc nghiên cứu Hồi giáo, Asad nói rằng “tôn giáo”
quả thực là một thuật ngữ hữu hiệu, nhưng là một thách thức thực sự
trong vấn đề hiểu thế nào là tôn giáo thông qua những thuật ngữ, khái
niệm của những người thực hành nó(8).
Khái niệm “tôn giáo” mà S.J. Tambiah phê phán,
như là giáo lý duy lý và được hệ thống hóa, là sản phẩm của một không
gian cụ thể trong một thời gian cụ thể, nhưng những ý tưởng này đã lan
rộng khắp thế giới, trước tiên là bởi giới nghiên cứu thế kỷ XIX, và
trực tiếp hơn bởi các nhà truyền giáo. Khái niệm tôn giáo như là học
thuyết, một hệ thống duy lý các giáo lý đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới thê
giói hiện đại(9). Đây là khái niệm xuất
phát từ phương Tây, một sản phẩm lịch sử đã trở thành công cụ của nhiều
người, kể cả các nhà nghiên cứu, các nhàquản lý văn hóa, các nhà chính
trị, lãnh đạo ngoài phương Tây nghĩ về “tôn giáo” và đã có những ảnh
hưởng nặng nề đến việc xác định “tôn giáo” ở nhiều địa phương, nhiều dân
tộc trên thế giới. Webb Keane đã từng thốt ra trong công trình của
mình: “…Những phạm trù khái niệm như là tôn giáo và văn hóa đã không thể
kiểm soát nổi, và chúng ta khó có thể vực chúng trở lại được(10).
Khái niệm của phương Tây về “tôn giáo” được nhìn
nhận như là một bộ phận của “hiện đại” mà những dân tộc không phải là
phương Tây tìm kiếm trong khuôn mẫu của phương Tây. Hơn một thế kỷ qua,
có sự ảnh hưởng mạnh mẽ của khái niệm này vào truyền thống và về di sản
tôn giáo của các tộc người trên thế giới. Điều này tác động đến con
người ở nhiều địa phương, nhiều dân tộc, bởi lẽ một số những thực hành
tôn giáo của họ bị coi là “mê tín dị đoan”. Ở một số nơi trên thế giới,
những nhà cải cách tôn giáo như Thần đạo ở Nhật Bản, Hindu giáo ở Ấn Độ
đã điều chỉnh lại cuộc sống tôn giáo của họ cho phù hợp với những ý
tưởng của tôn giáo phương Tây, khiến cho tôn giáo của họ có vẻ “tiến
bộ”, “hiện đại” và không bị coi là “mê tín dị đoan”. Chẳng hạn, ở Nhật
Bản, nỗ lực của nhà nước và giới tu sĩ Thần đạo vào cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX là viết lại lịch sử Thần đạo, vốn là một tôn giáo cổ xưa thành
một hệ thống tư tưởng, một trong số đó là mối liên hệ gần gũi với nhà
nước. Theo Helen Hardacre, “Đối với các nhà tư tưởng Nhật Bản, những ý
tưởng về tôn giáo dần dần thay thế cho di sản văn hóa Nhật Bản, trong đó
thói quen, tập tục của cộng đồng là trung tâm. Những cuốn sách nổi
tiếng nhất về tôn giáo tái tạo những quan điểm của phương Tây về vị trí
đáng kính của những tôn giáo có hệ thống giáo lý và một cách ngấm ngầm
hoặc cởi mở về những nghi lễ và lễ hội bị coi là mê tín dị đoan”(11).
Đối với Hindu giáo ở Ấn Độ dưới thời cai trị của Anh, Robert Frykenberg
cho rằng “Việc soạn thành giáo lý của Hindu giáo ‘chính thông’ hay
thiết lập Hindu giáo như là một hệ thống nhận thức là một trong những di
sản tiêu biểu nhất của hệ thống thống trị Anh. Ý tưởng Hindu giáo là
một tôn giáo đơn lẻ, cổ xưa dần dần lan truyền và được mã hóa, trở thành
tôn giáo ngự trị và lan rộng”(12).
