Thách thức của Obama là
một thách thức mà những người kế nhiệm ông cũng có thể phải đối đầu: làm
thế nào để thúc đẩy những lợi ích của Mỹ trong một thế giới mà thường
không tự động đáp ứng sự lãnh đạo của Mỹ cho dù Mỹ vẫn là nước hùng mạnh
và có nhiều ảnh hưởng nhất duy nhất.
Thập
kỷ kể từ sự kiện 11/9 đã chứng kiến hai tầm nhìn chính sách đối ngoại
cạnh tranh nhau của Mỹ. Phản ứng của George W.Bush trước cuộc tấn công
này là tuyên bố một cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố. Bị thuyết phục
rằng Mỹ đã phải đối mặt với một mối đe dọa hiện hữu được các nhà nước
khác kích động và lạc quan về khả năng sức mạnh Mỹ định hình lại thế
giới, Mỹ đã bắt đầu tấn công. Ở Ápganixtan, nước này đã chiến đấu để
tiêu diệt hay bắt giữ các phần tử Al-Qaeda và những người ủng hộ họ. Ở
Irắc, nước này đã chiến đấu để phá vỡ mối quan hệ của những kẻ khủng bố,
những kẻ chuyên quyền với những công nghệ hủy diệt hàng loạt. Nhưng
cuộc chiến tranh Irắc đã tạo ra thứ gì đó mà Bush không thể dự tính được
– một cuộc chiếm đóng kéo dài và đẫm máu chứng tỏ những hạn chế của sức
mạnh Mỹ. Sự chỉ trích chính sách đối ngoại của Mỹ đã tăng vọt, cả ở
trong nước lẫn ở nước ngoài.
Barack
Obama đã đánh trúng vào tâm trạng vỡ mộng của công chúng Mỹ về Irắc và
chính sách đối ngoại của Mỹ nói chung hơn bằng việc bác bỏ những nguyên
tắc cốt lõi trong thế giới quan của Bush. Trong phân tích của mình, Bush
đã không thể nhận ra sự toàn cầu hóa đã tái tạo hoạt động chính trị thế
giới như thế nào. Nó đã phân tán sức mạnh trên khắp toàn cầu và tạo ra
một loạt các vấn đề mới, trong đó khủng bố chỉ là một vấn đề, vượt quá
phạm vi các đường biên giới. Sức mạnh quân sự to lớn chỉ giúp ích có
giới hạn trong một môi trường như vậy, và Mỹ không thể thực hiện việc đó
một mình. Nước này cần các đối tác để đạt được những mục tiêu của mình
và bảo vệ những lợi ích của mình. Và chỉ có thể lôi kéo được những đối
tác đó thông qua sự can dự về mặt ngoại giao chứ không phải bằng sự hăm
dọa. Tuy nhiên, mặc dù những sự khác biệt giữa Bush và Obama, cả hai có
chung một đặc điểm: sự tin chắc rằng những nước khác đều muốn và cần sự
lãnh đạo của Mỹ. Niềm tin này đã phản ánh hơn nửa thế kỷ thành công của
Mỹ với tư cách là một siêu cường toàn cầu. Sự lãnh đạo của Mỹ là cần
thiết đối với mọi việc từ tạo ra Liên Hợp Quốc đến lãnh đạo thế giới
trong công cuộc giải phóng Côoét. Sự lãnh đạo toàn cầu của Mỹ không phải
là một lời nói khoác mà là một thực tế.
Tuy
nhiên, ngay cả khi Obama hứa hẹn bắt đầu “phục hồi sự lãnh đạo của Mỹ”,
chính xu hướng mà ông đã trích dẫn để chỉ trích chính sách đối ngoại
của Bush – sự toàn cầu hóa – ít nhất là đang làm phức tạp những nỗ lực
của ông và tồi tệ nhất là phá hỏng chúng. Như Obama đã nhận ra trong hai
năm đầu cầm quyền rằng những lời nói tử tế, một bàn tay rộng mở và sự
sẵn lòng lắng nghe không đảm bảo có được sự hợp tác, chứ chưa nói đến
thành công trong chính sách đối ngoại. Những đối tác mong đợi của ông
thường bất đồng về bản chất của vấn đề, cái gì tạo nên một giải pháp xác
đáng và ai nên mang gánh nặng thực hiện nó. Họ có những lợi ích và ưu
tiên của riêng mình, và thường thì họ không hướng đến Oasinhtơn để tìm
kiếm sự chỉ dẫn. Làm thế nào để thành công ở một thế giới mà trong đó
các nước khác đang ngày càng phớt lờ hay tranh giành quyền lãnh đạo của
Mỹ thay vì đón nhận nó là một thách thức quan trọng hơn cả mà Mỹ phải
đối mặt trong những năm tới. Như Obama lưu ý một cách đúng đắn, phần lớn
những gì ông hay bất cứ vị tổng thống nào của Mỹ muốn đạt được ở nước
ngoài đòi hỏi phải có sự hợp tác của những nước khác. Nhưng làm thế nào
có thể có được sự hợp tác đó một cách tốt nhất? Sự cám dỗ là trung thành
với những cách làm việc trong quá khứ. Việc thay đổi các chiến lược,
sửa lại những ưu tiên, và đổi mới những nhiệm vụ là đau đớn về mặt chính
trị và nguy hiểm tiềm tàng. Nhưng một chính sách đối ngoại phớt lờ việc
môi trường toàn cầu đã thay đổi nhiều như thế nào sẽ dẫn đến thất bại
hơn là thành công.
Cuộc chiến chống khủng bố
George
W.Bush không có ý định hoạch định lại chính sách đối ngoại. Khi ông
tuyên bố tranh cử tổng thống vào năm 1999, các vấn đề trong nước nằm ở
hàng đầu chương trình nghị sự chính trị, chính sách đối ngoại là một suy
nghĩ đến sau đối với hầu hết người Mỹ. Bush đương nhiên có vẻ hướng nội
hơn là hướng ngoại trong chiến dịch tranh cử năm 2000 và 8 tháng đầu
ông cầm quyền. Đặc biệt là cả Al-Qadea lẫn khủng bố đều không được cho
là vấn đề nổi bật khi ông chuyển hướng sang chính sách đối ngoại. Sự
kiện 11/9 đã thay đổi tính toán đó và cùng với nó là định hướng của
chính sách đối ngoại Mỹ. Chiến đấu chống khủng bố đã trở thành không
phải là một sự ưu tiên nào đó, mà là một sự ưu tiên xác định. Bush đã
xem sự kiện 11/9 không chỉ là một hành động khủng khiếp mà còn là một
mối đe dọa hiện hữu xếp ngang hàng với những mối đe dọa từ Đức Quốc Xã
và Liên Xô. Đây không phải là một xung đột địa chính trị bình thường, mà
là một cuộc xung đột giữa thiện và ác đã tác động đến tất cả các nước
trên thế giới. Ông đã nói với những người khóc than tại buổi cầu nguyện 3
ngày sau các cuộc tấn công ngày 11/9: “Trách nhiệm của chúng ta đối với
lịch sử là rõ ràng: trả đũa những cuộc tấn công này và giải thoát thế
giới khỏi cái ác”.
Sự
miêu tả của Bush về mối đe dọa này đã tất yếu dẫn đến một phương thuốc
chính sách: một “cuộc chiến chống khủng bố”. Cả hai danh từ trong cụm từ
đó đều có ý nghĩa to lớn. Mỹ sẽ không phản ứng mang tính phòng thủ bằng
việc dựa vào việc thực thi pháp luật và các biện pháp bị động như có
thêm bảo vệ, súng ống và cánh cửa để tự bảo vệ mình; thay vào đó, nước
này sẽ bắt đầu ở vào thế tấn công. Như ông đã nói với các cố vấn của
mình: “Chúng ta cần phải chiến đấu ở bên ngoài bằng việc đưa cuộc chiến
tranh này đến với những kẻ xấu”. Mục tiêu này vượt ra ngoài Al-Qaeda, để
bao gồm tất cả những kẻ khủng bố toàn cầu và các nhà nước ủng hộ chúng.
