THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Tư, ngày 14/11/2012
TTXVN (Oasinhtơn 9/11)
Ngày 8/11, Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Mỹ đăng bài phân tích “Đảng Cộng sản Trung Quốc” của tác giả Beina Xu, trong đó đáng chúý có đề cập đến các thách thức về quản trị đất nước và phân tích dự báo chính sách đối nội, đối ngoại của Trung Quốc sau Đại hội XIII, Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nội dung cụ thểnhư sau:
Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) với hơn 82 triệu
đảng viên đang trải qua thời kỳ chuyển giao quyền lực then chốt một lần
trong mỗi thập kỷ. Người ta sẽ chứng kiến thế hệ lãnh đạo thứ năm của
nước này đưa ra chương trình nghị sự trong tương lai cho nền kinh tế lớn
thứ hai trên thế giới. Trong khi Trung Quốc duy trì độc quyền chính trị
kể từ khi thành lập, các tác động của việc tăng trưởng kinh tế nóng của
nước này đã làm gia tăng bất ổn chính trị – xã hội, cản trở sự nổi lên
của Trung Quốc như một cường quốc thế giới. Một loạt các vụ bê bối chính
trị cũng đã cho thấy những cuộc tranh giành quyền lực mạnh mẽ trong nội
bộ tổ chức đảng. Trong khi sự thay đổi lãnh đạo hầu như không ảnh hưởng
ngay lập tức đến chính sách và đường lối của ĐCSTQ, những chỉ dấu về
việc bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo mới có thể làm sáng tỏ phương cách mà
Trung Quốc sử dụng để duy trì vị thế của mình trên trường quốc tế.
Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập Đại hội Đảng 5
năm một lần để xác định các chính sách lớn và bầu chọn Ban Chấp hành
Trung ương bao gồm khoảng 370 ủy viên trong đó có các bộ trưởng, các
quan chức quản lý cấp cao, lãnh đạo tỉnh và người đứng đầu quân đội. Ban
Chấp hành Trung ương sẽ bầu chọn Bộ Chính trị, trong đó có 25 thành
viên.
Bộ Chính trị lựa chọn ủy ban thường vụ gồm 9
người có chức năng là tâm điểm của quyền lực và sự lãnh đạo của ĐCSTQ.
Hồ cẩm Đào, cựu lãnh đạo của Đoàn Thanh niên Cộng sản có vị trí cao nhất
là Tổng bí thư, Chủ tịch nước và người đứng đầu quân đội. Thủ tướng Ôn
Gia Bảo là người đứng đầu chính phủ.
Diễn tiến được theo dõi sát sao nhất tại Đại hội
18 ĐCSTQ vào tháng 11 là việc số lượng ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị có
thể giảm từ 9 xuống còn 7 thành viên. Phó Chủ tịch nước Tập Cận Bình
được dự kiến sẽ thay vị trí của Hồ Cẩm Đào, trong khi đó, Phó Thủ tướng
thường trực Lý Khắc Cường sẽ thay thế Ôn Gia Bảo. Việc khoảng 70% thành
viên của ba cơ quan lãnh đạo quan trọng nhất là ủy ban Thường vụ Bộ
Chính trị, Chính phủ và Quân ủy Trung ương sẽ được thay thế làm cho sự
kiện chuyển giao lãnh đạo tại Đại hội này trở nên quan trọng và có ý
nghĩa nhất trong vòng ba thập niên qua.
Những thách thức về quản trị đất nước
Trong những thập kỷ gần đây, các sự kiện mang
tính toàn cầu và xung đột nội bộ đã một số lần đưa ĐCSTQ đến bên bờ sụp
đổ. Cuộc bạo loạn Thiên An Môn năm 1989 và sự sụp đổ của Liên Xô vào đầu
thập niên 1990 đã gây ra một loạt các cuộc khủng hoảng hiện hữu đối với
ĐCSTQ. ĐCSTQ đã thực hiện các đánh giá có hệ thống về nguyên nhân sụp
đổ của Liên Xô và tiến hành cải cách trong nội bộ hệ thống đảng, theo đó
các nguyên nhân được xác định là một đảng – nhà nước cứng nhắc với một
hệ tư tưởng giáo điều, giới tinh hoa bảo thủ, các tổ chức đảng không
hoạt động và một nền kinh tế trì trệ.
Kể từ đó đến nay, ĐCSTQ đã thể hiện một khả năng
kỹ trị nhằm thích ứng đối với các áp lực phát triển của xã hội do sự
tăng trưởng kinh tế chóng mặt của Trung Quốc mang lại. Đảng của ngày hôm
nay “đang gia nhập vào luồng cao tốc của quá trình toàn cầu hóa.
Richard McGregor viết trong cuốn sách “The Party” vào năm 2010 rằng điều
này đến lượt nó đem lại hiệu quả kinh tế lớn hơn, tỷ lệ lợi nhuận cao
hơn và an ninh chính trị lớn hơn”.
Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo cao nhất trong cơ cấu
quyền lực của Trung Quốc ngày hôm nay thiếu tầm nhìn dài hạn cho đảng,
điều mà các nhân vật cải cách như Hồ Diệu Bang của thập niên 1980 đã có
được hay như Hồ Cẩm Đào thúc đẩy sự minh bạch lớn hơn trong đảng hay
việc cải cách thị trường tự do của Đặng Tiểu Bình, điều đã hiện đại hóa
nền kinh tế của Trung Quốc.
Quản trị thực tế của Trung Quốc có thể cực kỳ
phân cấp. Trong khi các ủy viên Bộ Chính trị giữ trách nhiệm đưa ra các
chính sách và bổ nhiệm nhân sự các bộ, họ không quản lý danh mục đầu tư
hàng ngày mà Chính phủ thực hiện. Các tỉnh của Trung Quốc được quyền tự
chủ rất lớn, và các quan chức lãnh đạo cấp dưới tỉnh được chính quyền
trung ương bố nhiệm gần như có toàn quyền kiểm soát. Chính sách có thể
bắt nguồn “ngẫu nhiên” từ các cơ quan và các bộ hoặc từ các viện nghiên
cứu chính sách và các cố vấn. Ông Pei cho biết “Không có một cách được
cài đặt sẵn đưa ra chính sách ở Trung Quốc”.
