Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2012

73. Về ngoại giao châu Á của Nhật Bản năm 2009-2010

Đối với Nhật Bản, xây dựng một khu vực châu Á Thái Bình Dương ổn định, hòa bình và phát triển là yếu tố không thể thiếu đối với an ninh và sự phồn thịnh của đất nước này. Hiện nay, Nhật Bản vừa duy trì quan hệ đồng minh Nhật - Mỹ như là trục chính trong quan hệ ngoại giao của nước này, đồng thời tích cực thúc đẩy quan hệ ngoại giao với các nước châu Á, coi mục tiêu xây dựng “Cộng đồng Đông Á” mà Nhật Bản đóng vai trò dẫn đầu là mục tiêu dài hạn quan trọng trong chính sách ngoại giao châu Á của mình.
Năm 2009 và nửa đầu 2010 là giai đoạn xảy ra những diễn biến quan trọng trên chính trường Nhật Bản. Việc Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Hạ viện mùa thu năm 2009, rồi ngày mùng 2-6-2010 vừa qua lại chứng kiến Thủ tướng Hatoyama từ chức sau hơn 8 tháng cầm quyền đầy biến động - mà nguyên nhân chính là những khúc mắc trong việc giải quyết vấn đề di chuyển căn cứ quân sự Futenma, đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình chính trị - ngoại giao của đất nước mặt trời mọc. Trong hơn 8 tháng cầm quyền của Thủ tướng Hatoyama, với các cuộc viếng thăm khá nhộn nhịp tới hai người bạn láng giềng là Trung Quốc và Hàn Quốc, có thể nói, chưa bao giờ mối quan hệ với châu Á lại được ưu ái như thời gian này, nhưng đây cũng là lúc quan hệ với người đồng minh lớn - nước Mỹ lại gặp một số khó khăn. Giải quyết không thấu đáo vấn đề với Mỹ đã dẫn đến việc từ chức của thủ tướng Hatoyama. Có lẽ, đúng như vị cựu thủ tướng này nhận định: Nhật Bản đang đứng trước một tình thế tiến thoái lưỡng nan, khi “muốn độc lập hơn về kinh tế, chính trị với Mỹ, trong khi vừa phải bảo vệ lợi ích quốc gia trong bối cảnh  nước láng giềng Trung Quốc đang tìm mọi cách để trở thành số một”[1]. Nhật Bản cần phải kiếm tìm một một vị thế chính trị - kinh tế mới trong cộng đồng quốc tế, bằng sự “dính líu” nhiều hơn với châu Á với vai trò là “người dẫn đầu” trong việc xây dựng cộng đồng Đông Á, và trở thành chiếc cầu nối giữa phương Đông và phương Tây.
1. Vị thế của châu Á và vấn đề hợp tác Đông Á
Điểm đáng chú ý của châu Á hiện nay chính là sức mạnh kinh tế. Trong khu vực được mệnh danh là “Trung tâm tăng trưởng của thế giới” này, tổng thu nhập quốc nội (GDP) của các nước ASEAN + 6 (6 nước bao gồm: Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ôxtralia, Newziland) chiếm 23% GDP toàn thế giới, các nước APEC chiếm 53%, và tỉ lệ này được dự báo sẽ còn tiếp tục tăng trong tương lai. Đặc biệt, sau cuộc khủng hoảng kinh tế - tiền tệ thế giới 2007-2008, các nền kinh tế mới nổi ở Châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ đã đóng vai trò là trung tâm phục hồi kinh tế một cách mau chóng và vực dậy nền kinh tế thế giới.