Trong hai ví dụ ở Nhật Bản và Ấn Độ, khuôn mẫu
ngự trị của các tôn giáo chính thông mang tính lý tưởng hóa và những
giáo lý văn bản mang những đặc thù và khái niệm bị ảnh hưởng của phương
Tây. Những người trí thức Thần đạo và Hindu giáo cải cách tôn giáo của
họ theo những hình thức mà họ cho rằng là hiện đại, phủ nhận một số thực
hành nghi lễ dân gian bị cho là mê tín dị đoan, lạc hậu. Tuy nhiên
trong thực tế cuộc sống tôn giáo ở Nhật Bản và Ân Độ, những khía cạnh
thực hành nghi lễ và tín ngưỡng truyền thống vẩn tồn tại trong những
người thực hành chúng.
Hậu quả của định nghĩa về tôn giáo ở châu Âu thời
đại Khai sáng rất nặng nề, tác động mạnh mẽ vào quan điểm về tôn giáo
của các dân tộc không phải là phương Tây và loại bỏ rất nhiều thực hành
tôn giáo của các dân tộc chỉ vì bời chúng “không có giáo lý”, “không có
hệ thống các niềm tin và thực hành” được viết lại bằng văn bản. Như vậy,
những thực hành và hành động nghi lễ và đức tin do con người thực hiện
mang tính thiêng không phải là trung tâm của định nghĩa tôn giáo này.
Không những thế, quan niệm tôn giáo là hệ thống giáo lý bằng văn bản một
cách kỹ thuật đã tách tín ngưỡng, ma thuật ra khỏi tôn giáo. Điều này
làm cho nhiều nhà nghiên cứu, quản lý văn hóa cố gắng phân biệt giữa tôn
giáo, và tín ngưỡng, và khi họ càng cố gắng tìm ra sự khác nhau giữa
hai thuật ngữ này thì càng khiến họ lúng túng bởi những giá trị, những
chức năng, những thực hành của chúng chồng chéo, khó tách bạch. Khái
niệm tôn giáo của phương Tây cũng làm giảm những giá trị văn hóa vật thể
của thực hành tôn giáo, như lễ vật, đồ cúng tế, đồ mã, hiện vật thờ,
tranh, tượng thánh, bùa chú, cơ sở thờ tự và những không gian thiêng.
Như vậy, những thực hành nghi lễ, thờ cúng với
những hiện vật dâng cúng trở thành một thực hành có vấn đề và rắc rối.
Trước thời đại Khai sáng, thuật ngữ “mê tín dị đoan” được sử dụng để
miêu tả những niềm tin và thái độ không đúng, không phù hợp. Đó là những
niềm tin không có nền tảng trong hiện thực vật thể, như là “khoa học
sai lầm hay tồi tệ” vì không kiểm chứng được. Ví dụ, ở Việt Nam đặt một
bức tượng, không phải là một bài vị vào trong cung cấm ở đình làng thì
bị coi là “mê tín dị đoan”, vấn đề không phải là không có niềm tin,
không có tín ngưỡng về Thành hoàng, mà vấn đề là việc đặt tượng để thờ
cúng là không đúng đối với tín ngưỡng thờ cúng Thành hoàng. Hay việc
dâng cúng, trong đó có đồ mã ở các đền thờ với niềm mong muốn nhận lại
lộc thánh thì bị coi là “mê tín dị đoan” vì lòng mong muốn đó là “nhảm
nhí”, không có cơ sở thực tế và đo đếm được theo các nguyên tắc của khoa
học thực chứng. Dưới góc độ nhân học, chúng ta có thể nhìn nhận vấn đề
này theo một lăng kính khác. Theo lý thuyết chức năng của Malinowski,
những thực hành mang tính tâm linh, ma thuật cũng giống như khoa học ở
chỗ chúng luôn luôn có những mục đích nhất định, gắn liền với bản năng,
nhu cầu và niềm mong muốn của con người. Thực hành tâm linh dựa trên
kinh nghiệm cụ thể của những trạng thái tinh thần mà trong đó sự thật
được bộc lộ không chỉ bằng lý trí mà còn bằng hoạt động của tình cảm con
người. Khoa học được xây dựng trên lòng tin vững chắc bằng kinh nghiệm,
nỗ lực, lý trí, và được chỉ đạo bởi logic, lý thuyết. Thực hành tâm
linh được thiết lập với niềm tin rằng hy vọng không thể thất bại, được
chỉ đạo bởi một liên kết các ý tưởng dưới sự tác động của lòng mong muốn(13).