Có thể phải mất từ 2 đến 3 năm các luật và quy
định mới được thực hiện. Đôi khi các chính sách như vậy phải trải qua
quá trình thử nghiệm, trong đó một số tỉnh phải thực hiện việc này. cấu
trúc cũng thiếu một hệ thống kiểm tra và đối trọng mà ở đó các quan chức
địa phương phải có trách nhiệm giải trình về việc thực hiện chính sách.
Việc thiếu trách nhiệm giải trình đã làm tích tụ
các bất bình, khiếu nại về bất bình đẳng thu nhập, thiếu bảo vệ người
tiêu dùng, chiếm đoạt đất đai và các vấn đề nhân quyền. Nhiều người
trong số này đã công khai đưa các vấn đề này trên Internet, làm xói mòn
mạnh mẽ sự kiểm soát của ĐCSTQ về truyền thông chính trị. Vụ việc Trần
Quang Thành và việc người tiêu dùng Trung Quốc bày tỏ sự phẫn nộ xung
quanh vụ hàng ngàn trẻ em bị nhiễm độc do sữa có chất melamine, về lâu
dài chính quyền trung ương đã buộc phải có hành động đối với những lo
ngại về tính an toàn của các sản phẩm Trung Quốc.
Chính sách đối nội và đối ngoại
Có lẽ cấp bách nhất đối vói ĐCSTQ là xử lý vấn đề
bất bình đẳng thu nhập rất lớn do sự bùng nổ kinh tế của Trung Quốc tạo
ra. Vào giữa năm 2012, ĐCSTQ đã công bố một khuôn khổ phân phối thu
nhập mới được thiết lập để khắc phục khoảng cách ngày càng tăng. Sự nổi
lên của Trung Quốc như một siêu cường kinh tế đã gia tăng thách thức về
quản trị khi tầng lóp trung lưu của Trung Quốc ngày càng mở rộng. Đặc
biệt, Trung tâm nghiên cứu Pew cho biết “các tác dụng phụ của sự tăng
trưởng kinh tế nhanh chóng, bao gồm cả khoảng cách giữa người giàu và
người nghèo, giá cả tăng cao, ô nhiễm, sự suy giảm của nền văn hóa
truyền thống là mối quan tâm lớn, và cũng có những lo ngại ngày càng gia
tăng về tham nhũng chính trị”.
Chăm sóc y tế cũng là một chủ trương lớn của
ĐCSTQ khi lực lượng dân số đang già đi ngày càng lớn, đã thúc đẩy chính
phủ phải nỗ lực mở rộng chi trả bảo hiểm. Chi tiêu về chăm sóc sức khỏe
sẽ tăng gần gấp ba lần, đạt 1 nghìn tỷ USD mỗi năm vào năm 2020 từ mức
116 tỉ USD năm 2011. Bảo hiểm y tế hiện nay chi trả cho hơn 95% dân số
Trung Quốc. ĐCSTQ cũng đã điều chỉnh chính sách năng lượng, trong đó đề
ra các chủ trương của Trung Quốc trong 5 năm tới bao gồm việc phát triển
năng lượng sạch để giảm khí cácbon.
Trong khi đó, quyền lực đang lên của Trung Quốc
trên trường quốc tế đã làm cho họ nhiều lần không nhượng bộ trên mặt
trận chính sách đối ngoại và tạo ra nhận thức mang tính phổ biến về một
quốc gia với sức mạnh bành trướng, hung hăng. Nước này đã đặt cược vào
tuyên bố kiên quyết về chủ quyền lãnh thổ đối với các đảo ở Biển Hoa
Đông và Hoa Nam (Biển Đông) – một động thái đẩy Trung Quốc vào vị trí
chống lại các nước láng giềng ASEAN và đã gây ra sự rạn nứt và bế tắc
ngoại giao tại khu vực láng giềng này. Trung Quốc đã thể hiện tiếp tục
hỗ trợ cho các chế độ thù địch với Mỹ trong đó có Xyri và Iran. Bắc Kinh
cũng đã phản đối kế hoạch hợp tác hải quân Mỹ – Hàn Quốc ở Biển Hoàng
Hải, đồng thời phản ứng kịch liệt đối với việc Mỹ bán vũ khí cho Đài
Loan, đình chỉ đối thoại an ninh cấp cao nhất và công bố các biện pháp
trừng phạt chưa từng có tiền lệ đối với các công ty Mỹ có quan hệ với
Đài Loan.
Một số chuyên gia cho rằng trong khi quyền lực
tương đối của Trung Quốc đã phát triển đáng kể so với tăng trưởng kinh
tế của nước này, các nhiệm, vụ chính trong chính sách đối ngoại của
Trung Quốc vẫn còn tính chất phòng thủ, chống lại các can thiệp từ nước
ngoài, tránh thiệt hại lãnh thổ, đồng thời duy trì tăng trưởng kinh tế.
Andrew J. Nathan và Andrew Scobell viết trên tờ “Foreign Affairs”
rằng điều đã thay đổi là “Trung Quốc hiện đang hộinhập sâu vào hệ thống
kinh tế thế giới mà các ưu tiên đối nội và khu vực đã trở thành một
phần của nhiệm vụ lớn hơn: xác định một vai trò toàn cầu phục vụ các lợi
ích của Trung Quốc, mà không phải chỉ là giành được sự thừa nhận từ các
cường quốc khác”.
Các chuyên gia cho rằng nhìn chung, mục tiêu hợp
lý cho lãnh đạo mới ở Trung Quốc là tránh một mối quan hệ đối nghịch với
Mỹ, mặc dù sự thay đổi lãnh đạo tới đây không đủ đưa ra những thay đổi
đáng kể hoặc ngay lập tức trong lĩnh vực này. Một số người khác cho rằng
quan hệ Mỹ – Trung sẽ bị ảnh hưởng cho đến khi Trung Quốc điều chỉnh
chính sách đối ngoại và cấu trúc chính trị cấp tiến hơn, bắt đầu với
việc bình thường hóa các mối quan hệ trone khu vực của nước này.