Theo lời lẽ của thứ được biết đến như học thuyết Bush thì “Chúng ta sẽ
không phân biệt giữa những kẻ khủng bố dính líu vào những hành động này
và những người dung túng cho chúng”. Cuộc chiến chống khủng bố của Bush
dựa trên 5 giả định.
Thứ
nhất, ưu thế toàn cầu của Mỹ, và đặc biệt là ưu thế về quân sự của nước
này, đã mang lại cho Mỹ khả năng chưa từng có thực hiện cuộc chiến
tranh ở nước ngoài. Thứ hai, việc Oasinhtơn miễn cưỡng đáp trả về mặt
quân sự các đòn tấn công khủng bố trong hai thập kỷ trước đã khuyến
khích Al-Qaeda và đồng bọn của tổ chức này. Phó Tống thống Dick Cheney
đã lập luận về điểm này một cách thường xuyên và mạnh mẽ: “Sự yếu kém,
dao động và việc Mỹ không sẵn lòng sát cánh với những người bạn của
chúng ta – điều đó là mang tính khiêu khích. Nó khuyến khích những kẻ
như Osama bin Laden... tiến hành những đòn tấn công nhiều lần nhằm vào
Mỹ, vào người dân của chúng ta ở nước ngoài và trong nước ở đây, với
quan điểm rằng kẻ đó trên thực tế có thể làm như vậy mà không bị trừng
phạt”. Thứ ba, các học thuyết răn đe và ngăn chặn trong Chiến tranh Lạnh
sẽ không có tác dụng với những kẻ khủng bố. Những lời đe dọa trả đũa
không có ý nghĩa gì với các nhóm không có lãnh thổ phải bảo vệ. Kết luận
đó là đáng ngại, do nỗi lo sợ rằng cuộc tấn công khủng bố tiếp theo có
thể làm cho vụ khủng bố 11/9 dường như có vẻ nhỏ bé. Những cuộc tấn công
bằng vi khuẩn bệnh than vào mùa Thu năm 2001 đã dựng lên bóng ma khủng
bố sinh học quy mô lớn. Những báo cáo tình báo cho rằng Al-Qaeda có thể
có khả năng chế tạo những quả bom phóng xạ (“bom bẩn”), nếu không có
được vũ khí hạt nhân. Nước này phải sẵn sàng hành động trước. Thứ tư,
những kẻ khủng bố không thể hoạt động mà không có sự hỗ trợ của nhà
nước. Bush đã chỉ rõ điều này trong Thông điệp Liên bang năm 2002 của
mình: Iran , Irắc, Bắc Triều Tiên và “những đồng minh khủng bố của họ
tạo thành trục ma quỷ”. Các nhà nước thù địch với Mỹ có thể trang bị cho
những kẻ khủng bố vũ khí hủy diệt hàng loạt. Điều đó đã khiến cho cuộc
chiến chống khủng bố không thể phân biệt được với nỗ lực ngăn chặn các
chế độ không lương thiện. Quả thật, trong một vài đoạn văn ngắn xác định
“trục ma quỷ”, Bush đã thề rằng: “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ sẽ không cho
phép những chế độ nguy hiểm nhất thế giới đe dọa chúng ta bằng vũ khí
mang tính hủy diệt nhất thế giới”. Thứ năm, các liên minh và các tổ chức
đa phương đôi khi có thể giúp Mỹ tiến hành cuộc chiến chống khủng bố,
nhưng chúng không phải là thiết yếu. Mỹ có thể hoàn thành những gì nước
này cần phải làm về mặt quân sự mà không cần có sự giúp đỡ của các liên
minh, và nước này không nên để các nước khác ra lệnh cho những gì nước
này có thể làm. Bush đã thừa nhận: “Ở một thời điểm nào đó chúng ta có
thể là những người duy nhất còn lại. Điều đó vẫn ổn với tôi. Chúng ta là
nước Mỹ”. Chủ nghĩa đơn phương của Bush đã có trước sự kiện 11/9, và nó
đã làm căng thẳng nghiêm trọng các mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương.
Nhưng ông và các cố vấn của mình bị thuyết phục rằng xét cho cùng bởi vì
họ đang đấu tranh cho những lợi ích của bạn bè mình (nếu không muốn nói
là theo cách mà bạn bè ưa thích) và không tìm kiếm lợi thế cho mình,
nên các đồng minh cuối cùng sẽ hợp lại bên họ.
Cuộc
chiến chống khủng bố của Bush đã có một tác động đáng kể đối với chiến
lược lớn của Mỹ: cuộc thảo luận về cuộc xung đột nước lớn đã nhạt dần.
Trong chiến dịch tranh cử, Bush đã chế nhạo Chính quyền Clinton vì xoa
dịu một Trung Quốc đang nổi lên và nuông chiều một nước Nga mục nát.
Thời gian đầu trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, ông dường như hướng
tới tới việc đối đầu với cả hai nước này. Tuy nhiên, khi Chiến lược an
ninh quốc gia ra mắt vào tháng 9/2002, mọi việc có vẻ khác: “Ngày nay,
cộng đồng quốc tế có cơ hội tốt nhất khi nhà nước-dân tộc này trỗi dậy
vào thế kỷ 17 để xây dựng một thế giới mà các nước lớn cạnh tranh trong
hòa bình thay vì liên tục chuẩn bị cho chiến tranh. Ngày nay, các nước
lớn của thế giới nhận thấy họ đang ở cùng một phe – đoàn kết với nhau do
những mối đe dọa chung từ bạo lực khủng bố và tình trạng hỗn loạn”.
Đánh giá của Bush rằng những lợi ích nước lớn tương thích với nhau hơn
là cạnh tranh nhau đã mang lại cho ông sự tự do đáng kể để thực hiện sức
mạnh Mỹ.
Những hạn chế của một siêu cường
Học
thuyết Bush được áp dụng trước hết ở Ápganixtan. Vào ngày 12/9/2001,
Liên Hợp Quốc đã cho phép thực hiện “tất cả những bước cần thiết” để trả
đũa những cuộc tấn công vào ngày hôm trước. Cùng ngày, lần đầu tiên
trong lịch sử của mình, NATO đã viện dẫn mục 5, buộc tổ chức này phải
bảo vệ thành viên của mình. Chưa đầy 1 tuần sau, Quốc hội Mỹ gần như
nhất trí ủy quyền cho Bush “sử dụng tất cả sức mạnh cần thiết và thích
hợp để chống lại những nước, tổ chức, hay cá nhân mà ông cho là đặt kế
hoạch, cho phép, dính líu, hay giúp đỡ các cuộc tấn công khủng bố đã
diễn ra vào ngày 11/9/2001, hay dung túng những tổ chức hay những kẻ như
vậy”. Những nhà nghiên cứu về lịch sử phản thực tế sẽ suy xét trong một
thời gian dài việc chính sách đối ngoại của Bush đáng nhẽ có thể phát
triển ra sao nếu nhà lãnh đạo Mullah Omar của Ápganixtan trao Osama bin
Laden theo yêu cầu của Mỹ. Tuy nhiên, ông đã không làm như vậy và Mỹ
cùng với các lực lượng gồm gần 20 nước tham gia, đã tấn công Ápganixtan
vào tháng 10. Bất chấp sự khởi đầu chậm chạp, các lực lượng do Mỹ dẫn
đầu đã đánh tan Taliban tương đối nhanh gọn. Vào đầu tháng 12, chính
quyền Taliban đã sụp đổ.