Nhân học tôn giáo
Tôn giáo được nhiều ngành khoa học quan tâm
nghiên cứu như tâm lý học, xã hội học, thần học, thậm chí trong một vài
trường hợp, cả ngành sinh học. Mỗi ngành có mối quan tâm và phương pháp
tiếp cận riêng. Nhân học có thể được hiểu một cách tốt nhất như là một
ngành khoa học về sự đa dạng của con người, trong văn hóa, xã hội, ứng
xử của họ. Vì vậy, nhân học tôn giáo là sự khám phá khoa học về tính đa
dạng tôn giáo của con người. Có phải tôn giáo là sản phẩm của xã hội,
hay đơn thuần là sự sáng tạo của loài người? Hay là còn có điều gì đó “ở
trái đất và trên trời” vượt lên trên những khả năng kiểm chứng và giải
thích của các nhà khoa học xã hội và tự nhiên? Có phải động cơ tôn giáo
là sự đáp lại lực lượng tâm linh ở bên ngoài, hay chỉ là kết quả suy
diễn của tư duy và nhận thức sai lầm? Có phải tôn giáo là phổ quát? Liệu
tôn giáo có bị mất đi do sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại?
Tất cả những câu hỏi, mâu thuẫn, lập luận này đã
được các nhà nghiên cứu tôn giáo và nhân học đưa ra hơn một thế kỷ đến
nay vẫn còn tranh luận gay gắt trong giới học thuật, quản lý văn hóa.
Hiển nhiên trong khoa học không có một quan điểm và một cách tiếp cận
duy nhất để nghiên cứu tôn giáo. Điều cơ bản là những học giả, những nhà
nghiên cứu tôn giáo lý giải, phân tích số liệu, rút ra những kết luận
để đóng góp vào ngành nhân học nghiên cứu tôn giáo. Mục đích cuốỉ cùng
của khoa học xã hội nói chung và của nhân học nói riêng là để hiểu con
người, hiểu chính chúng ta, hiểu thực hành tôn giáo của chúng ta và của
người khác, không phân biệt tộc người, tôn giáo, và còn để nối những
nhịp cầu “giữa linh hồn và cơ thể, giữa tư duy và sự kiện”.
Nhân học nghiên cứu các khía cạnh của tôn giáo,
quan sát thực hành tôn giáo như thế nào và vì sao tôn giáo lại quan
trọng đôi với họ. Nhưng một nhà nhân học nghiên cứu về cuộc sông tôn
giáo cần hiểu nhiều vấn đề khác liên quan đến tôn giáo, như thể chế
chính trị, chính sách văn hóa xã hội, văn hóa nói chung để xác định tôn
giáo tín ngưỡng và thực hành ở một vùng, tộc người. Chẳng hạn, về mặt
luật pháp, nhiều thực hành tín ngưỡng bị coi là mê tín dị đoan và bị cấm
thực hành như đốt mã, xem bói, lên đồng, bùa chú… Điều này ảnh hưởng
thế nào đến thực hành tôn giáo của tộc người bản địa? Những quan điểm
chính thống về tôn giáo tín ngưỡng, về mê tín dị đoan tác động đến những
giải thích về thực hành nghi lễ của người dân khi họ cung cấp thông tin
cho các nhà nghiên cứu điền dã.
Quan điểm về tôn giáo trước hết như là một hệ
thông các niềm tin trở thành có vấn đề đối với các nhà nhân học. Tambiah
đã đưa ra khái niệm tôn giáo dựa vào cái siêu việt. Theo ông “khái niệm
chung về tôn giáo không chỉ nằm ở lĩnh vực niềm tin và ‘giải thích duy
lý’ sự vận hành của vũ trụ, mà còn nằm trong nhận thức đặc biệt về cái
siêu việt và những hành động giao tiếp biểu tượng”(14).
Trên thực tế, có nhiều tôn giáo lại nhấn mạnh vào trải nghiệm cá nhân.
Ví dụ trong thực hành Hindu giáo, thánh thần mang tính cá nhân và có thể
tiếp cận được. Người theo đạo Hindu đặt niềm tin vào trải nghiệm cảm
giác thấy chúa trời, thể hiện hành động gặp chúa trong khi tắm, trang
trí vòng hoa, thờ chúa trời bằng một hình tượng, cầu chúa vào lúc mặt
trời mọc hoặc trằm mình trong nước sông thiêng. Trong các hình thức thực
hành xuất nhập thần, như lên đồng, các ông bà đồng cũng cho rằng các vị
thánh của đạo Mẫu “nhập” vào họ để “làm việc quan”, ban phát tài lộc và
chứng giám cho lòng thành của các con nhang đệ tử. Tambiah quan niệm
rằng những hành động và trải nghiệm cá nhân cần phải là trọng tâm nghiên
cứu trong nhân học tôn giáo, ở phương Tây cũng vậy, có nhiều thực hành,
nhiều trải nghiệm tôn giáo của các cộng đồng, các tộc người, cá nhân
diễn ra ngoài khuôn mẫu phương Tây trong quan niệm thế nào là một tôn
giáo(15).