***
TTXVN (Bắc Kinh 13/11)
Tại thời điểm diễn ra kỳ họp Lưỡng hội
(Quốc hội và Chính hiệp) năm 2010, Cửu tam học xã – một trong 8 đảng
phái dân chủ tham chính ở Trung Quốc có thành phần nòng cốt là các phần
tử trí thức thuộc giới khoa học công nghệ – đã công bố kết quả một cuộc
điều tra nghiên cứu cho thấy chênh lệch về thu nhập ở Trung Quốc lúc đó
là hơn kém nhau 24 lần. Tuy nhiên, cho đến nay, sau 8 năm chuẩn bị nhưng
phương án cải cách phân phối thu nhập ở nước này vẫn chưa được triển
khai.
Ngày 17/10 vừa qua, Thủ tướng Ôn Gia Bảo xác nhận
phương án tổng thể về cải cách phân phối thu nhập sẽ được công bố trong
quý IV này. Tin cho biết phương án sẽ bao gồm thời gian biểu và lộ
trình cải cách, trong đó điều chỉnh lại kết cấu thu nhập ban đầu sẽ là
trọng tâm trong cải cách phân phối thu nhập thời gian tới.
Mới đây, Mạng Nhân dân thuộc Nhân dân nhật báo ở
Trung Quốc đã triển khai đợt điều tra nghiên cứu chuyên đề về phân phối
thu nhập, điều tra và phân tích từ nhiều góc độ khác nhau. Mạng Tân Hoa
ngày 2/11/2012 đã đăng bài tổng hợp của Tô Hải Nam, Phó Chủ tịch Hiệp
hội lao động kiêm Chủ tịch Hội đồng chuyên nghiệp lương lao động Trung
Quốc, phân tích những ý kiến bất đông đã gây trì trệ trong cải cách phân
phối thu nhập, từ đó đề xuất xã hội cần sớm đạt được tiếng nói chung,
đẩy nhanh cải cách phân phối thu nhập trong bối cảnh cấp bách.
Bước vào thế kỷ 21, trong quá trình “chiếc bánh”
kinh tế của Trung Quốc nhanh chóng lớn thêm, làm thế nào để phân phối
“chiếc bánh” đó cho hợp lý ngày càng trở thành vấn đề dân sinh to lớn
được các giới trong xã hội bàn luận như một đề tài nóng. Trung ương Cửu
tam học xã đã đề xuất một loạt yêu cầu về đi sâu cải cách, điều chỉnh
hợp lý quan hệ phân phối thu nhập, và đã đưa ra phương án triển khai
chiến lược của mình. Giới học giả và các giới khác trong xã hội, bao gồm
đông đảo quần chúng nhân dân cũng đã thảo luận một cách nhiệt tình và
sâu sắc, trình bày các quan điểm, trong đó không ít quan điểm, còn đi
đến đối lập và va chạm nhau.
Một số năm gần đây số lượng sách chuyên đề, báo
cáo điều tra, các bài báo, bình luận rất nhiều, đề cập đến nhiều phương
diện, tính hệ thống tăng lên, có thể khái quát phân thành ba loại: Một
là, đã đạt hoặc cơ bản đã đạt tiếng nói chung; hai là, qua thảo luận hy
vọng đạt tiếng nói chung; ba là, khó đạt tiếng nói chung.
I. Quan tâm cả gốc đến ngọn, cải cách đồng bộ đi đến nhất trí
Xét theo tình hình thứ nhất, hiện nay nội dung đã đạt được chủ yếu có một số phương diện sau:
Thứ nhất, nhận định về mức độ vấn đề phân phối
thu nhập, vấn đề phân phối thu nhập và phân phối của cải ở Trung Quốc
tồn tại các sai sót nghiêm trọng, đã đến lúc phải được giải quyết, đặc
biệt là đã muộn mất vài năm so với yêu cầu “cùng giàu có” mà đồng chí
Đặng Tiểu Bình đã nêu ra từ 20 năm trước đây là “khi đã đạt được mức
sống khá giả vào cuối thế kỷ này (thế kỷ 20), vấn đề này sẽ dứt khoát
phải được nêu ra như một vấn đề nổi cộm và cần được giải quyết”.
Thứ hai, nhận thức về các vấn đề nổi bật trong
phân phối thu nhập, vấn đề nổi bật trong phân phối thu nhập ở Trung Quốc
biểu hiện ở chỗ quan hệ phân phối thu nhập và phân phối của cải không
hợp lý, khoảng cách thu nhập và chênh lệch về tài sản có xu hướng không
ngừng mở rộng, điều này đã đi ngược lại với tính chất “cùng giàu có” của
Chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc, về vấn đề này, dù là quan điểm nào cũng
đều không có gì khác biệt.
Thứ ba, phân tích nguyên nhân của vấn đề thu
nhập, vấn đề phân phối thu nhập ở Trung Quốc là do nguyên nhân ở nhiều
phương diện tạo nên như chế độ phân phối chưa được kiện toàn, tệ nạn
trong thể chế kinh tế xã hội và những bất hợp lý trong phương thức phát
triển kinh tế và trong cơ cấu kinh tế.
Thứ tư, tư duy trong giải quyết vấn đề. Phải có
cách suy nghĩ mang tính chất hệ thống từ những vấn đề dưới tầng sâu,
nhằm vào những nguyên nhân thuộc nhiều phương diện dẫn đến vấn đề phân
phối thu nhập và phân phối của cải, dựa vào tư duy cải cách đồng bộ, trị
cả gốc lẫn ngọn mới có thể từng bước giải quyết vấn đề tồn tại.
II. Đâu là vấn đề chưa đạt tiếng nói chung – bất đồng chủ yếu
Xét theo tình hình thứ hai và thứ ba, về đại thể có thể phân tích từ ba phương diện sau:
-
Bất đồng trong nhận thức về vấn đề cơ bản cần được loại bỏ
- Một là xuất phát điểm trong nhận thức cơ bản về
phân phối thu nhập và cải cách phân phối thu nhập là giống nhau. Trên cơ
sở phân tích lý luận về kinh tế thị trường tự do, đã có một bộ phận
trong giới học giả bàn luận, chứng minh vấn đề phân phối thu nhập và đối
sách trong vấn đề này ở Trung Quốc. Những người khác chủ yếu vận dụng
lý luận phân tích xuất phát từ tình hình thực tế của Trung Quốc, kết
luận rút ra được từ hai phương diện cách nhau rất xa. Bộ phận thứ nhất
nhấn mạnh vai trò của cơ chế thị trường, phản đối hoặc không tán thành
việc chính phủ can thiệp; Những người ở diện thứ hai cho rằng cơ chế thị
trường không hiệu quả và coi trọng vai trò điều tiết của chính phủ.