Hầu
hết các đồng minh của Mỹ cho là Bush theo đuổi chính sách chỉ có
Ápganixtan. Trên thực tế, ông theo đuổi chiến lược trước hết là
Ápganixtan. Với việc Taliban sụp đổ, trọng tâm của ông chuyển hướng sang
Irắc. Các cố vấn của ông đã tranh luận về việc có nên hay không xâm
lược Irắc ngay sau sự kiện 11/9. Bush đã quyết định phản đối điều này
như một bước đầu tiên, nhưng Saddam Husein là hiện thân cho sự hội tụ 3
nỗi lo sợ của Bush – khủng bố, những kẻ tàn bạo, các công nghệ hủy diệt
hàng loạt. Mặc dù các cơ quan tình báo Mỹ đã không tìm ra bất cứ bằng
chứng nào về mối liên hệ giữa Saddam Husein và Al-Qaeda, nhưng Bush tin
rằng ông ta “không muốn gì hơn là sử dụng một mạng lưới khủng bố để tấn
công và giết chóc và không để lại dấu vết nào”. Như Condeleezza nói, do
những lợi ích, Mỹ không thể chờ đợi “vì bằng chứng sẽ là một đám mây
hình nấm”.
Kể
từ đó quyết định của Bush không phải là có tiến hành chiến tranh ở Irắc
hay không mà là làm thế nào để thực hiện điều đó. Các quan chức chính
phủ đã có rất nhiều bài diễn văn và phỏng vấn trong nỗ lực thuyết phục
người dân Mỹ rằng các vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD) của Irắc tạo ra
một mối đe dọa không thể chấp nhận được. Nỗ lực này đã thành công. Vào
tháng 10/2002, Quốc hội Mỹ đã cho phép tiến hành cuộc chiến tranh chống
Irắc. Bush đã tìm kiếm một phiếu ủng hộ tương tự từ Hội đồng Bảo an Liên
Hợp Quốc. Ông đã làm thế vì nhiều lý do – một sự cho phép của Liên Hợp
Quốc sẽ củng cố sự ủng hộ chính trị trong nước và tạo thêm nhiều áp lực
lên Bátđa. Tuy nhiên, ông không tin rằng ông cần sự ban phước của Liên
Hợp Quốc để tiến hành chiến tranh. Khi không có sự ban phước đó, Mỹ,
cùng với sự ủng hộ của “một liên minh tự nguyện” mà nếu xét về những sự
đóng góp quân đội thì bao gồm trước hết là Anh và ở mức độ nhỏ hơn là
Ôxtrâylia và Ba Lan, đã xâm lược Irắc vào tháng 3/2003 – trước những sự
phản đối kịch liệt của hầu hết phần còn lại của thế giới.
Bátđa
đã sụp đổ thậm chí còn nhanh hơn Cabun, chỉ trong chưa đầy 4 tuần.
Nhưng những buổi ăn mừng “nhiệm vụ được hoàn thành” tỏ ra là hấp tấp.
Vào mùa Hè năm 2003, một cuộc nổi dậy đã thu hút sự chú ý của phần lớn
Irắc. Bush đã quy vấn đề này cho thất bại trong việc dự tính “những hậu
quả của sự thành công mang tính thảm họa”. Việc lên kế hoạch cho sự
chiếm đóng sau chiến tranh đã cho thấy rằng các lực lượng Mỹ sẽ chuyển
giao quyền lực cho người Irắc sau một vài tháng. Điều này đã phản ánh sự
chán ghét mang tính tư tưởng việc xây dựng quốc gia của Bush, có từ
thời chiến dịch tranh cử. Khi cuộc nổi dậy có được sức mạnh, Tổ chức
nghiên cứu Irắc (ISG) đã cố gắng tìm kiếm WMD của Irắc. Bất chấp việc
huy động 1.400 người và đầu tư hơn 1 tỷ USD, vẫn không phát hiện ra được
bất cứ vũ khí hạt nhân, hóa học hay sinh học nào. Người đứng đầu ISG đã
nói trước Thượng viện Mỹ rằng về chương trình WMD của Irắc “chúng ta
gần như hoàn toàn sai”. Lý do căn bản đầu tiên của cuộc chiến tranh này
đã bị lầm lẫn. Không tìm thấy bất cứ WMD nào, Bush ngày càng điều chỉnh
cuộc chiến tranh này theo hướng thúc đẩy dân chủ ở Irắc và cuối cùng là
phần còn lại của thế giới Arập. Quyền tự do đã là chủ đề trong những
phát biểu trước công chúng của Bush có từ bài diễn văn đầu tiên trong
chiến dịch tranh cử của ông. Tuy nhiên, trước đây nó không phải là một
sự ưu tiên. Nhưng nó đã trở thành một công cụ bằng lời lẽ hiệu quả để
mài mòn những chỉ trích trong nước. Nó chuyển hướng sự chú ý từ vấn đề
WMD và các yếu tố vũ lực sang hoặc tán thành với ông hoặc giải thích tại
sao họ phản đối chế độ dân chủ đang lan rộng.
Trong
bài diễn văn nhậm chức thứ hai của mình, Bush đã chuyển hướng khỏi Học
thuyết Bush ban đầu và xác định thúc đẩy chế độ dân chủ là mục tiêu hàng
đầu của chính sách đối ngoại Mỹ, tuyên bố rằng: “Chính sách của Mỹ
chính là tìm kiếm và ủng hộ sự phát triển của các thể chế dân chủ ở mọi
quốc gia và nền văn hóa, với mục tiêu cuối cùng là chấm dứt chế độ
chuyên chế trong thế giới của chúng ta”. Chỉ vài tuần sau bài diễn văn
này, Ngoại trưởng Rice đã hủy bỏ chuyến công du đến Ai Cập để phản đối
việc bắt giữ một nhà hoạt động dân chủ người Ai Cập. Khi Rice cuối cùng
đã đến Cairô vào cuối năm đó, bà đã công khai nói trước một buổi nhóm
họp các nhà cải cách Ai Cập: “Tất cả các dân tộc tự do sẽ sát cánh với
bạn khi bạn giữ vững những lời cầu nguyện cho sự tự do của chính
mình”. Tuy nhiên, “chương trình nghị sự tự do” của Bush đã sớm vấp phải
nhiều vấn đề. Một là chính quyền không có một chiến lược nào để hoàn
thành mục tiêu cao cả của mình. Chỉ vài tuần sau khi đọc bài diễn văn
nhậm chức thứ hai, Bush đã đệ trình một yêu cầu ngân sách mà thực tế cắt
giảm các quỹ chi cho những nỗ lực thúc đẩy chế độ dân chủ của chính
phủ. Một vấn đề thứ hai là sự thúc đẩy chế độ dân chủ thường xung đột
với các mục tiêu chính sách đối ngoại quan trọng khác của Mỹ, nổi bật
nhất là việc chống khủng bố. Nhiều đồng minh trong cuộc chiến chống
khủng bố là các chế độ chuyên quyền. Việc yêu cầu họ đón nhận cuộc cải
cách dân chủ có nguy cơ đánh mất sự hợp tác của họ trong vấn đề khủng
bố. Vấn đề thứ ba là chế độ dân chủ có thể tạo ra các chính quyền thù
địch với những lợi ích của Mỹ. Điều đó đã đột ngột xảy ra vào đầu năm
2006 khi người Palextin bầu Hamas lên nắm quyền, một kết quả mà Chính
quyền Bush đã nghĩ là không thể có. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các
chính quyền Arập chuyên quyền đột ngột có sức lôi cuốn mới. Trong chuyến
công du của mình đến Ai Cập vào tháng 1/2007, bà Rice đã hủy toàn bộ
cuộc nói chuyện trước công chúng về chế độ dân chủ và thay vào đó nhấn
mạnh rằng “mối quan hệ của Mỹ với Ai Cập là mối quan hệ chiến lược quan
trọng mà chúng tôi hết sức coi trọng”.