Bên cạnh đó, còn có thể kỳ vọng ở các nền kinh tế vừa và nhỏ của khu vực này một sự phát triển đột phá cùng với sự phát triển của khu vực. Vai trò cũng như lợi ích của Nhật Bản - một quốc gia già hóa với tỷ lệ sinh thấp và chi phí phúc lợi đang ngày càng trở thành gánh nặng - là ở chỗ: muốn tiếp tục phát triển bền vững, nước này cần phải  chi viện về công nghệ và tài chính, giúp cho sự phát triển của các nước châu Á khác, đồng thời gắn sự phát triển của mình với “nhu cầu phát triển” của châu Á. Với thực trạng kinh tế hiện tại của châu Á thì sự hội nhập giữa các nước vẫn còn nhiều yếu tố cản trở, đặc biệt là rào cản về trình độ phát triển. Hợp tác nhằm vận hành tốt sự lưu thông con người, vật chất và tiền tệ, xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm giảm thiểu những yếu tố cản trở phát triển sẽ đem lại lợi ích cho Nhật Bản cũng như các nước châu Á khác.
Hiện tại, châu Á vẫn còn nhiều nguy cơ tiềm ẩn như: vấn đề an ninh trên Bán đảo Triều Tiên, vấn đề eo biển Đài Loan và các vấn đề khác về môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch cúm mới… Đặc biệt, sự kiện Bắc Triều Tiên bắn tên lửa và thử vũ khí hạt nhân năm 2009 không khỏi đem lại cho Nhật Bản một mối lo ngại về an ninh quốc gia. Trong tình hình này, rõ ràng Nhật Bản vẫn thấy cần thiết phải duy trì mối quan hệ đồng minh Nhật - Mỹ như một hòn đá tảng trong quan hệ chính trị - ngoại giao của Nhật Bản, bên cạnh việc tích cực góp phần vào việc xây dựng cộng đồng Đông Á. Có thể nói, xu hướng chính trong chính sách ngoại giao của Nhật Bản trong thời gian tiếp theo sẽ vẫn là duy trì trục quan hệ an ninh Nhật - Mỹ, đồng thời tăng cường vai trò chủ đạo của mình trong việc xây dựng cộng đồng Đông Á.
Trong năm 2009, Nhật Bản tiếp tục các lĩnh vực hợp tác được coi là nền tảng cho việc gắn kết các nước Đông Á như: thương mại, đầu tư, tiền tệ, môi trường, năng lượng, viện trợ nhân đạo, giáo dục, giao lưu con người, y tế cộng đồng (đối phó với các bệnh truyền nhiễm)… Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng vận dụng một cách linh hoạt và mềm dẻo các diễn đàn đã có như Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS), ASEAN + 3 (Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), APEC…, để thắt chặt mỗi quan hệ với các nước này. Cựu Thủ tướng Hatoyama Yokio đã trình bày ý tưởng này trong buổi diễn thuyết chính sách châu Á tại Singapo hồi tháng 11 vừa qua. Đặc biệt, ông cũng đưa ra các ví dụ cụ thể như “Hợp tác vì sự phồn vinh chung”, “Hợp tác nhằm bảo vệ một châu Á xanh”, “Hợp tác nhằm bảo vệ sinh mệnh” “hợp tác cùng xây dựng “vùng biển hữu ái”…, giao lưu thanh thiếu niên - giao lưu con người và khẳng định đây sẽ là các lĩnh vực mà Nhật Bản chú trọng hàng đầu.
Về phương diện kinh tế, tháng 5-2009 tại Bali, một thỏa thuận về Quỹ dự trữ ngoại tệ trị giá 120 tỷ USD đã được các Bộ trưởng của các nước ASEAN+3 thông qua. Tháng 3-2010 vừa qua, Quỹ đã chính thức ra mắt với phần đóng góp của Nhật Bản và Trung Quốc là 38,4 tỷ USD mỗi nước (chiếm 64%), Hàn Quốc là 19,2 tỷ USD (chiếm 16%) và các nước ASEAN đóng góp 24 tỷ USD (20%).