Nghiên cứu sâu hơn sẽ thấy hệ thống kinh tế thị
trường do chính phủ chủ đạo xây dựng chứ không phải sinh ra một cách tự
nhiên, không để cho chính phủ phát huy vai trò là không thể giải quyết
được vấn đề, nhưng nếu tránh để cho chính phủ quản lý những việc không
nên quản, quản không được và quản không tốt thì quả thực sẽ là một đề
tài lớn cần phải đi sâu nghiên cứu. Vì thế, hai phương diện nhận thức
nói trên có điểm dung hòa và tiếp nhận lẫn nhau, cần dung hòa một cách
thích hợp, kết hợp giữa cánh tay vô hình và cánh tay hữu hình.
- Hai là phán đoán những bất đồng về trọng tâm
của vấn đề phân phối. Một số người cho rằng vấn đề phân phối ở Trung
Quốc chủ yếu là phân phối của cải không hợp lý, phân phối thu nhập, đặc
biệt là phân phối trả công lao động không được rõ ràng. Còn lại đa số
cho rằng phân phối thu nhập và phân phối của cải đều có vấn đề, hơn nữa
phân phối thu nhập, nhất là phân phối trả công lao động và mở rộng lợi
ích của người lao động là có liên quan trực tiếp và người dân hết sức
quan tâm nên không thể coi thường.
Trên thực tế, hai kiểu nhận thức nói trên không
hề mâu thuẫn, cách mà chúng ta gọi phân phối thu nhập hiện nay là nói
đến phương thức phân phối lớn, hàm nghĩa bao gồm phân phối thu nhập và
phân phối của cải, có phân phối thu nhập mang tính bề nổi và mang tính
tiềm ẩn, có dạng lưu chuyển (lưu lượng) và dạng dự trữ (tồn lượng), phải
coi chúng như một hệ thống lớn để phân tích và nghiên cứu đối sách chứ
không phải cắt chúng ra thành nhiều mảnh, chỉ làm nổi bật phương diện
nào đó nhưng lại coi thường phương diện khác.
- Ba là nhận thức khác nhau về phân tích nguyên
nhân trọng điểm tạo nên vấn đề phân phối thu nhập. Có một số người cho
rằng do chính phủ can thiệp quá nhiều vào hoạt động kinh tế vi mô đã tạo
nên vấn đề phân phối, và chúng cũng được tạo nên do các hình thức lũng
đoạn, bao gồm lũng đoạn trong các lĩnh vực hành chính, quyền lực, tài
nguyên và thị trường. Một kiểu quan điểm khác cho rằng nguyên nhân liên
quan đến nhiều phương diện, nhiều tầng nấc, nếu chỉ nhấn mạnh một phương
diện nào đó là không toàn diện.
Quan điểm thứ nhất có lý ở mức độ nhất định, còn
quan điểm thứ hai kỳ thực cũng không mâu thuẫn. Nguyên nhân mà quan điểm
thứ hai nói đến về những tệ nạn trong thể chế kinh tế xã hội đã bao hàm
cả nguyên nhân mà quan điểm thứ nhất đề cập tới, vì thế cả hai loại
quan điểm có thr dung hợp lẫn nhau.
- Bốn là nhận thức khác nhau về con đường cơ bản
để giải quyết vấn đề phân phối thu nhập. Một kiểu nhận thức cho rằng con
đường cơ bản đế giải quyết vấn đề là đặt trọng tâm vào cải cách thể chế
kinh tế xã hội, thậm chí là cả chế độ chính trị tương ứng, đặc biệt là
loại bỏ sự can thiệp quá sâu của chính phủ vào nền kinh tế vi mô, dẫn
đến tệ độc quyền trong các lĩnh vực hành chính, quyền lực, tài nguyên,
thị trường…, chế độ phân phối thu nhập, đặc biệt là cải cách chế độ phân
phối tiền công lao động trong đó có thể bỏ qua không tính, nhất là
không thể coi đó là phương hướng chủ đạo; Một kiểu nhận thức khác cho
rằng con đường cơ bản là phải chú trọng cả gốc lẫn ngọn, vừa cải cách
chế độ phân phối thu nhập, vừa chú trọng cải cách hoặc điều chỉnh trong
các phương diện liên quan đến tệ nạn trong thể chế kinh tế xã hội và kết
cấu kinh tế ở tầng sâu. Cách nhận thức thứ nhất có lý ở mức độ nào đó
nhưng lại quá nhấn mạnh đến khả năng thoát ra khỏi cải cách tự thân của
chế độ phân phối thu nhập, hơn nữa có thể thu hút toàn bộ sự chú ý của
mọi người vào các lĩnh vực ngoài xây dựng kinh tế như xây dựng xã hội,
xây dựng chính trị, khó khăn vừa lớn lại vừa không thuận lợi để thao
tác, có thể sẽ biến thành một thứ giả tưởng về cải cách vô thời hạn. Hơn
nữa, kiểu nhận thức này cũng không mâu thuẫn với kiểu nhận thức sau về
bản chất, mà chỉ là nhấn mạnh hơn đến việc trị tận gốc. Còn trong kiểu
nhận thức thứ hai, về cải cách ở tầng sâu là đã bao hàm nội dung trị gốc
trong kiểu nhận thức thứ nhất, vì thế hai kiểu nhận thức này cũng có
thể kết hợp lại với nhau được.
2. Quan điểm khác nhau về vấn đề cụ thể có hy vọng đạt tiếng nói chung
Có rất nhiều nhận thức khác nhau liên quan đến vấn đề cụ thể, trong bài này chỉ lựa chọn phân tích sơ lược vấn đề chủ yếu.