Vào
cuối nhiệm kỳ thứ hai của Bush, những hạn chế đối với sức mạnh Mỹ đã tỏ
rõ. Mỹ có thể lật đổ các chế độ với tốc độ nhanh lạ thường. Tuy nhiên,
nước này không thể dễ dàng dẹp tan các cuộc nổi dậy hay xây dựng lại các
chính quyền đã tan vỡ. Bất chấp việc tiêu tốn hơn 500 tỷ USD, quân đội
Mỹ vẫn đang chiến đấu ở Irắc – vào năm 2007 Bush đã cử đi thêm 20.000
binh lính Mỹ nhằm nỗ lực giảm bớt hành vi bạo lực ở đó. Trong khi đó, ở
Ápganixtan, Taliban đã giành lại được thế chủ động, tạo áp lực lên Chính
quyền Hamid Karzai và kích động tình trạng bạo lực qua đường biên giới ở
Pakixtan. Việc phô trương sức mạnh của Mỹ ở Irắc và Ápganixtan cũng đã
không tạo ra được những lợi ích phụ mà Bush đã dự tính. Thay vì sợ hãi
trước những lời đe dọa của Bush, Iran và Bắc Triều Tiên tiếp tục các
chương trình vũ khí hạt nhân của họ - quả thực, vào năm 2006 Bình Nhưỡng
đã thử quả bom nguyên tử đầu tiên của mình. Các nhà lãnh đạo đồng minh
không tập trung quanh sự lãnh đạo của Bush mà tự tách mình khỏi nó, chủ
yếu bởi vì người dân của họ phản đối các chính sách của Mỹ. Ở trong
nước, sự thâm hụt của Chính phủ Mỹ đã lên đến đỉnh điểm là 500 tỷ USD,
và đa số người Mỹ muốn rút khỏi Irắc. Đây không phải là những gì Bush đã
hình dung khi ông tuyên bố cuộc chiến chống khủng bố.
Lời hứa hẹn về sự chuyển biến
Barack
Obama theo cách nhất định đã có thành công về mặt chính trị là nhờ
George W. Bush. Obama là một nhà làm luật ít người biết đến của bang
Illinois khi ông sử dụng một cuộc míttinh chống chiến tranh ở Chicago
vào tháng 10/2002 để lên án cuộc hành quân của Bush tiến đến một “cuộc
chiến tranh ngu xuẩn”. Bài diễn văn đã trở nên có tính bước ngoặt trong
chiến dịch giành đề cử vào chức tổng thống của đảng Dân chủ năm 2008.
Hillary Clinton và các ứng cử viên tổng thống hàng đầu khác của đảng Dân
chủ đã bỏ phiếu tán thành cuộc chiến tranh này; Obama đã lập luận một
cách thông minh rằng ông phản đối nó ngay từ đầu, do đó nổi bật so với
các ứng cử viên khác. Mặc dù thành tích về chính sách đối ngoại chính
thức của ông còn nghèo nàn, ông đã lập luận một cách thành công rằng sự
phán đoán tốt hơn của mình đã chiến thắng kinh nghiệm dày dạn hơn của
đối thủ. Lập luận này có ý nghĩa to lớn bởi vì, không như 8 năm trước
đây, chính sách đối ngoại đã nổi bật trong chiến dịch tranh cử năm 2008,
đặc biệt là trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ. Irắc là một vấn
đề quan trọng nhất. Vào mùa Xuân năm 2008, cứ ba người Mỹ thì có hơn một
người coi đó là vấn đề quan trọng nhất mà nước này phải đối mặt. Obama
đã lập luận rằng “bằng việc từ chối kết thúc chiến tranh ở Irắc, Tổng
thống Bush đang đem lại cho những kẻ khủng bố những gì chúng thực sự
muốn ... một sự chiếm đóng chưa xác định của Mỹ, với chi phí chưa xác
định, với những hậu quả chưa xác định”. Phương thức chính sách của Obama
là dễ hiểu: ông sẽ rút toàn bộ quân đội Mỹ trong vòng 16 tháng khi được
bầu lên. Nhưng để thực hiện tuyên bố của mình vào năm 2002 rằng ông
không phản đối tất cả các cuộc chiến tranh, chỉ phản đối những cuộc
chiến tranh ngu xuẩn, ông hứa hẹn sẽ cử thêm nhiều quân Mỹ đến
Ápganixtan, mà ông tin rằng Chính quyền Bush đã phớt lờ một cách vô
lý”.
Những
chỉ trích của Obama về chính sách đối ngoại của Bush không chuyển sang
sự hoài nghi về những mục tiêu hay tính đúng đắn của một chính sách đối
ngoại hoạt động tích cực. Lời hứa của Obama “bảo vệ người dân Mỹ và mở
rộng cơ hội cho thế hệ tiếp theo” có thể được rút ra từ bài diễn văn của
bất cứ vị tổng thống Mỹ nào trong suốt cuộc đời mình. Và giống như
Bush, Obama là một người theo chủ nghĩa quốc tế ủng hộ vai trò mạnh mẽ
của Mỹ ở nước ngoài. Ông không phải là một người theo trường phái không
can thiệp kêu gọi một sự rút lui về Pháo đài Mỹ.
Thay vào đó, những sự chỉ trích của Obama bắt nguồn từ sự phản đối quan điểm của Bush về thế giới vận hành như thế nào. Ở nơi Bush hoàn toàn phủ nhận tuyên bố rằng sự toàn cầu hóa đang tái tạo hoạt động chính trị thế giới, Obama chấp nhận nó như một điều đã định sẵn. Một thế giới được toàn cầu hóa đã tạo ra vô số mối đe dọa vượt ra ngoài các đường biên giới quốc gia. Khủng bố chỉ là thứ dễ thấy nhất trong một danh sách bao gồm phổ biến hạt nhân và biến đổi khí hậu. Sức mạnh Mỹ, cho dù to lớn, vẫn là không đủ để đương đầu với những thách thức này. Theo lời của Obama, “Mỹ không thể một mình đương đầu với những mối đe dọa của thế kỷ này”. Obama đã lập luận rằng Mỹ có thể bảo vệ những đối tác mà nước này cần chỉ với điều kiện là các nước khác tán thành việc nước này đi về đâu và đi như thế nào. Mỹ không còn có thể đáp ứng được thói quen của Bush là “bắt nạt các nước khác để thông qua những sự thay đổi mà chúng ta ấp ủ trong sự cô lập”. Obama cam kết sẽ tôn trọng các quy tắc quốc tế về những vấn đề như sự thẩm tra cưỡng bức và đưa ngoại giao quay trở lại vị trí hàng đầu trong chính sách của Mỹ. Ông sẽ giải quyết các vấn đề như sự biến đổi khí hậu và khôi phục tiến trình hòa bình Ixraen-Palextin. Sự thúc đẩy ngoại giao của ông thậm chí mở rộng sang cả các kẻ thù của Mỹ. Trước sự sửng sốt của những người chỉ trích ông, và ngay cả một số người ủng hộ ông, khi được hỏi trong suốt chiến dịch tranh cử rằng liệu ông “có sẽ sẵn sàng gặp riêng mà không có điều kiện tiên quyết… các nhà lãnh đạo của Iran, Xyri, Vênêxuêla, Cuba và Bắc Triều Tiên, để lấp đầy khoảng cách đang chia rẽ những đất nước của chúng ta hay không”, ông đã trả lời là “có”.
Mặc dù Obama đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cộng tác với bạn bè cũng như kẻ thù, ông khẳng định rằng ông sẽ hành động về mặt quân sự ở nơi nó có ý nghĩa. Bên cạnh việc hứa hẹn sẽ cử thêm nhiều quân đến Ápganixtan, ông đã khẳng định ông sẽ sử dụng các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái và các chiến dịch của Lực lượng Đặc biệt để tấn công vào bên trong Pakixtan. Vào năm 2007, ông đã nói: “Nếu chúng ta có thông tin tình báo có cơ sở về các mục tiêu khủng bố đáng giá và Tổng thống Musharraf không hành động, thì chúng ta sẽ hành động”. Cả các đảng viên đảng Dân chủ lẫn các đảng viên đảng Cộng hòa đã lên án tuyên bố này, với một số người lập luận rằng ông đã “gợi ý xâm lược Pakixtan”.