2. Các quan hệ của Nhật Bản trong khu vực
- Quan hệ bộ ba Nhật - Trung - Hàn
Trong khu vực, quan hệ với hai người láng giềng quan trọng là Hàn Quốc và Trung Quốc vẫn tiếp tục được tăng cường. Mặc dù vẫn còn những  yếu tố cản trở về quá khứ lịch sử, sự cạnh tranh vai trò là cường quốc dẫn đầu giữa Nhật Bản và Trung Quốc trong hiện tại, song có thể nói, nhìn trên bề mặt chưa bao giờ mối quan hệ giữa 3 quốc gia này phát triển như hiện nay. Các cuộc hội nghị thượng đỉnh và viếng thăm ngoại giao cấp cao (từ cấp bộ trưởng đến cấp nguyên thủ quốc gia) được tiến hành thường xuyên hơn bao giờ hết. Hội nghị thượng đỉnh “bộ ba Đông Á” Nhật - Trung - Hàn, được khởi động lần đầu tiên vào tháng 12-2008 tại Fukuoka Nhật Bản, lần thứ hai họp vào tháng 10-2009 tại Bắc Kinh, ngay sau khi Thủ tướng Hatoyama lên nhậm chức, và 30-5-2010 vừa qua tại đảo Jeju Hàn Quốc, đã tiếp tục củng cố mối quan hệ giữa 3 nước trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế, an ninh, môi trường và giao lưu con người.
Trong suốt thời gian cầm quyền, cựu Thủ tướng Hatoyama đã kêu gọi một mối quan hệ “gần gũi và bình đẳng hơn” với Mỹ, đồng thời cũng “chìa tay ra với các nước láng giềng, đặc biệt là Trung Quốc”. Thủ tướng Naoto Kan mới lên nắm quyền, cũng đã khẳng định rằng “Quan hệ Nhật Mỹ sẽ được duy trì như là cốt lõi trong chính sách đối ngoại của Tokyo, nhưng quan hệ với Trung Quốc cũng quan trọng không kém”[2]. Từ việc Nhật Bản đặt tầm quan trọng đặc biệt vào Trung Quốc, và Hàn Quốc thì vẫn là một đồng minh quan trọng của Nhật ở Đông Á, có thể thấy quan hệ tam giác Nhật - Trung - Hàn đang có một tương lai sáng sủa hơn.
- Quan hệ với các nước ASEAN
Một khu vực quan trọng trong ngoại giao châu Á của Nhật Bản là khu vực ASEAN. Với mục tiêu thành lập cộng đồng ASEAN vào năm 2015, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 15 được tổ chức tháng 10 năm 2009 vừa qua, các nước ASEAN đều thể hiện nỗ lực tiến tới mục tiêu trên với khẩu hiệu “tăng cường tính liên kết ASEAN”. Về phía Nhật Bản, hiểu rõ  ASEAN chính là trung tâm của sự liên kết châu Á và sự thịnh vượng của ASEAN gắn với sự ổn định và phát triển của khu vực Đông Á, Nhật Bản đã chủ động thể hiện sự đóng góp cho việc tăng cường tính liên kết khu vực, cũng như giúp xóa bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước trong khu vực này. Quan điểm này đã được các nhà lãnh đạo Nhật Bản thể hiện trong hội nghị thượng định Nhật Bản - ASEAN được tổ chức cùng thời gian. Tháng 11-2009, Hội nghị thượng đỉnh Nhật Bản - các nước tiểu vùng sông Mê-kông được tổ chức lần đầu tiên tại Tokyo. Tại đây, sáng kiến liên quan đến vấn đề môi trường - biến đổi khí hậu và phát triển đã được đưa ra với mục đích giảm bớt sự khác biệt trong khu vực, thúc đẩy sự hình thành cộng đồng ASEAN.
Ngoài ra, về hợp tác kinh tế, khung hiệp định khu vực mậu dịch tự do (FTA) mà ASEAN làm trung tâm đang từng bước được xây dựng. Năm 2008, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Nhật Bản - ASEAN đã được ký kết, mở ra một sự liên kết kinh tế đa phương. Bên cạnh đó, ý tưởng xây dựng khu vực mậu dịch tự do Đông Á (EAFTA) từ các nước ASEAN+3, ý tưởng thành lập khối liên kết kinh tế toàn diện Đông Á (CEPEA) từ ASEAN+6 (EAS), chuyển từ giai đoạn nghiên cứu ý tưởng cá nhân sang giai đoạn kiểm định ở cấp chính phủ, đã được thông qua vào Hội nghị thượng đỉnh ASEAN vừa qua.