Thứ nhất, liệu có phải tỉ trọng thu nhập của cư
dân, tỉ trọng về trả công lao động đang có xu hướng giảm, và sẽ còn tiếp
tục giảm? Một quan điểm cho rằng đó là phán đoán sai, một quan điểm
khác lại cho rằng nếu xét trên tổng thể thì hai loại tỉ trọng đó ở Trung
Quốc đang thể hiện xu hướng giảm. Sở dĩ có những kết quả tính toán khác
nhau là do liên quan đến các số liệu hiện hành được hoàn thiện một cách
không có hệ thống, chênh lệch độ tính toán không thống nhất. Để có
những kết quả tính toán như nhau đòi hỏi phải thông qua những số liệu
giống nhau được sử dụng thống nhất, đồng thời bổ sung sử dụng số liệu
khác thông qua điều tra điểm, lựa chọn những con đường khác để tính
toán, kiêm nghiệm lẫn nhau để xác nhận. Trên cơ sở mọi người đều nhận
thức được về sự bất hợp lý trong quan hệ phân phối thu nhập và phân phối
của cải, khoảng cách chênh lệch không ngừng lớn thêm, từ đó vấn đề đặt
ra là: Cách tính toán mới bị nghi ngờ liệu hai tỉ trọng nói trên có phải
đang có xu hướng thấp đi, cách tính này phải không ảnh hưởng đến cách
nhận định về tính chất nghiêm trọng trong vấn đề phân phối ở Trung Quốc,
không được vì thế mà làm chao đảo đối sách của trung ương về đẩy nhanh
cải cách thu nhập.
Thứ hai là liệu có phải các khoản thuế trong tầm
vĩ mô ở Trung Quốc đang có chiều hướng tăng lên? về điểm này có một quan
điểm cho rằng xét theo chiều ngang thì đều không nặng so với chiều dọc,
một quan điểm khác lại cho rằng đang có chiều hướng nặng thêm. Bất đồng
ở đây cũng liên quan đến chênh lệch tính toán có phải đã bao gồm cả các
khoản thu nhập tài chính ngoài dự toán hay không, có thể tiếp tục phải
định lượng những số liệu này để phân tích, rút ra kết luận mới chuẩn xác
hơn; nhưng hiện nay ít nhất cũng phải đạt nhận thức chung cơ bản về
những nội dung như kết cấu giữa thuế thu và chịu thuế ở Trung Quốc không
hợp lý, cần phải điều chỉnh, thuế thu phải thể hiện tốt hơn nữa vai trò
chức năng trong việc điều tiết quan hệ phân phối bất hợp lý hiện hành,
thu chi tài chính cần phải gia tăng tỉ trọng, về dân sinh, khống chế và
giảm thiểu chi tài chính “tam công” (nhà nước chi trả ba khoản về chiêu
đãi khách, phương tiện đi lại và đi nước ngoài đều bằng tiền công),
thông qua phân phối lại để gia tăng tỉ trọng thu nhập của cư dân, tiếp
tục rút ngắn khoảng cách giàu nghèo…. Ở đây cũng cần nhấn mạnh là không
được vì tranh luận để ảnh hưởng đến quyết tâm cải cách phân phối.
Thứ ba, khoảng cách giàu nghèo ở Trung Quốc được
tạo ra bởi khác biệt về thu nhập hay khác biệt về tài sản? Vấn đề này có
thể tiếp tục tính toán, không nhất thiết phải phân định rõ cần chú
trọng loại nào hơn, chỉ cần đưa ra được định nghĩa về phân phối lớn, sẽ
không ảnh hưởng đến việc chúng ta quan tâm tìm kiếm toàn diện vấn đề
phân phối và nguyên nhân thực sự của vấn đề phân phối.
Thứ tư, giải quyết khoảng cách chênh lệch trong
phân phối chủ yếu phải đầu tư vào việc phân phối lần một hay phân phối
lần hai (phân phối lần thứ nhất là tiền lương chính được trả do công sức
bỏ ra theo quy luật thị trường; phân phối lần hai là nhà nước hỗ trợ
theo diện chính sách bằng nguồn tiền thu thuế tăng lên). Một quan điểm
cho rằng chủ yếu chỉ cần bỏ công sức vào phân phối lần hai, một quan
điểm khác lại cho rằng cần đồng thời đầu tư vào cả hai lần. Chỉ cần xem
những yếu tố sản xuất tham gia phân phối lần một hiện nay, trong đó bao
gồm đất đai, vốn, nhân công lao động, quản lý, công nghệ… đã tồn tại rất
nhiều bất công là sẽ có thể rút ra được kết luận cần thiết phải có biện
pháp để giải quyết những vấn đề này như thế nào. Có thể nói những vấn
đề thuộc lĩnh vực phân phối lần hai về cơ bản đều liên quan đến phân
phối lần một. Vì thế, những tồn tại về phân phối lần một hay phân phối
lần hai cũng đều cần thiết phải giải quyết bằng cách áp dụng biện pháp
cải cách, cần nhấn mạnh trong phân phối lần một chính phủ không được
vượt giới hạn, chủ yếu thông qua nguyên tắc kiện toàn các yếu tố sản
xuất, loại bỏ ngăn cách thị trưòng, cải cách chế độ tài chính thuế vụ,
giám sát xử lý những hành vi vi phạm pháp luật trong phân phối thị
trường yếu tố sản xuất… để giải quyết vấn đề tồn tại, đồng thời nắm được
một giới hạn: Tất cả những việc gì thuộc về người dân kiếm tiền theo
đúng pháp luật sẽ không được can thiệp, không phân chia lời lãi, còn
những gì thuộc về những việc gây nguy hại công bằng chính nghĩa trong xã
hội sẽ phải quản lý. Đồng thời, trong phân phối lần hai phát huy tốt
hơn nữa tác dụng của việc tái phân phối, điều tiết khoảng cách giàu
nghèo, cùng thúc đẩy từng bước giải quyết vấn đề.
