THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Năm, ngày 15/11/2012
TTXVN (Niu Yoóc 14/11)
Với lời dân cho rằng chưa mấy quốc gia làm cho Mỹ thay đổi quan hệ với mình nhanh như Mianma, trang mạng “Al-Asiya” vừa đăng bài phân tích về mối quan hệ thay đổi rất nhanh giữa Mỹ với Mianma, nội dung như sau:
Khi bà Aung San Suu Kyi, thủ lĩnh phe đối lập ở
Mianma, người đã từng được nhận giải Nobel hòa bình, kết thúc chuyến
thăm Mỹ và Tổng thống Mianma Thein Sein đọc một bài diễn văn tại cuộc
họp Đại hội đồng Liên hợp quốc ở Niu Yoóc cùng trong tháng Chín vừa qua,
thì Mỹ đã tiến thêm một bước lớn trong việc bình thường hóa quan hệ với
Mianma. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton thông báo sắp hủy bỏ việc cấm
nhập khẩu các sản phẩm của Mianma sau khi xác nhận những tiến bộ đã đạt
được của Mianma và khẳng định Mỹ ủng hộ tiến trình cải cách và mở cửa do
Tổng thống Thein Sein khởi xướng và đang theo đuổi. Việc hủy bỏ dần
những sự trừng phạt, bị áp đặt từ 15 năm nay đối với Hội đồng quân sự
Mianma cầm quyền trước đây, là một dấu hiệu thực sự đầy hy vọng đối với
quá trình tái thiết nền kinh tế của đất nước này. Đối với cường quốc số
một thế giới thì việc mở cửa buôn bán với Mianma dường như chang có mấy ý
nghĩa, nhất là về kinh tế, nhưng đối với Mianma, nước đang cố thoát
khỏi nhiều năm bị cô lập, thì rõ ràng đây là một bước ngoặt trọng đại,
mang rất nhiều ý nghĩa và hiệu ứng.
Sau lệnh cấm vận đầu tiên do Tổng thống Bill
Clinton ký và có hiệu lực vào tháng 5/1997 – cấm đầu tư vốn vào Mianma –
cho đến việc đất nước ở Đông Nam Á này giải tán Hội đồng quân sự vào
năm 2011, mối quan hệ giữa Mỹ và Mianma có thể tóm tắt bằng một câu: tẩy
chay hoàn toàn về ngoại giao và cô lập toàn diện Mianma trên diễn đàn
quốc tế. Để đáp lại những sự vi phạm lặp đi lặp lại về nhân quyền và các
cuộc trấn áp đẫm máu của Hội đồng quân sự Mianma, Mỹ đã liên tục tăng
cường các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với đất nước này. Dưới thời
Chính quyền Bush, đạo luật Dân chủ và Tự do cho Mianma, được thông qua
hồi 2003 và một đạo luật khác ban hành năm 2008, đã cấm xuất khẩu dịch
vụ tài chính cũng như việc nhập khẩu các sản phẩm của Mianma vào lãnh
thổ Mỹ, phong tỏa các tài sản và không cấp thị thực cho nhiều nhà lãnh
đạo quân sự cấpcao. Mianma bị Ngoại trưởng Mỹ lúc bấy giờ là bà
Condoleezza Pvicexếp vào số những nước “tiền tiêu của nền bạo chúa”,
cùng với Dimbabuê, Cuba và Bêlarút. Những sự trừng phạt này được duy trì
và kéo dài đến khi Barack Obama lên cầm quyền ở Mỹ năm 2009. Nhưng từ
khi chính phủ dân sự lên cầm quyền ở Mianma vào tháng 3/2011, các cuộc
cải cách do Tổng thống Thein Sein thực hiện, đã gây tiếng vang và là sự
bất ngờ đối với Mỹ và phương Tây. Tiếp đó, các nước này càng được khích
lệ hơn khi Mianma bầu nhà đối lập San Suu Kyi vào Quốc hội, thả hàng
trăm tù nhân chính trị và chấm dứt sự kiểm duyệt đối với báo chí, tiến
hành đối thoại với phe đối lập và với các nhóm sắc tộc vũ trang khác
nhauv.v… khiến họ, trước hết là ỹ đã đồng loạt xem xét lại mối quan hệ
với Nâypiđô.
Chuyến thăm của Ngoại trưỏng Mỹ Hillary Clinton
tới Mianma vào tháng 12/2011 đánh dấu việc nước này được trở lại diễn
đàn quốc tế. Đây là thời điểm mang tính lịch sử vì chưa từng có một
ngoại trưởng Mỹ nào tới thăm Mianma trong suốt 50 năm qua. Thay cho sự
công nhận những tiến bộ đã đạt được của Mianma, Mỹ đã thông báo hủy bỏ
dần những hạn chế trong khi vẫn duy trì khuôn khổ pháp lý của các biện
pháp trừng phạt, chứng tỏ Mỹ vẫn tỏ thái độ thận trọng vì họ vẫn sợ rằng
nhũng bước tiến ấy (của Mianma) không phải là không thể đảo ngược.