Tháng 11-2009, Hội nghị thượng đỉnh APEC lần thứ 17 được tổ chức tại Singapor. Tuyên bố chung cấp thượng đỉnh về “Mô hình phát triển mới vì một châu Á - Thái Bình Dương gắn kết trong thế kỷ 21” đã được thông qua, trong đó các nước tham gia Hội nghị đều thống nhất về mục tiêu phục hồi kinh tế trong dài hạn thông qua tăng trưởng liên tục, bền vững và cân bằng giữa các nền kinh tế. Hội nghị cũng thống nhất việc cần phải tìm kiếm một lộ trình có tính khả thi nhằm hình thành khu vực thương mại tự do Châu Á - Thái Bình Dương (FTAAP).
Trong quan hệ Nhật Bản với Châu Á - Thái Bình Dương, không thể không kể đến các quan hệ song phương - nền tảng của hợp tác khu vực và là những trụ cột quan trọng trong ngoại giao châu Á của Nhật Bản.
- Quan hệ Nhật Bản – Hàn Quốc
Hàn Quốc là một quốc gia có vị trí địa lý gần gũi, và có nhiều điểm tương đồng với Nhật Bản trong chế độ chính trị, thể chế kinh tế và các yếu tố văn hóa. Hiện nay, Nhật Bản cùng với Hàn Quốc đang vượt qua những mặc cảm về quá khứ lịch sử, thông qua cơ chế “ngoại giao con thoi”, từng bước thắt chặt quan hệ hai nước, hướng tới mối quan hệ “đối tác trưởng thành”. Tháng 1 năm 2009 đã có cuộc hội đàm cấp cao Nhật - Hàn. Tháng 9 cùng năm, sau khi chính quyền mới của Nhật Bản được thiết lập, hai nước cũng đã có cuộc hội đàm cấp cao tại Newyork, và tháng 10 Thủ tướng Hatoyama có chuyến thăm ngoại giao đầu tiên sang Hàn Quốc. Về phương diện kinh tế, Hàn Quốc hiện là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Nhật Bản, và ngược lại, Nhật Bản cũng là đối tác thương mại thứ 2 của Hàn Quốc, quan hệ kinh tế giữa hai nước vẫn tiếp tục giữ vai trò trọng yếu. Và, để thắt chặt hơn quan hệ giữa hai nước, hiện nay một EPA Nhật - Hàn vẫn  tiếp tục được đàm phán.
- Quan hệ Nhật Bản – Trung Quốc
Với Trung Quốc, chính quyền DPJ đã chủ động thắt chặt hơn mối quan hệ với người láng giềng đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, cũng như ngày càng có tiếng nói mạnh hơn về kinh tế, chính trị trong các diễn đàn quốc tế và khu vực. Gần đây, luồng dư luận cho rằng sự “sốt sắng” của cựu Thủ tướng Hatoyama trong việc gắn kết với Bắc Kinh đã chứng tỏ việc “tái xem xét vai trò của Tokyo trong khu vực”, vào thời điểm “Mỹ bộc lộ những suy thoái không thể nhầm lẫn”, đồng thời “nó cũng phản ánh nhận thức ngày càng tăng ở Nhật rằng tương lai kinh tế nước này đang gắn chặt với Trung Quốc - quốc gia đã vượt qua Mỹ để trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản”[3]. Sự kiện Nhà trắng o ép Nhật Bản thông qua một thỏa thuận gây tranh cãi về việc giữ căn cứ không quân trên đảo Okinawa, trái ngược với các cuộc viếng thăm nhộn nhịp khác thường giữa giới lãnh đạo cấp cao Nhật Bản và Trung Quốc trong năm 2009 vừa qua, gợi đến một sự thay đổi trong suy tính của Nhật Bản về đối tác truyền thống của nước này. Bất luận những ý kiến nhiều chiều về quan hệ ngoại giao hai nước, năm 2009 được xem là một năm ngoại giao tích cực, có khả năng phá đi tảng băng vốn tồn tại lâu năm trong quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Hiện nay, hai nước đang từng bước hoàn chỉnh và cụ thể hóa nội dung của quan hệ “Đối tác chiến lược hai bên cùng có lợi”.