Thứ năm, nâng cao mức lương tối thiểu, thi hành
chính sách cụ thể như cùng bàn bạc về vấn đề lương, về vấn đề này, một
quan điểm cho rằng những chính sách như vậy không có tác dụng, mà tác
dụng phụ có thể còn lớn hơn; Một quan điểm khác cho rằng việc thi hành
những chính sách đó là rất cần thiết. Trong quan điểm thứ nhất, xuất
phát từ lo lắng chính phủ thông qua những chính sách như vậy để can
thiệp quá sâu vào thị trường sức lao động là có lý ở mức độ nào đó, quả
có hiện tượng là địa phương cá biệt cưỡng chế quy định trong thời kỳ
nhất định phải nâng mức lương tối thiểu lên đến bao nhiêu, hoặc mở rộng
diện bàn bạc tập thể về lương đến đâu. Trên thực tế, việc nâng cao mức
lương tối thiểu, theo “Quy định mức lương tối thiếu” là liên quan đến
cách tính, đến căn cứ và trình tự để tính. Quy hoạch 5 năm lần thứ 12
cũng chỉ xác định chỉ tiêu mang tính dự kiến chứ không phải chỉ tiêu
mang tính ràng buộc đối với việc nâng cao mức lương tối thiểu, Việc tiến
hành bàn bạc tập thể, theo quy định của pháp luật hữu quan là có điều
kiện mang tính tiền đề và là yêu cầu liên quan chứ không phải do chính
phủ cưỡng chế thúc đẩy.
Nếu không tìm hiểu tình hình mà phủ nhận toàn bộ
những chính sách đó thì hiển nhiên sẽ là phiến diện. Thông qua tranh
luận về quan điểm, chúng ta có thể đi đến được nhận thức chung: Vừa
không biến những chính sách trên thành thần dược linh đơn trong giải
quyết phân phối thu nhập, cũng không được phủ nhận một cách đơn giản
tính chất cần thiết và tính khả thi của những chính sách đó, phải coi đó
là biện pháp cấu thành trong công trình cải cách phân phối của cả hệ
thống, xác định đúng vị trí và vai trò của những chính sách này.
3. Quan điểm khác nhau khó đạt tiếng nói chung
Một số nhóm lợi ích đã phản đối việc điều chỉnh
liên quan đến lợi ích của mình, hoặc các nhóm lợi ích do ở các vị trí
khác nhau trong kết cục lợi ích hiện hành nên đã hình thành nhận thức
đối lập nhau khi nhận định về một số quan hệ lợi ích và biện pháp điều
chỉnh lợi ích. Ví dụ như không thừa nhận có ngành nghề độc quyền, hay
như ví dụ khác cho rằng phân phối thu nhập có chênh lệch là rất bình
thường, hơn nữa chênh lệch hiện không lớn, mà vẫn còn phải tiếp tục mở
rộng V.V.. Với những nhận thức như vậy những người đương sự hoặc nhóm
đương sự sẽ không thể hoặc rất khó đi đến được tiếng nói chung, hơn nữa
lại thường gây khó khăn cho việc hình thành dòng nhận thức chủ lưu trong
xã hội, đồng thời sẽ cản trở sự ra đời của những quyết sách lớn.
III. Thời gian không đợi – Đẩy nhanh cải cách phân phối thu nhập
Với loại quan điểm thứ nhất, cần tăng cường nhận
thức về cải cách, cụ thể hóa cách phân tích định lượng, đem lại cơ sở
nhận thức tư tưởng chắc chắn hơn cho việc điều chỉnh hợp lý quan hệ phân
phối thu nhập và phân phối của cải.
Với loại quan điểm thứ hai, cần tăng cường trao
đổi hiểu biết lẫn nhau, sớm hình thành nhận thức chung về cải cách; đối
với một bộ phận trong đó mà trước mắt tranh luận chưa đi đến kết quả,
hơn nữa không ảnh hưởng đến nhận định cơ bản, có thể tạm gác lại tranh
luận, nhẩt là phải đề phòng không để những tranh luận như vậy ảnh hưởng
đến nhận định cơ bản về vấn đề phân phối ở Trung Quốc hiện nay, làm chao
đảo quyết tâm đi sâu cải cách phân phối.
Với loại quan điểm thứ ba, nếu công tác điều
chỉnh quan hệ lợi ích được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận hoặc
bị phản đối thì cần thiết phải do cấp lãnh đạo trên cao hạ quyết tâm
chính trị, cho ra đời quyết sách mang tính chất công bằng và quyền uy;
Nếu các bên lợi ích liên quan không thỏa thuận được, hơn nữa nếu ý kiến
của quần chúng nhân dân không mạnh lắm thì cũng có thể gác lại tranh
luận để tránh gây cản trở cho việc xác định những quyết sách và chính
sách lớn.
Trước mắt, không còn thòi gian chờ đợi đi sâu cải
cách phân phối thu nhập, vì thế, chúng ta phải nhanh chóng quy tụ tiếng
nói chung, tìm điểm đồng gác lại bất đồng, đặt nền tảng nhận thức tư
tưởng đẩy nhanh cải cách phân phối thu nhập và phân phối của cải. Chúng
ta đã muộn hơn 10 năm so với yêu cầu “dứt khoát phải được nêu ra như một
vấn đề nổi cộm và giải quyết” vấn đề phân phối mà lãnh tụ Đặng Tiểu
Bình đã đề xuất. Bước tiến cải cách phân phối tuyệt đối không thể tiếp
tục trì hoãn.
***
TTXVN (Hồng Công 12/11)
Theo tờ “Tín báo ” (Hồng Công) ngày
10/11, nhân dịp Đại hội 18 ĐCS Trung Quốc, dư luận quốc tế dồn dập đánh
giá về thành tựu 30 năm cải cách mở cửa của Trung Quốc, trong đó có 10
năm dưới sự lãnh đạo của Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo. Tất cả đều cho rằng
từ năm 1981 đến nay, Trung Quốc đã giảm được hơn 600 triệu người nghèo,
đây là điều chưa từng có trong lịch sử phát triển kinh tế – xã hội loài
người; đồng thời, Trung Quốc cũng xóa nợ gần 30 tỷ nhân dân tệ (NDT) cho
các nước nghèo hoặc các nước kém phát triển nhất, cam kết cho hưởng
thuế suất bằng không đối với 97% sản phẩm chịu thuế của các nước kém
phát triển nhất có quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, đây cũng được đánh
giá là cống hiến quan trọng của Trung Quốc đối với kinh tế thế giới.
Giới quan sát Bắc Kinh cho biết trong số hơn 600
triệu người thoát nghèo nói trên, hầu hết là nông dân, điều này rõ ràng
là có liên quan tới các biện pháp xóa bỏ thuê nông nghiệp, gia tăng bù
giá nông nghiệp, thúc đẩy sáng tạo khoa học kỹ thuật thực hiện sản xuất
nông nghiệp… của Chính phủ Trung Quốc trong 10 năm qua. Mặc dù vậy, xét
về tổng thể, nông dân vẫn là những người nghèo nhất ở Trung Quốc.