Tháng 4/2012, lệnh trừng phạt cấm xuất khẩu một số dịch vụ tài chính
trong đó có dịch vụ nhân đạo, dân chủ, giáo dục, xã hội và y tế, đã được
hủy bỏ. Ngày 17/5/2012, Mỹ bổ nhiệm ông Derek Mitchell làm Đại sứ Mỹ
đầu tiên tại Mianma sau 22 năm. Ngày 12/7/2012, Tổng thống Mỹ Barack
Obama thông báo giảm bớt các biện pháp trừng phạt kinh tế chống Mianma,
cho phép Mỹ đầu tư vốn vào đây, nhưng tất nhiên vẫn phải nằm dưới sự
giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng của Mỹ. Dù các doanh nghiệp
Mỹ vẫn chưa thật thoải mái khi làm ăn tại Mianma, song họ đã có thể đầu
tư vào các lĩnh vực khác nhau, nhất là dầu khí. Rất nhanh chóng, các
doanh nghiệp lớn của ngành công nghiệp Mỹ đã thấy ở Mianma một cõi thần
tiên mới và ngày 31/7 họ đã tháp tùng Ngoại trưởng Mỹ H. Clinton tới
Campuchia, bên lề cuộc họp cấp cao ASEAN, để gặp gỡ Tổng thống Mianma.
Trong suốt mùa Hè năm 2012, General Electric, PepsiCo và Coca-Cola là
những doanh nghiệp đầu tiên của Mỹ ồ ạt tiến vào Mianma. Ngày 20/9/2012,
trong khi Bà đầm Rănggim (San Suu Kyi) bắt đầu chuyến thăm Mỹ và tuyên
bố tin tưởng vào chính phủ mới ở Mianma, thì Mỹ đã rút những cái tên,
như Thein Sein và Chủ tịch Hạ viện Mianma Shwe Mann khỏi “danh sách
đen”. Cuối cùng, ngày 26/9/2012, sau khi gặp Tổng thống Mianma Thein
Sein bên lề khóa họp 67 Đại hội đồng LHQ, bà Hillary Clinton đã thông
báo hủy bỏ những lệnh trừng phạt cấm nhập khẩu. Với sự trở lại của các
mặt hàng “Made in Burma’’ trên thị trường Mỹ, một luồng gió mới đang
thổi vào nền kinh tế Mianma, và một cơn gió lạc quan đối với xã hội dân
sự, nước đã phải chịu nhiều thiệt thòi, trong đó nạn thất nghiệp rất
cao, do sự tẩy chay của Mỹ nhất là trong lĩnh vực dệt may mà Mianma đã
từng là một nhà xuất khẩu quan trọng sang Mỹ. Bằng cách mở cửa thị
trường Mỹ, Chính quyền Obama vừa mới mang lại cho Mianma cơ hội tự do
tăng trưởng, trong khi nơi đây hiện là một trong những nước nghèo nhất
khu vực.
Vào đầu mùa Thu năm 2012, trong khi Bà Đầm
Rănggun và Tổng thống Thein Sein cùng được chào đón trên đất nước của
cường quốc số một thế giới, thì Mianma đã dần dần lấy lại được vị trí
của mình trong cộng đồng quốc tế. Từ Bill Clinton đến Barack Obama, 15
năm trừng phạt của Mỹ đã đánh vào nền độc tài quân sự và buộc chính phủ
dân sự mới phải tiến hành các cuộc cải cách. Đã quá nhiều năm chịu ảnh
hưởng lớn từ Trung Quốc, nay Mianma mới mở được cửa sang thị trường Mỹ,
vừa để đẩy mạnh nền kinh tế của mình vừa mở rộng mối quan hệ ngoại giao
với Mỹ. Đối với Mỹ, đây cũng là phương tiện để áp đặt ảnh hưởng của mình
trong một khu vực mang tính chiến lược giữa hai cường quốc là Ấn Độ và
Trung Quốc, trong khi khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang trở thành một
thách thức chủ yếu đối với chính sách đối ngoại của Mỹ. Năm 2013, khi
Mianma đăng cai thế vận hội Đông Nam Á, sẽ là cơ hội để người ta biết
thêm về đất nước mới mở cửa này. Năm 2014, Mianma sẽ là Chủ tịch luân
phiên của ASEAN và đến năm 2015 Mianma sẽ gia nhập Khu vực thương mại tự
do ASEAN. Là nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, trước đây
Mianma chỉ đại diện cho lợi ích khu vực mặc dù vẫn phải chịu sự trừng
phạt về quan hệ kinh tế với các nước láng giềng, giờ đây Mianma có thể
trở thành một trong những chủ thể chủ chốt của ASEAN, được các cường
quốc phương Tây thèm muốn nếu như nước này vẫn tiếp tục thực hiện chính
sách mở cửa và tìm ra một giải pháp cho các cuộc xung sột sắc tộc của
đất nước mình.