Thay vào đó, những sự chỉ trích của Obama bắt nguồn từ sự phản đối quan điểm của Bush về thế giới vận hành như thế nào. Ở nơi Bush hoàn toàn phủ nhận tuyên bố rằng sự toàn cầu hóa đang tái tạo hoạt động chính trị thế giới, Obama chấp nhận nó như một điều đã định sẵn. Một thế giới được toàn cầu hóa đã tạo ra vô số mối đe dọa vượt ra ngoài các đường biên giới quốc gia. Khủng bố chỉ là thứ dễ thấy nhất trong một danh sách bao gồm phổ biến hạt nhân và biến đổi khí hậu. Sức mạnh Mỹ, cho dù to lớn, vẫn là không đủ để đương đầu với những thách thức này. Theo lời của Obama, “Mỹ không thể một mình đương đầu với những mối đe dọa của thế kỷ này”. Obama đã lập luận rằng Mỹ có thể bảo vệ những đối tác mà nước này cần chỉ với điều kiện là các nước khác tán thành việc nước này đi về đâu và đi như thế nào. Mỹ không còn có thể đáp ứng được thói quen của Bush là “bắt nạt các nước khác để thông qua những sự thay đổi mà chúng ta ấp ủ trong sự cô lập”. Obama cam kết sẽ tôn trọng các quy tắc quốc tế về những vấn đề như sự thẩm tra cưỡng bức và đưa ngoại giao quay trở lại vị trí hàng đầu trong chính sách của Mỹ. Ông sẽ giải quyết các vấn đề như sự biến đổi khí hậu và khôi phục tiến trình hòa bình Ixraen-Palextin. Sự thúc đẩy ngoại giao của ông thậm chí mở rộng sang cả các kẻ thù của Mỹ. Trước sự sửng sốt của những người chỉ trích ông, và ngay cả một số người ủng hộ ông, khi được hỏi trong suốt chiến dịch tranh cử rằng liệu ông “có sẽ sẵn sàng gặp riêng mà không có điều kiện tiên quyết… các nhà lãnh đạo của Iran, Xyri, Vênêxuêla, Cuba và Bắc Triều Tiên, để lấp đầy khoảng cách đang chia rẽ những đất nước của chúng ta hay không”, ông đã trả lời là “có”.
Mặc dù Obama đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cộng tác với bạn bè cũng như kẻ thù, ông khẳng định rằng ông sẽ hành động về mặt quân sự ở nơi nó có ý nghĩa. Bên cạnh việc hứa hẹn sẽ cử thêm nhiều quân đến Ápganixtan, ông đã khẳng định ông sẽ sử dụng các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái và các chiến dịch của Lực lượng Đặc biệt để tấn công vào bên trong Pakixtan. Vào năm 2007, ông đã nói: “Nếu chúng ta có thông tin tình báo có cơ sở về các mục tiêu khủng bố đáng giá và Tổng thống Musharraf không hành động, thì chúng ta sẽ hành động”. Cả các đảng viên đảng Dân chủ lẫn các đảng viên đảng Cộng hòa đã lên án tuyên bố này, với một số người lập luận rằng ông đã “gợi ý xâm lược Pakixtan”.
Tuy
nhiên, sự hăng hái đối với hành động quân sự của Obama đã chấm dứt tình
trạng thiếu sự can thiệp nhân đạo. Ông đã ủng hộ việc rút quân đội Mỹ
khỏi Irắc cho dù nạn diệt chủng đang diễn ra. Ông đã nói tại một điểm
dừng trong chiến dịch tranh cử: “Tốt thôi, hãy xem nếu đó là tiêu chuẩn
mà theo đó chúng ta ra các quyết định về việc triển khai các lực lượng
của Mỹ, thì bằng lập luận đó, bạn sẽ có 300.000 quân ở Cônggô ngay bây
giờ, nơi hàng triệu người bị tàn sát do hậu quả của cuộc xung đột sắc
tộc, điều mà chúng ta chưa làm”. Ông nói thêm rằng: “Chúng ta sẽ đơn
phương triển khai và chiếm đóng Xuđăng, việc mà chúng ta vẫn chưa
làm”. Tương tự, Obama đã lảng tránh việc đón nhận “chương trình nghị sự
tự do” của George W.Bush. Một phần, việc này đã phản ánh một tính toán
chính trị không khoan nhượng; Irắc đã làm cho sự thúc đẩy chế độ dân chủ
trở nên độc hại đối với nhiều người Mỹ. Nhưng nó cũng đã phản ánh đánh
giá của ông rằng sự thúc đẩy chế độ dân chủ đã đề cao các cuộc bầu cử mà
ông xem là những viên gạch xây dựng nên chế độ dân chủ - an ninh và cơ
hội kinh tế. Ông đã lưu ý rằng bài diễn văn “4 quyền tự do” nổi tiếng
của Tổng thống Franklin Roosevelt (FDR) đã hoàn toàn không đề cập đến
các cuộc bầu cử. Lưu tâm đến mối quan ngại của FDR về tình trạng không
bị thiếu thốn và lo sợ, Obama đã đề xuất tăng gấp đôi ngân sách viện trợ
nước ngoài của Mỹ.
Việc Obama miễn cưỡng đón nhận can thiệp nhân đạo và sự lạnh nhạt của ông đối với thúc đẩy chế độ dân chủ đã gây ra tranh luận rằng ông là một loài chim hiếm – một người theo chủ nghĩa thực tế về chính sách đối ngoại của đảng Dân chủ. Những bình luận của chính Obama đã kích động cuộc tranh luận này. Ông đã nói với các cử tri thuộc bang Pennsylvania : “Sự thật là chính sách đối ngoại của tôi thực sự là một sự trở lại chính sách thực tế lưỡng đảng truyền thống của Bush cha, của John F.Kennedy, theo cách nào đó, của Ronald Reagan”. Nhưng một sự miêu tả chính xác hơn về việc Obama đã nhìn nhận như thế nào chính sách đối ngoại là chủ nghĩa thực dụng thay vì chủ nghĩa thực tế. Ông muốn có “một chiến lược không còn được định hướng bởi hệ tư tưởng và hoạt động chính trị mà bằng thứ gì đó dựa trên một đánh giá thực tế về những sự kiện nghiêm trọng trên thực địa và những lợi ích của chúng ta trong khu vực”. Ông hứa hẹn sẽ đánh giá từng vấn đề theo đúng giá trị của nó, và rồi cố gắng nghĩ ra một giải pháp.
Việc Obama miễn cưỡng đón nhận can thiệp nhân đạo và sự lạnh nhạt của ông đối với thúc đẩy chế độ dân chủ đã gây ra tranh luận rằng ông là một loài chim hiếm – một người theo chủ nghĩa thực tế về chính sách đối ngoại của đảng Dân chủ. Những bình luận của chính Obama đã kích động cuộc tranh luận này. Ông đã nói với các cử tri thuộc bang Pennsylvania : “Sự thật là chính sách đối ngoại của tôi thực sự là một sự trở lại chính sách thực tế lưỡng đảng truyền thống của Bush cha, của John F.Kennedy, theo cách nào đó, của Ronald Reagan”. Nhưng một sự miêu tả chính xác hơn về việc Obama đã nhìn nhận như thế nào chính sách đối ngoại là chủ nghĩa thực dụng thay vì chủ nghĩa thực tế. Ông muốn có “một chiến lược không còn được định hướng bởi hệ tư tưởng và hoạt động chính trị mà bằng thứ gì đó dựa trên một đánh giá thực tế về những sự kiện nghiêm trọng trên thực địa và những lợi ích của chúng ta trong khu vực”. Ông hứa hẹn sẽ đánh giá từng vấn đề theo đúng giá trị của nó, và rồi cố gắng nghĩ ra một giải pháp.