Một vấn đề lớn trong ngành nhân học trong việc sử
dụng các khái niệm của một nền văn hóa này để mô tả và hiểu các
kháiniệm của một nền văn hóa khác, đặc biệt trong lĩnh vực tôn giáo.
Chúng ta cần thiết tiếp cận tôn giáo bằng những thuật ngữ, ngôn từ để
phân tích, thảo luận, lý giải. Dù sao, các thuật ngữ tôn giáo mà chúng
ta sử dụng trong nghiên cứu không phải trung tính, mà là một thứ ngôn
ngữ mang tính kỹ thuật, công cụ. Khi chúng ta áp đặt những khái niệm của
một nền văn hóa hoặc tôn giáo này cho một nền văn hóa hay tôn giáo
khác, có thể dẫn chúng ta đến những câu hỏi nghiên cứu sai lầm, hay nhận
định và kết luận sai lầm.
Giá trị và ý nghĩa của một xã hội được nội hàm và
được thể hiện trong ngôn ngữ của xã hội đó, mà nó bao gồm một tập hợp
các từ, các thuật ngữ. Đặc biệt trong bối cảnh tôn giáo, những tập hợp
ngôn ngữ này lại gắn với các khái nhiệm và mối quan hệ, những nhận định,
phán xét, đánh giá. Trong Kitô giáo, từ “Thiên Chúa” có một ý nghĩa đặc
biệt. Từ này có thể không có trong các tôn giáo khác, mà lại có một tên
khác dành cho đấng tối cao. Nhiều tôn giáo khác lại có từ hay khái niệm
mà chúng ta dịch ra tiếng Anh là “God” (Chúa), nhưng thực tế lại không
có bất kể khái niệm nào giống “Chúa” trong Kitô giáo. Tương tự như vậy,
khái niệm “trời”, “địa ngục”, “tội lỗi” hay “linh hồn” của một dân tộc
bản địa có thể không có trong những xã hội khác, hoặc chúng có ý nghĩa
rất khác trong những xã hội này.
Trong nghiên cứu tôn giáo, các học giả phương Tây sử dụng các thuật ngữ như “thần thoại” (myth), “nghi lễ” (ritual), “cầu nguyện” (prayer), “thờ cúng”(worship), “tâm linh” (spiritual), “siêu nhiên” (supernatural), “tín ngưỡng”(belieí), “mê tín dị đoan” (superstition), và “tôn giáo” (religion)…
Một điều khẳng định rằng tất cả những thuật ngữ này, ngay cả thuật ngữ
“tôn giáo”, cũng không luôn luôn tồn tại trong, cùng một hình thức và có
ý nghĩa giống nhau trong tất cả các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau.
Ví dụ, những học giả phương Tây dùng từ “cầu nguyện” (prayer) thì
các xã hội khác lại gọi hình thức cầu này bằng một từ khác với những
sắc thái ngữ nghĩa riêng. Hay chúng ta áp đặt cho một số hành động mang
tính “ma thuật”, “nỗi sợ hãi địa ngục” mà các xã hội khác hoàn toàn
không có những khái niệm này. Về mặt thuật ngữ và khái niệm, nếu cứ áp
đặt như vậy, chúng ta có thể làm sai lệch trầm trọng những ý nghĩa và
hình thức ứng xử của các dân tộc bản địa, tạo nên những khái niệm ngoại
lai vào những khái niệm không giống, hay gần giống. Qua quá trình đó,
chúng ta có thể làm sai, mà đôi khi chúng ta không hiểu, chúng ta lại
nghĩ những ý nghĩa và hình thức ứng xử cần phải theo khuôn mẫu được đưa
ra từ trước như vậy. Chính ở đây, bên cạnh những phương pháp cơ bản của
nhân học là so sánh liên văn hóa, nghiên cứu trường hợp từ cái cụ thể
của một nhóm người hay tộc người để đưa ra một cái gì đó mang tính
chung, tổng quát, thì cách tiếp cận tương đối luận văn hóa trong ngành
nhân học càng phải được đặc biệt chú trọng trong nghiên cứu tôn giáo.