- Quan hệ Nhật Bản – Cộng hòa DCND Triều Tiên
Về quan hệ Nhật Bản - Cộng hòa DCND Triều Tiên, năm qua xảy ra những sự kiện làm trầm trọng hóa quan hệ không mấy tốt đẹp của hai nước này. Vụ thử tên lửa và  vũ khí hạt nhân gây nhiều tranh cãi hồi tháng 4 và tháng 5-2009 vừa qua của Triều Tiên đã gây làn sóng lo ngại ở Nhật Bản. Quan hệ vốn đã không tốt đẹp giữa hai bên càng thêm căng thẳng, khi Nhật Bản gửi kháng nghị đến Triều Tiên và coi đây là “những hành động không thể dung thứ”. Về vấn đề người bị bắt cóc, trong Cam kết Nhật - Triều tháng 8-2008 hai bên đã thống nhất sẽ tiến hành điều tra về vấn đề này, song cho đến nay, dường như vẫn chưa có hành động cụ thể nào.
- Quan hệ với các quốc gia và khu vực khác
Trong quan hệ với Mông Cổ, tháng 7-2009, Hội đàm cấp cao Nhật Bản - Mông Cổ đã được tổ chức tại Tokyo. Ngoài ra, năm qua còn có hai cuộc hội đàm cấp bộ trưởng. Thông qua các cuộc trao đổi ý kiến giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, hai bên đang thắt chặt lòng tin và mối quan hệ giữa hai nước. Trong lĩnh vực kinh tế, để tăng cường hơn nữa mối quan hệ kinh tế giữa hai nước, nghiên cứu về EPA Nhật Bản - Mông Cổ vẫn đang được tiến hành, hướng tới tiếp theo là bước ký kết hiệp định kinh tế giữa hai chính phủ, tiến đến xây dựng “quan hệ đối tác toàn diện Nhật Bản - Mông Cổ”.
Đối với khu vực Nam Á, nơi có dân số lên tới hơn 1,5 tỷ người và có Ấn Độ là quốc gia mới nổi với tốc độ phát triển kinh tế đáng kinh ngạc, Nhật Bản tất nhiên không thể không xem đây là một khu vực ngoại giao quan trọng. Lợi thế trong quan hệ ngoại giao với Nam Á có rất nhiều. Thứ nhất, đây là khu vực không có những bất đồng quá khứ trong quan hệ với Nhật Bản. Thứ hai, đây là khu vực có nhiều quốc gia thân Nhật, tích cực ủng hộ Nhật Bản trong các diễn đàn quốc tế. Mặt khác, đây còn là khu vực có vị trí địa lý hết sức quan trọng với tuyến đường vận tải biển nối liền Châu Á và Trung Đông. Vì vậy, Nhật Bản cũng hết sức coi trọng quan hệ với các nước nằm trong khu vực này.
Với Ấn Độ, một nền kinh tế mới nổi trong thời đại toàn cầu hóa, từ năm 2005 đến nay chính phủ Nhật Bản thường xuyên có các cuộc viếng thăm cấp cao hàng năm. Ngày 29/12/2009 đánh dấu một giai đoạn phát triển trong quan hệ giữa hai nước, khi thủ tướng Hatoyama tới thăm Ấn độ và có cuộc hội đàm với Thủ tướng Singh của Ấn độ về vấn đề an ninh và mở rộng hợp tác kinh tế giữa 2 nước. Vừa qua, Nhật Bản và Ấn Độ đã ký Tuyên bố chung về “Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn cầu”, và Tuyên bố chung về “Hợp tác An ninh giữa Nhật Bản và Ấn Độ”. Nhật Bản là quốc gia thứ ba ký hợp tác an ninh với Ấn Độ, sau Mỹ và Ôxtrâylia. Nước này đang giữ một vị trí quan trọng trong chính sách Hướng Đông của Ấn Độ. Đồng thời, Ấn độ cũng trở thành một đối tác quan trọng của Nhật Bản ở Châu Á, và là một đối trọng trong bối cảnh Tokyo dự tính xem xét lại quan hệ với Washinton.