Tầm
nhìn trong chiến dịch tranh cử của Obama về chính sách đối ngoại của Mỹ
đã kích động người dân cả ở trong nước lẫn ở nước ngoài. Kiệt sức sau 8
năm cầm quyền của George W. Bush, họ đã hy vọng rằng vị thượng nghị sĩ 1
nhiệm kỳ này sẽ, mượn một động từ nổi tiếng là biến đổi hoàn toàn chính
sách đối ngoại của Mỹ. Bản thân ứng cử viên này đôi khi thấy lạc quan
về những gì mình làm: “Cái ngày tôi được bầu làm tổng thống, đất nước
này thấy mình khác biệt. Và đừng đánh giá thấp sức mạnh đó. Đừng đánh
giá thấp sự biến đổi đó”.
Những sự mong đợi đáp ứng được thực tế
Obama
đã bắt đầu nhiệm kỳ tổng thốngcủa mình bằng việc hiện thực hóa một cách
có thứ tự những lời hứa hẹn của ông trong chiến dịch tranh cử. Vào ngày
thứ 3 cầm quyền, ông đã ra lệnh đóng cửa nhà tù của Mỹ tại Vịnh
Guantanamo, Cuba, trong vòng 1 năm và chấm dứt các cuộc thẩm tra cưỡng
bức. Vào giữa tháng 2, ông đã ra lệnh cử 17.000 binh lính Mỹ đến
Ápganixtan, tăng gần 50% so với 36.000 binh lính Mỹ đã ở đó. Vào cuối
tháng 2, ông đã ra lệnh rút tất cả các quân đội tham chiến khỏi Irắc vào
tháng 8/2010 và tất cả quân đội Mỹ còn lại vào tháng 12/2011. Vào tháng
3, ông đã gửi một đoạn băng chúc mừng Iran nhân dịp năm mới của Iran ,
nói rằng “chính quyền của tôi hiện nay cam kết với biện pháp ngoại giao
giải quyết một loạt đầy đủ các vấn đề trước mắt chúng ta”. Vào tháng 5,
ông đã nói với Thủ tướng Ixraen Benjamin Netanyahu rằng Ixraen phải
ngừng tất cả các công trình xây dựng khu định cư. Vào tháng 6, Hạ viện
Mỹ đã thông qua dự luật cap-and-trade (giới hạn mức trần và mua bán chỉ
tiêu khí thải) mà Obama đã ủng hộ nhằm giảm khí thải hiệu ứng nhà
kính. Obama đã khởi động nhiều sáng kiến ngoại giao, nổi bật nhất là
việc lật ngược chính sách của Bush trong việc cử các quan chức Mỹ tham
gia các cuộc đàm phán quốc tế với Iran về chương trình hạt nhân của nước
này. Ông đã công du khắp nơi để nói chuyện với các thính giả nước
ngoài, chỉ riêng năm 2009 ông đã đến thăm 21 quốc gia – một kế hoạch
công du tham vọng nhất của bất cứ một vị tổng thống nào vào năm đầu cầm
quyền. Vào tháng 4, ông đã hứa cổ vũ những đám đông ở Praha “tìm kiếm
hòa bình và an ninh từ một thế giới không có vũ khí hạt nhân”. Vào tháng
6, ở Cairô, ông đã nói về khát vọng của ông “tìm kiếm một sự khởi đầu
mới giữa Mỹ và những người Hồi giáo trên khắp thế giới”. Vào tháng 9,
ông đã nói với Đại hội đồng LHQ rằng ông đang tìm kiếm “bằng lời nói và
hành động, một thời đại mới của sự can dự với thế giới”.
Việc
đi theo hoạt động ngoại giao của Obama đã khiến ông được yêu mến ở nước
ngoài và khôi phục hình ảnh của Mỹ trên toàn cầu. Những mong đợi về
điều ông sẽ hoàn thành đang tăng vọt. Ông đã đoạt giải Nobel hòa bình
năm 2009. Hội đồng giải thưởng này đã không đề cập đến một thành tựu nào
trong lời biểu dương giải thưởng của mình; thay vào đó họ chúc mừng ông
vì mang lại cho người dân trên thế giới “niềm hy vọng cho một tương lai
tốt đẹp hơn” với “hoạt động ngoại giao của ông... được tìm thấy trong
khái niệm rằng những người sẽ lãnh đạo thế giới phải tiếp tục làm như
vậy trên cơ sở các giá trị và thái độ được đa số người dân trên thế giới
chia sẻ”. 28 tháng cầm quyền đầu tiên của Obama đã tạo ra một số thành
tựu nổi bật. Vào tháng 6/2010, Hội đồng bảo an LHQ đã áp đặt những biện
pháp trừng phạt mới đối với Iran trong một nỗ lực loại bỏ chương trình
hạt nhân bắt đầu phát triển của nước này. Động thái này mang ý nghĩa to
lớn không chỉ bởi vì nó gia tăng áp lực lên Têhêran mà bởi vì nó giành
được sự ủng hộ của hai thành viên có quyền phủ quyết trong Hội đồng bảo
an mà trước đây đã phản đối những biện pháp trừng phạt là Trung Quốc và
Nga. Sự ủng hộ của Nga phản ánh sự thành công trong nỗ lực của Obama
nhằm “khởi động lại” mối quan hệ với Mátxcơva. Vào tháng 9/2009, ông đã
điều chỉnh lại chính sách phòng thủ tên lửa của Mỹ, loại bỏ hệ thống
phòng thủ tên lửa tầm xa mà Bush đã bắt đầu và người Nga phản đối để ủng
hộ một hệ thống dựa trên những máy bay đánh chặn tầm ngắn hơn khiến
Mátxcơva ít lo ngại hơn. Sự thay đổi chính sách đó đã tạo điều kiện cho
việc ký kết và cuối cùng là thông qua hiệp ước “START Mới” cũng như tạo
thuận lợi cho sự hợp tác của Mátxcơva trong việc vận chuyển nguyên liệu
qua Trung Á đến Ápganixtan. Vào tháng 3/2001, Obama đã một lần nữa làm
việc với Anh và Pháp để đảm bảo sự hợp tác của Trung Quốc và Nga tại Hội
đồng bảo an, lần này là nhằm thông qua một giải pháp cho phép hành động
để bảo vệ dân thường Libi khỏi những cuộc tấn công của các lực lượng
của Muammar Gaddafi.
Obama
cũng thành công trong một vài mục tiêu an ninh then chốt. Quân chiến
đấu của Mỹ đã rời khỏi Irắc vào tháng 8/2010 như đã hứa, và việc rút
50.000 quân không chiến đấu còn lại theo kế hoạch được hoàn thành vào
hạn chót là tháng 12/2011. Ông đã tăng số các cuộc tấn công bằng máy bay
không người lái có vũ trang lên gấp 5 lần nhằm vào những nơi ẩn náu khả
nghi của các phần tử khủng bố ở Pakixtan và những nơi khác. Và đáng chú
ý nhất là vào tháng 5/2011, Biệt đội Hải quân SEALS của Mỹ đã tiêu diệt
Osama bin Laden trong một cuộc đột kích đầy rủi ro vào Abbottabad ở
Pakixtan, được tiến hành mà Chính phủ Pakixtan không hề hay biết. Tuy
nhiên, chính sách đối ngoại của Obama thiếu tính chuyển biến về phương
diện khiến chính sách đối ngoại của Mỹ thành công hơn. Phần lớn những
sáng kiến mang dấu ấn của ông hoặc đều bị ngừng lại hoặc thất bại. Sự
phản đối trong nước cuối cùng đã buộc ông phải thay đổi hoàn toàn quyết
định của mình đóng cửa nhà tù tại Guantanamo . Ixraen từ chối ngừng xây
dựng khu định cư, và vào cuối năm 2010, Obama đã từ bỏ yêu cầu của mình.