Tương đối luận văn hóa có mục đích chính là để nhấn mạnh rằng mỗi một
nền văn hóa có những “chuẩn mực” riêng của nó trong việc hiểu và đánh
giá, từ đó các nhà nghiên cứu có những cách tiếp cận phù hợp, tránh
những quan điểm áp đặt, vị chủng luận. Hiển nhiên có những ứng xử được
coi là bình thường trong xã hội này, nhưng lại không bình thường hay
thậm chí không tồn tại trong xã hội khác. Chúng ta biết rằng cùng một âm
thanh, động tác, biểu tượng hay hành động của xã hội này có thể có ý
nghĩa khác nhau (hay không có ý nghĩa) trong xã hội khác. Vì vậy, áp
dụng chuẩn mực của một xã hội này vào một xã hội khác đơn giản không
thực sự đúng và có thể là sai.
(Xem tiếp kỳ sau)
CHÚ THÍCH:
1. Đặng Nghiêm Vạn, “Bàn về tôn giáo” trong Dân tộc, văn hóa, tôn giáo, Hà Nội, Nxb. Khoa học Xã hội, tr. 111-158; Nguyễn Duy Hinh, 2007, “Tôn giáo học so sánh” trong Một số bài viết về Tôn giáo học,
Hà Nội, Nxb. Khoa học Xã hội, tr. 95- 172; Nguyễn Phú Lợi, 2012. “Quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng và công
tác tôn giáo trong thời kì đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,
số 3 (105): 3-11; Nguyễn Quốc Tuấn, 2011, “Bàn thêm về tín ngưỡng tôn
giáo bản địa Việt Xam qua sự kiện ngày quốc lễ giỗ tổ Hùng Vương”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, sô 7 (97): 3-15; Đỗ Quang Hưng, 2011, “Mấy suy nghĩ về tôn giáo và lễ hội hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số
9 (99): 3-9, và số 10 (100): 3-9; Lê Đức Hạnh, 2012, “Nghiên cứu tín
ngưỡng, tôn giáo từ góc độ nhân học văn hóa-xã hội”, Tạp chi Nghiên cứu Tôn giáo, số 3 (105): 14-21.
2. Nguyễn Quốc Tuấn, Sđd, tr. 10.
3. Tambiah. S.J. 1990, Magic, Science, Religion and the Scope of Rationality(Ma thuật, khoa học, tôn giáo và phạm vi của duy lý). Cambridge: CambridgeUniversity Press, tr. 3-5.
4. Tambiah, S.J. Sđd, tr. 4-5.
5. Smith, Wilfred Cantwell, 1978. The Meaning and End of Religion (Y nghĩa và mục đich tôn giáo). San Francisco: Harper and Row.
6. Smith, Wilfred Cantwell, Sđd.
7. Nguyễn Quốc Tuấn, Đd, tr. 10.
8. Asad, Talal, 2003, Formations of the Secular: Christianity, Islam, Modernity(Hình thành cái thế tục: Kitô giáo, Hồi giáo, hiện đại), Stanford, California: Standord University Press.
9. Tambiah, S.J, Sđd, tr. 4-5.
10. Webb Keane. 2007, Christian Moderns: Freedom and Fetish in the Mission Encounter (Tín đồ Kitô hiện đại: Tự do và tôn sùng trong chạm trán truyền giáo), University of California Press, tr. 86.
11. Hardacre, Helen, 1989, Shintô and the State, 1868-1988 (Thần đạo và nhà nước), Princeton University Press, tr. 65.
12. Frykenberg, Robert, 1993. Constructions of Hinduism at the Nexus of History and Religion (Thiết lập Hindu giáo trong mối quan hệ của lịch sử và tôn giáo), The MIT Press, tr. 539.
13. Malinowski, Bronislaw, 1954, Magic, Science and Religion and other Essays(Ma thuật, khoa học và tôn giáo, và những bài viết khác). Garden City, N.Y: Double- day Anchor.
14. Tambiah, S.J, Sđd, tr. 6.
15. Tambiah, S.J, Sđd, tr. 5-6.