Một năm rưỡi sau các cuộc bầu cử không đáng tin
cậy mà đại diện của Hội đồng quân sự giành thắng lợi, ngày 1/4/2012,
nước Cộng hòa liên bang Mianma đã tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội từng
phần, được người dân Mianma coi là dân chủ và trung thực với việc Liên
đoàn quốc gia vì dân chủ (NLD, đối lập của bà Aung San Kyi) đã giành
được đa số tuyệt đối (43 trong số 44 ghế). Và đây được coi là bước tiến
rất quan trọng nữa trong quá trình mở cửa của đất nước này.
Rõ ràng là từ khi thành lập chính phủ dân sự vào
tháng 3/2011 và chỉ định người đứng đầu Nhà nước không mặc quân phục mà
mặc bộ trang phục dân tộc, đất nước Mianma đã có bước tiến đáng kế, một
sự tiến triển đầy bất ngờ mà không ai có thể đoán trước được tại
một đất nước khép kín và nằm dưới ách của chế độ quân sự độc tài trước
đó. Một khuôn khổ thể chế và chính trị mới có lợi cho sự chuyển tiếp
mang tính dân chủ, phi bạo lực đã thắng thế (dù là tạm thời) trước những
người bảo vệ truyền thống quyền lực từ một nửa thế kỷ nay là các nhà
quân sự, một lực lượng đầy ảnh hưởng, hùng mạnh và có thế lực.
Nếu vào quí đầu của năm 2011, người dân Mianma và
các nhà quan sát nước ngoài còn phải hỏi liệu có nên tin tưởng vào bước
tiến mới mẻ của nhà cầm quyền Mianma không, thì giờ đây, dù chưa thật
sự thỏa mãn vì những cải cách ở Mianma chưa đụng chạm tới tất cả các
lĩnh vực cần thiết, nhưng người ta đã cảm nhận được sự năng động và
quyết tâm trong việc thực hiện thay đổi, thể hiện ý chí và niềm tin bằng
một trào lưu cải cách muốn đoạn tuyệt với quá khứ tồi tệ. Đây cũng là
cơ hội thể hiện quyết tâm của cựu thủ tướng (dưới thời Hội đồng quân sự)
và là cựu tướng, còn bây giờ là Tổng thống Thein Sein. Những cam kết
ông đưa ra rất thuyết phục, dường như không ai có thể nghi ngờ về tính
chân thành.
Tuy nhiên, sự tiến triển được nhiều người dân
Mianma ủng hộ và đa số các nước mong muốn này dù diễn ra một cách êm ả,
thuận lợi, song vẫn gặp phải những trở ngại nhất định. Phe những người
bảo thủ và các nhà quân sự vẫn tranh cãi về cơ hội và lợi ích của một sự
chuyển hướng như vậy, nhằm chống lại phe cải cách và những người tán
thành một Mianma mới. Vẫn còn những vấn đề mà thiện chí vẫn phải rất khó
khăn để thuyết phục được tất cả mọi người, thuyết phục được 55 triệu
người dân Mianma và cộng đồng quốc tế. Chính phủ đang dự định tiến hành
thương lượng với hai nhóm quân phiến loạn sắc tộc cuối cùng là Kachin
của KIA và Karen của KNU, tiến hành cải cách triệt để môi trường kinh tế
và tài chính, hiện đang còn rất bấp bênh, không phù hợp, tạo cơ hội cho
nạn tham nhũng và làm cho các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại.
Nhưng, những khó khăn ấy không phải là cơ bản, rõ
ràng cơ hội đang đến với Mianma, khi chính sách đầy tham vọng của Tổng
thống Thein Sein đang nhận được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế
cũng như sự đồng tình của đại bộ phận dân chúng trong nước, và của cả
các định chế tài chính khu vực và quốc tế, như Ngân hàng phát triển châu
Á (ADB), Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Và nữa,
những chuyến thăm lịch sử của nhiều chính khách nước ngoài, như chuyến
thăm đầu tiên của Ngoại trưởng Anh từ nửa thế kỷ nay, rồi Ngoại trưởng
Pháp v.v… cũng là những minh chứng cho sự công nhận tiến bộ hướng tới
dân chủ ở Mianma.