Tương tự, ông đã từ bỏ những nỗ lực của mình nhằm thiết lập một hệ
thống giới hạn mức trần và mua bán chỉ tiêu khí thải cho khí thải do
hiệu ứng nhà kính. “Các nhà lãnh đạo Iran đã dứt khoát từ chối những lời
đề nghị ngoại giao của ông”. Chưa đầy 2 tháng sau bài diễn văn của
Obama ở Praha, Bắc Triều Tiên đã thực hiện vụ thử hạt nhân thứ hai. Bắc
Kinh đã không đáp lại những động thái hòa giải của ông, và vào cuối năm
2010, ông đã áp dụng một thái độ quyết đoán hơn đối với Trung Quốc.
Những
nỗ lực của Obama nhằm bình ổn Ápganixtan đã kéo Mỹ vào một sự ràng buộc
sâu sắc hơn so với ông dự tính. Việc tăng quân của ông vào tháng 2/2009
đã không thể biến thành cơn thủy triều nhấn chìm Taliban như ông đã hy
vọng. Bất chấp sự chỉ đạo rõ ràng của chính quyền đối với các quan chức
quân đội cấp cao rằng ông không muốn nghe thấy những yêu cầu tiếp thêm
nhiều quân hơn trong ít nhất là 1 năm, vị tướng chủ huy của Mỹ vào tháng
8/2009 đã cảnh báo với tư cách cá nhân về “nhiệm vụ thất bại” nếu không
cử thêm đáng kể quân và chiến lược đã thay đổi. Báo cáo này đã nhanh
chóng bị rò rỉ, gây ra tình trạng náo động. Obama đã khởi xướng một sự
xem xét mới mẻ về chính sách Ápganixtan mà đã lên đến đỉnh điểm trong
quyết định phái thêm 30.000 quân, với mục đích bắt đầu rút quân vào
tháng 7/2011. Khi hạn chót đó tới gần, các điều kiện quân sự đã cải
thiện nhưng tình hình chính trị ở Ápganixtan vẫn đầy nguy hiểm.
Những hạn chế đối vơi sự thay đổi
Sự
thất bại của Obama trong việc thay đổi chính sách đối ngoại của Mỹ có
một vài căn nguyên. Một là số lượng rất lớn và tính phức tạp của các vấn
đề mà ông kế thừa. Đứng đầu danh sách này là cuộc khủng hoảng tài
chính. Obama đã dành phần lớn 6 tháng đầu nhiệm kỳ của mình làm việc để
ngăn chặn sự sụp đổ của nền kinh tế Mỹ và cùng với nó là hệ thống tài
chính quốc tế. Những thách thức chính sách đối ngoại thuần túy mà ông
phải đối mặt – có thể kể đến một số là tiến trình hóa bình Trung Đông,
biến đổi khí hậu và phổ biến vũ khí hạt nhân – là các vấn đề lộn xộn, có
lẽ là nan giải, không thể sửa đổi theo các giải pháp đơn phương của Mỹ
hoặc ngay cả các giải pháp đa phương. Và những sự kiện đó không dễ chịu
chút nào đối với Obama. Cho dù đó là “Phong trào Xanh” ở Irắc hay Mùa
Xuân Arập, những thách thức chính sách đối ngoại của ông đã tăng lên
thay vì thu hẹp lại. Và trong khi các cuộc khủng hoảng này có thể đã
mang lại cho Obama những cơ hội, thì những sự can dự tốn kém của Mỹ ở
Irắc và Ápganixtan và tình trạng tài chính ảm đạm của Chính phủ Mỹ đã
hạn chế những phản ứng có thể có của ông.
Hoạt
động chính trị nội bộ cũng không ủng hộ Obama. Mặc dù các đảng viên
đảng Dân chủ ban đầu kiểm soát cả Hạ viện lẫn Thượng viện, nhưng những
quy tắc đặc biệt trong Thượng viện đã cho phép thiểu số phe đảng Cộng
hòa trì hoãn nếu không muốn nói là ngăn chặn toàn bộ các sáng kiến chính
sách đối ngoại như quy chế giới hạn mức trần và mua bán chỉ tiêu khí
thải đòi hỏi phải có sự đồng thuận của Quốc hội. Obama đã giành được sự
tán thành của Thượng viện đối với Hiệp ước START Mới, nhưng chỉ sau một
cuộc chiến chính trị gây đau đớn đã tiêu phí sự chú ý của Nhà Trắng
trong một vài tháng. Bài học là rõ ràng: việc thông qua quy chế chính
sách đối ngoại sẽ đòi hỏi phải có những cam kết mạnh mẽ về thời gian và
năng lượng vốn khan hiếm. Những sai lầm của chính Obama đã cản trở sự
nghiệp của ông. Nhiều đặc phái viên ông bổ nhiệm đã tạo ra sự nhầm lẫn
về ai là người chịu trách nhiệm về chính sách nào, và cố vấn an ninh
quốc gia đầu tiên của ông, Tướng James Jones, đã vật lộn ở vị trí của
mình. Obama đã không thể dự tính rằng yêu cầu của ông đòi ngừng hoạt
động định cư của Ixraen sẽ củng cố thêm địa vị của Thủ tướng Benjamin
Netanyahu ở trong nước. Sự phản ứng chậm chạp của Obama trước phong trào
phản kháng vào ngày 12/6 ở Iran đã tiếp thêm sinh lực cho những người
chỉ trích ông và đã làm những người ủng hộ ông mất tinh thần. Những cử
chỉ hòa giải của ông đối với Trung Quốc đã khuyến khích thay vì khuất
phục Bắc Kinh. Ông đã phớt lờ các mối quan hệ với các cường quốc dân chủ
đang nổi lên như Braxin, Ấn Độ và Inđônêxia trong năm đầu cầm quyền của
mình, và cách xử lý thường là vụng về của ông về các mối quan hệ cá
nhân với các nhà lãnh đạo nước ngoài lần lượt gây khó chịu và lo ngại
đối với ngay cả các đồng minh thân cận nhất.
Nhưng
chiến lược chính sách đối ngoại của Obama đã phải gánh chịu một vấn đề
cơ bản hơn: nó dựa trên một tiền đề quá lạc quan. Ông đã cho rằng nếu Mỹ
dịu giọng điệu của mình, chìa tay với các thủ đô nước ngoài, nhấn mạnh
các lợi ích chung và rồi quyết định lãnh đạo, thì các nước khác sẽ đi
theo. Theo đánh giá này thì Bush đã thất bại không hẳn bởi vì các vấn đề
là phức tạp, hay các nước bất đồng về việc phải làm gì và làm như thế
nào, hay bởi vì các thủ đô nước ngoài có những ưu tiên các nhau, mà bởi
vì ông đã lãnh đạo một cách tồi tệ. Obama thay vào đó sẽ phục hồi trọng
trách ngoại giao của Franklin Roosevelt, Harry Truman và John
Kennedy. Tuy nhiên, Obama đã trở thành tổng thống trong bối cảnh địa
chính trị hoàn toàn khác so với bất cứ vị tổng thống tiền nhiệm nào.
Không một nước nào đóng vai trò của Liên Xô, thúc đẩy các nước gạt những
sự bất đồng sang một bên để tập trung xung quanh Mỹ. Sự tăng trưởng
kinh tế nhanh chóng ở các thị trường mới nổi đã thay đổi cán cân sức
mạnh kinh tế toàn cầu và tạo ra những mạng lưới xuyên quốc gia mới cả
bên trong lẫn giữa các khu vực bỏ qua Mỹ. Cuộc khủng hoảng tài chính
2008-2009 đã làm suy yếu hơn nữa khả năng lãnh đạo của Mỹ, những tai họa
kinh tế của nước này được mọi người trong và ngoài nước xem là bằng
chứng cho thấy sự suy thoái của Mỹ.