Tuy nhiên, hiện nay khu vực Nam Á vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần phải giải quyết như: vấn đề dân chủ, xây dựng hòa bình và chống khủng bố. Tại Srilanca, Chính quyền quân sự đang có những động thái muốn kết thúc cuộc nội chiến bằng cách tiêu diệt những thành phần chống đối chính phủ. Còn tại Pakistan, số người chết do khủng bố đã lên tới con số cao nhất trong lịch sử và các vụ khủng bố vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt. Tháng 4-2009, Nhật Bản đã tổ chức cuộc gặp gỡ giữa các nước giúp đỡ Pakistan, lập ra một Chiến lược mới chi viện cho việc chống khủng bố và tuyên bố Gói chi viện mới cho Pakisan và Afganisan vào tháng 11 cùng năm. Do tầm quan trọng của khu vực Nam Á như vậy, Nhật Bản đã thể hiện một chính sách ngoại giao tích cực với khu vực này trong các diễn đàn quốc tế, đồng thời hỗ trợ cho Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) ở 3 lĩnh vực chính là: Hỗ trợ xây dựng hòa bình và dân chủ; Hỗ trợ xúc tiến hợp tác khu vực và Hỗ trợ giao lưu con người.
Ở khu vực Thái Bình Dương, Ôxtrâylia và Niuzilân là hai đối tác quan trọng, có nhiều giá trị cơ bản tương đồng với Nhật Bản, ví dụ như đều là đồng minh của Mỹ. Đặc biệt, quan hệ giữa Nhật Bản và Ôxtrâylia hiện nay đang phát triển thành “quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và ổn định của khu vực”. Hiện nay hai nước đang có những liên kết mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế.
Cuối cùng, các quốc đảo Thái Bình Dương cũng là những đối tác quan trọng của Nhật Bản, trên cơ sở vừa là những quốc gia thân Nhật, vừa là những nước bạn hàng cung cấp cho Nhật Bản nguồn thủy sản phong phú. Tháng 5-2009, tại Hokkaido Nhật Bản đã tổ chức Diễn đàn cấp cao các nước đảo Thái Bình Dương (PIF). Tại diễn đàn này, Nhật Bản đã tuyên bố chính sách viện trợ 3 năm với tổng số tiền là 50 tỷ yên nhằm tăng cường quan hệ với các quốc gia đảo này.
Kết luận:
Như vậy là, năm 2009 và nửa đầu năm 2010 đánh dấu một giai đoạn tích cực và tốt đẹp trong quan hệ ngoại giao của Nhật Bản với châu Á - Thái Bình Dương. Có thể thấy những điểm nổi bật như sau:
- Chính phủ mới của Nhật Bản đề cao tầm quan trọng của ngoại giao châu Á trong chiến lược ngoại giao của mình, với điểm chủ chốt là xây dựng một “Cộng đồng Đông Á” mà Nhật Bản đóng vai trò dẫn đầu.
- Để tiến tới xây dựng Cộng đồng Đông Á, việc thặt chặt quan hệ bộ ba nền kinh tế đầu tàu Đông Á Nhật - Trung - Hàn là vô cùng quan trọng. Nhật Bản đã thể hiện nỗ lực đặc biệt của mình trong hơn một năm qua bằng các cuộc viếng thăm cấp cao và các cuộc gặp 3 bên một cách thường xuyên hơn bao giờ hết. Mặc dù vẫn còn những yếu tố cản trở do lịch sử để lại, và sự cạnh tranh trong hiện tại, song sự gắn kết ngày càng chặt chẽ giữa ba quốc gia trong lĩnh vực kinh tế và an ninh khu vực là điều không thể phủ nhận.