Định rõ quyền tài sản đất đai hỗ trợ nông dân làm giàu
Làm thế nào có thể giải quyết thực sự vấn đề “tam
nông”, mở rộng con đường cho nông dân làm giàu, thay đổi triệt để diện
mạo nông thôn?
Các chuyên gia “tam nông” của Trung Quốc (trong
đó có Giáo sư Từ Dũng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu nông thôn Trung Quốc)
đều cho rằng Đại hội 18 cần có bố trí mới, cần bắt tay từ ba lĩnh vực,
bao gồm định rõ quyền tài sản đất đai của người nông dân, thực hiện
“thôn dân tự trị”, đẩy nhanh bước đô thị hóa nông thôn.
Giáo sư Từ Dũng là một ngưòi nổi tiếng, đã có
thời gian dài nghiên cứu về vấn đề “tam nông” và được mệnh danh là “học
giả Trường Giang”, hồi tháng 11/2006 từng được mời tới Trung Nam Hải để
thuyết giảng về vấn đề nông thôn cho các lãnh đạo Trung Quốc. Theo Từ
Dũng, mâu thuẫn lớn của nông thôn Trung Quốc hiện nay được tạo bởi sự
hỗn loạn quản lý của “tam tư” (3 nguồn vốn gồm tài sản, quỹ và tiền
vốn). Trong vấn đề quản lý “tam tư”, hạt nhân là vấn đề quyền tài sản
đất đai, bởi việc đất đai bị bán làm bùng phát các sự kiện đông người,
khiến toàn bộ xã hội như ngồi trên miệng núi lửa, khó có thể ổn định
được. Nói cho cùng, các vấn đề xã hội nông thôn hiện nay ở Trung Quốc
chính là do tính mơ hồ của quyền tài sản đất đai gây ra.
Quốc hữu hóa đất đai và tư hữu hóa đất đai là hai
cách nghĩ khác nhau, Quốc hữu hóa đất đai, các cấp chính quyền nắm giữ
đất đai thuận tiện thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế càng nhanh hơn.
Nếu như quyền tài sản đất đai được xác định thực sự rõ ràng, giá thành
đất đai sẽ cao, chính quyền địa phương sẽ không thể chào hàng “giá đất
bằng không” để thu hút vốn đầu tư, chính quyền địa phương đương nhiên hy
vọng ra sức làm cho quyền tài sản đất đai mơ hồ hóa. Chính vì quyền tài
sản đất đai mơ hồ nên xuất hiện tình trạng bất họp lý là giá bồi thường
cho mỗi mẫu đất trong dự án đường cao tốc Bắc-Nam là 2.000 NDT, song
nông dân thực tế chỉ nhận được vài trăm NDT, như vậy làm sao không nổ ra
các sự kiện mang tính quần chúng?
Từ Dũng cho biết, ở Trung Quốc, người nông dân lẽ
ra là người giàu có nhất, bởi lẽ đất đai ở Trung Quốc rất khan hiếm;
song nông dân Trung Quốc hiện nay đích thực là những người nghèo nhất.
Nông dân Hàn Quốc và Đài Loan do được hưởng sự tăng giá của đất đai, lợi
ích thu được từ đất đai trở thành tiền vốn tạo nghiệp ban đầu của nông
dân, với tiền vốn này, họ đã trở thành chủ của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, không chỉ tự làm giàu cho mình mà còn kéo theo sự phát triển của
kinh tế – xã hội. Lẽ ra nông dân Trung Quốc cũng nên được đi theo con
đường này, nay nhìn lại, con đường này ở Trung Quốc khá dài và gian nan.
Theo phán đoán của Từ Dũng, khả năng nổ ra các sự kiện lớn đông người
do vấn đề phân phối lợi ích đất đai Bất công gây ra tới đây tuy không
nhiều, song các sự kiện nhỏ, lẻ tẻ sẽ không thể tránh khỏi.
Các chuyên gia “tam nông” chỉ ra rằng theo như
Thủ tướng ôn Gia bảo từng nói “đất đai là sự đảm bảo của nông dân, không
thể lấy đi”, Đại hội 18 này Trung Quốc rất có thể phải tiến hành cải
cách quyền tài sản đất đai, định rõ quyền lực của nông dân đối với quyền
tài sản đất đai, khi xảy ra mâu thuẫn về quyền tài sản đất đai giữa
quan với dân, cần để cho nông dân có lực lượng “đấu tranh”, không thể để
quan chức chuyên quyền độc đoán, từng bước tháo gỡ nút thắt, như thế
mới tránh được nổ ra các sự kiện mang tính quần chúng; điều then chốt
nằm ở chỗ cần ủng hộ sự trưởng thành của lực lượng “đấu tranh” nông dân,
và “đấu tranh” có tổ chức không đi theo hướng cực đoan.
Qua nhiều năm nghiên cứu đối với nông thôn, Từ
Dũng phát hiện ra sự quản lý cai quản nông thôn hiện nay ở Trung Quốc đa
phần theo kiểu duy trì ổn định. Sự kiện Ô Khảm ở Quảng Đông (bùng phát
do lượng lớn đất đai của nông dân bị bán mất) đã khiến những người lãnh
đạo ý thức được rằng phương thức quản lý cai quản nông thôn theo kiểu
duy trì ổn định đã không giải quyết được vấn đề, cần phải tiến hành cải
cách mang tính thể chế, thực hiện quản lý dân chủ thôn dân mang tính
tổng hợp.
Thôn dân tự trị, quản lý dân chủ
Từ Dũng nhận thấy biện pháp cai quản cơ sở của Bí
thư Tỉnh ủy Quảng Đông Uông Dương là “đòn tổng hợp”, là cách cai quản
hệ thống hóa, bắt đầu giải quyết từ “gốc” của vấn đề, cái gốc này chính
là quản lý “tam tư”. Cách giải quyết là chế độ hóa việc công khai thôn
vụ (eông việc của thôn), để cho càng nhiều nông dân tham gia quản lý.