Không
một điều nào trong số đó làm Obama ngạc nhiên. Ông đã thường nói trong
chiến dịch vận động tranh cử về sự toàn cầu hóa đang tái tạo thế giới
như thế nào. Nhưng ông đã không theo đuổi phân tích của ông về những xu
thế toàn cầu để đưa ra kết luận lôgích. Một thế giới trong đó sức mạnh
phân tán nhiều hơn và các mạng lưới xuyên quốc gia mới đã phát triển là
một thế giới ngày càng khó lãnh đạo. Thay vì khát khao có được sự lãnh
đạo của Mỹ, nhiều nước thờ ơ với nó. Họ không nhìn nhận Oasinhtơn đang
đưa ra những giải pháp giải quyết được những mối quan ngại hàng đầu của
họ. Chính vì vậy họ theo đuổi những lợi ích của mình ở nơi khác. Đôi khi
ngay cả những bạn bè và đồng minh truyền thống cũng như các cường quốc
mới nổi cũng tranh giành quyền lãnh đạo của Mỹ. Trung Quốc đã tìm cách
sắp xếp lại cán cân quyền lực ở châu Á và tái tạo cấu trúc tài chính
toàn cầu trên một mô hình theo ý muốn của nước này hơn. Braxin và Thổ
Nhĩ Kỳ đã cố gắng làm trung gian một thỏa thuận với Iran về chương trình
vũ khí hạt nhân của nước này. Ấn Độ đã tự coi mình là một cường quốc
chi phối từ Ađen đến Eo biển Malắcca, chứ không phải là một đối tác non
nớt đối với Oasinhtơn. Việc điều hòa những tham vọng, những lợi ích và
những sự ưu tiên cạnh tranh nhau là một nhiệm vụ làm nản chí, có lẽ là
một nhiệm vụ nặng nhọc và không bao giờ kết thúc. Obama đã sớm nhận ra
vấn đề này trong nhiệm kỳ tổng thống của mình. Ông đã lưu ý rằng: “Nếu
chỉ có Roosevelt và Churchill ngồi trong một căn phòng với một chai rượu
brandy thì đó là một cuộc đàm phán dễ dàng. Nhưng đó không phải là thế
giới chúng ta đang sống”. Ông đã tính toán rằng nếu Mỹ chịu lắng nghe
hơn và nhấn mạnh những lợi ích chung thì “ở bên lề, họ (những nước khác)
có khả năng muốn hợp tác hơn là không hợp tác”. Đây là những gì một cố
vấn không có khả năng phân tích chính xác về chính trị của Obama đã gọi
là “lãnh đạo sau hậu trường”. Nhưng vấn đề then chốt vẫn còn không được
hỏi đến và không được trả lời là liệu hợp tác “nhiều hơn” có được hiểu
là hợp tác “đủ” hay không. Kết quả là, Obama đã từ chối điều chỉnh những
mục tiêu chính sách đối ngoại của mình, và đấu tranh để đề ra một chiến
lược thúc đẩy những lợi ích của Mỹ trong một thế giới nơi những cường
quốc khác, cả lớn lẫn nhỏ, đều bận bảo vệ chính họ. Ông đã giữ nguyên
tiến trình, đánh dấu và vẽ lên những đường nét, chỉ để chứng kiến việc
nhiều người trong số họ phớt lờ.
Thành công trong một thế giới toàn cầu hóa
Sự
kiện 11/9 đã xác định lại chính sách đối ngoại của Mỹ. George W. Bush
tin rằng các cuộc tấn công ngày hôm đó đã mang lại một nguyên tắc định
hướng mới cho chính sách đối ngoại của Mỹ và cho phép một sự phản ứng
hung hăng của Mỹ. Trong khi tiến hành cuộc chiến chống khủng bố, ông đã
tìm cách tái tạo khung cảnh toàn cầu theo hình thức có lợi hơn cho an
ninh Mỹ. Nhưng chống khủng bố đã tỏ ra là một trọng tâm quá hẹp đối với
chính sách của Mỹ. Mỹ đơn giản là đã có quá nhiều lợi ích khác vượt ra
ngoài đường biên giới của mình. Cuộc chiến chống khủng bố của Bush cuối
cùng đã cho thấy những hạn chế của sức mạnh Mỹ và đã dồn gánh nặng cho
người kế nhiệm ông với hàng đống vấn đề chính sách đối ngoại lộn
xộn. Obama hiểu rằng sự toàn cầu hóa đã tái tạo địa hình địa chính trị.
Sức mạnh được phân tán không chỉ khắp một loạt rộng lớn hơn các nước mà
còn sang các nhân tố phi nhà nước. Những ngày khi Mỹ có thể áp đặt các
giải pháp, nếu chúng từng tồn tại, không còn có thể như vậy nữa. Việc
định hướng thế giới phức tạp hơn này đòi hỏi phải có sự lắng nghe các
nước khác và cho “họ lợi ích trong việc gìn giữ trật tự quốc tế”. Những
gì Obama vấp phải không phải là sự chẩn đoán mà là một đơn thuốc: cho dù
Oasinhtơn lãnh đạo một cách khôn ngoan và đồng cảm thì những nước khác
cũng có thể không theo. Các cuộc tham khảo ý kiến có thể không đảm bảo
có được sự đồng thuận. Các chính phủ có thể và đã bất đồng về những vấn
đề nào tạo ra mối đe dọa và những cơ hội, họ cần có sự ưu tiên nào, và
chúng cần phải được giải quyết ra sao và ai là người gánh trách nhiệm
giải quyết chúng. Một kết quả quá thường xuyên là sự thiếu hoạt động
hoặc sự trì trệ.
Thách
thức của Obama là một thách thức mà những người kế nhiệm ông cũng có
thể phải đối đầu: làm thế nào để thúc đẩy những lợi ích của Mỹ trong một
thế giới mà thường không tự động đáp ứng sự lãnh đạo của Mỹ cho dù Mỹ
vẫn là nước hùng mạnh và có nhiều ảnh hưởng nhất duy nhất. Điều đó có
thể đòi hỏi những chiến lược mới – hay, như có thể, một định nghĩa hẹp
hơn về những mục tiêu của Mỹ ở nước ngoài và những sự lựa chọn khó khăn
giữa những sự ưu tiên. Sự tìm kiếm đó sẽ đầy đau đớn. Phần lớn thế giới
trông chờ vào sự lãnh đạo của Mỹ ngay cả khi nước này nổi giận trước
điều đó. Nỗ lực của Obama nhằm chuyển gánh nặng chiến đấu ở Libi sang
các nước khác thuộc NATO đã thất bại bởi vì họ vừa không quen với việc
đó vừa không nhất thiết phải chịu trách nhiệm về nó. Nhiệm vụ của Obama
thậm chí có thể sẽ còn làm nản chí hơn ở trong nước. Các nước, cũng như
con người, sống trong quá khứ, hoan nghênh những chiến thắng cũ và phớt
lờ sự tiến triển của sự việc. Các tổ chức trong nước sẽ chống lại sự
thay đổi ngay cả khi những tai họa tài chính của Chính phủ Mỹ tạo ra
những áp lực chính trị căng thẳng buộc phải giảm bớt những cam kết chính
trị của mình ở nước ngoài. Những đề xuất suy nghĩ lại các chính sách cũ
sẽ gặp phải những tuyên bố được làm mới lại rằng Obama không tin vào
chủ nghĩa ngoại lệ Mỹ. Nhưng trừ khi Obama tìm ra một cách thức để liên
kết những đơn thuốc chính sách đối ngoại của ông với những xu hướng toàn
cầu đang phát triển, khoảng cách giữa những tham vọng và những thành
quả của Mỹ sẽ tăng lên, và những triển vọng lãnh đạo toàn cầu thành công
của Mỹ sẽ còn mờ mịt hơn./.
Theo Chathamhouse
Mỹ Anh (gt)