- Trong khu vực, mối quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc đã tiến triển tốt đẹp đến mức không khỏi làm các chuyên gia về quan hệ quốc tế của nước này so sánh nó với quan hệ Nhật - Mỹ, mối quan hệ truyền thống và là trục chính trong quan hệ ngoại giao của Nhật Bản. Sự lớn mạnh nhanh chóng của nền kinh tế Trung Quốc đang ngày càng gắn chặt lợi ích của Nhật Bản với nước này. Mối quan hệ với Trung Quốc đã trở thành một trục quan trọng, như lời Tân thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan phát biểu: “Nhật Bản cần đi theo hướng xây dựng một quan hệ tin cậy với Mỹ trong khi đặt tầm quan trọng đặc biệt với Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng đó chính là con đường đúng đắn cho tương lai của Nhật Bản”[4].
- Quan hệ với các nước ASEAN cũng là một phần quan trọng trong chính sách ngoại giao châu Á của Nhật Bản, bởi đây là khu vực năng động, có các nền kinh tế vừa và nhỏ, nhưng tăng trưởng nhanh, và là trung tâm hợp tác kinh tế khu vực. Nhật Bản đang điều chỉnh chính sách trong quan hệ với các nước ASEAN, đặc biệt là tiểu vùng sông Mê-kông, theo hướng hỗ trợ để xóa bỏ ngăn cách về trình độ phát triển của các nước này trong khu vực. Việc này sẽ tăng cường vai trò chính trị của Nhật Bản trong khu vực.
- Đặc biệt nổi bật trong những năm gần đây, phải kể đến quan hệ Nhật Bản - Ân Độ và Nhật Bản - Ôxtrâylia. Hai quốc gia này đang trở thành những đối tác hết sức quan trọng của Nhật Bản, một trong số ít các quốc gia mà Nhật Bản ký hợp tác an ninh cũng như hiệp định hợp tác thương mại tự do (FTA). Không mấy khó khăn để có thể nhận thấy rằng, quan hệ tốt đẹp với hai quốc gia trên sẽ giúp Nhật Bản có một vị thế chính trị - ngoại giao lớn hơn ở khu vực châu Á, đồng thời cũng tạo ra cán cân đối trọng nếu Mỹ tiến gần hơn với Trung Quốc.

Ths. Ngô Hương Lan
Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

(Bài đăng lại từ Website NCNB cũ).

Tài liệu tham khảo:
1. Claude Meyer: “Tầm nhìn của Thủ tướng Hatoyama về cộng đồng Đông Á: quan điểm của Châu Âu”, Tạp chí Japan Spotlight tháng 3 và 4/2010.
2. Masami Ito: “Thủ tướng Naoto Kan cần cân bằng quan hệ với Mỹ”, Japan Times ngày 5/6/2010.
3. Thanh Bình: “Mỹ mất mặt trận ngoại giao ở Nhật vào tay Trung Quốc”, Báo điện tử Vietnamnet ngày 26-1-2010.
http://vietnamnet.vn/thegioi/201001/My-mat-mat-tran-ngoai-giao-o-Nhat-vao-tay-Trung-Quoc-891539/
4. Sách xanh ngoại giao Nhật Bản năm 2010.
http://www.mofa.go.jp/mofaj/gaiko/bluebook/2010/index.html
5. TTXVN, Tài liệu tham khảo đặc biệt, các số năm 2009 và tháng 3/2010.


[1] “Tầm nhìn của Thủ tướng Hatoyama về cộng đồng Đông Á: quan điểm của châu Âu”.
[2] Masami Ito: “Thủ tướng Naoto Kan cần cân bằng quan hệ với Mỹ”, Japan Times ngày 5/6/2010.
[3] Mỹ mất mặt trận ngoại giao ở Nhật và tay Trung Quốc.
[4] Masami Ito: “Thủ tướng Naoto Kan cần cân bằng quan hệ với Mỹ”, Japan Times ngày 5/6/2010.