Một trong ba điểm tìm kiếm của Quảng Đông là phân tách kinh tế – chính
trị, bí thư thôn không kiêm nhiệm lãnh đạo hợp tác xã kinh tế; hai là
lượng hóa quyền cổ đông, thay đổi tình trạng hợp tác xã cổ phần chỉ nằm
trong tay cán bộ, tài sản tập thể đến với nông dân rõ ràng hơn, lượng
hóa quyền lợi cổ phần tới cá nhân; ba là thành lập ủy ban giám sát thôn
vụ, bắt đầu giám sát ngay từ khi ra quvết sách, ủy ban giám sát thôn vụ
đã được thành lập trước tiên ở thôn Quầng Dục, tới đây sẽ được mở rộng
ra toàn tỉnh.
Một mô hình quản lý dân chủ, tự trị của thôn dân
khác là ở thị trấn Bạch Sa huyện Trung Mâu tỉnh Hà Nam, nơi có khoảng
40.000 nhân khẩu. Từ năm 2009, tổ thôn dân số 7 của thôn Xã Kiều thuộc
thị trấn này đã có hình thức đặc biệt và mộc mạc, thông qua chế độ đại
biểu liên hộ và “5 miếng dấu” để thực hiện tự trị tổ thôn dân. Trước
tiên, vì là người “ăn nói chắc chắn” trong nhà, anh Phan được đại gia
đình gồm 10 người của mình cử làm “đại diện gia đình”, sau đó anh cạnh
tranh với đại diện của 10 gia đình khác, căn cứ vào uy danh tích lũy
trong thời gian dài, anh Phan đã trổ rõ tài năng và trở thành “đại diện
liên hộ”, tức là anh có thể đại diện cho l1 hộ mưu cầu lợi ích. 8 vị đại
diện liên hộ được bầu ra từ cách làm trên cùng tổ trưởng tổ thôn dân
tạo thành “ủy ban tổ thôn dân”, các công việc trong thôn đều do tập thể
cơ quan này nghiên cứu, ý kiến chung sau khi hình thành còn cần phải
đóng dấu của “ủy ban tổ thôn dân” mới có hiệu Lực. Ủy ban tổ thôn dân
khắc một con dấu, chia thành 5 phần, tổ trưởng tổ thôn dân giữ một phần,
4 phần khác do 4 đại diện liên hộ mỗi người giữ một phần. 8 đại diện
liên hộ chia thành 2 nhóm, mỗi nhóm luân phiên giữ 4 phần của con dấu
chung.
Nhận xét về mô hình này, nhà nghiên cứu Đảng Quốc
Anh thuộc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Nông thôn Viện Khoa học Xã hội
Trung Quốc cho rằng, điểm sáng tạo mới của chế độ đại diện liên hộ nằm ở
chỗ nó cho người nông dân quyền lợi dân chủ nhiều hơn, trong một phạm
vi nhất định có thể phòng ngừa chuyên quyền độc đoán, có tác dụng quan
trọng đối với cân bằng quyền lực. Trên thực tế, dân chủ thôn dân kiểu
giống như “5 miếng dấu” trong 10 năm qua ngày càng nhiều. Hiện nay, trên
98% ủy ban thôn trên toàn Trung Quốc thực hiện bầu chọn trực tiếp, 85%
thôn thành lập chế độ Hội nghị thôn dân hoặc Hội nghị đại biểu thôn dân…
có thể nói mỗi nơi có những đặc sắc riêng.
Con đường đô thị hóa cải thiện nông thôn
Theo giới quan sát, một chỉ tiêu quan trọng của
tiến trình phát triển của Trung Quốc là thu hẹp khoảng cách giàu nghèo,
và điều này sẽ được thực hiện thông qua không ngừng phát triển đô thị
hóa nông thôn. Ngày 31/10/2012, Tổ Nghiên cứu Chiến lược Phát triển bền
vững Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc công bố “Báo cáo Đô thị hóa kiểu
mới của Trung Quốc năm 2012”, trong đó nói rằng đến năm 2017 tỉ lệ đô
thị hóa của Trung Quốc sẽ đạt 51,3%, dân số thành thị lần đầu tiên vượt
qua dân số nông thôn. Các số liệu cho thấy trong 10 năm qua, Trung Quốc
bình quân mỗi năm có gần 21 triệu nông dân chuyển ra thành thị, trong đó
bao gồm rất nhiều công nhân-nông dân. Dự kiến trong vòng 20 năm tới sẽ
có gần 500 triệu nông dân muốn thực hiện “đô thị hóa”, và 5-10 năm tới
sẽ là thời kỳ then chốt của tiến trình đô thị hóa ở Trung Quốc. Quá
trình này đang quyết định liệu Trung Quốc có nắm được cơ hội để tiếp tục
viết nên kỳ tích hay không.
Đa số học giả cho rằng đô thị hóa của Trung Quốc
là động lực chủ yếu nâng đỡ sự phát triển trong tương lai của Trung
Quốc. Lượng lớn dân số thường trú tại thành thị sẽ tạo ra tiềm năng chi
tiêu khổng lồ cho sự phát triển của thành thị, giúp cho sự phát triển
kinh tế hiện nay của Trung Quốc vượt qua trạng thái dựa nhiều vào đầu
tư.
Nhà khoa học Giáo sư Ngưu Văn Nguyên, Chủ tịch
Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc cho rằng tỉ lệ đô thị hóa của Trung Quốc
phá vỡ mức 50% tất sẽ gây ra sự biến đổi xã hội sâu sắc, kết cấu xã hội
cũng sẽ xuất hiện thay đổi to lớn, tầng lớp trung lưu sẽ bước lên vị
trí hàng đầu trong xã hội. Dự kiến đến khoảng năm 2030, Trung Quốc sẽ
hình thành một tầng lớp trung lưu với quy mô nhất định và khá ổn định,
điều này sẽ tạo cơ sở vững chắc cho Trung Quốc cơ bản thực hiện hiện đại
hóa và đạt được trình độ nước phát triển hạng trung trên thế giới vào
giữa thế kỷ này.
Theo báo mạng Asia Times Online, trong bối
cảnh tầm ảnh hưởng của Bắc Kinh tiếp tục mở rộng, các nhà phân tích
Trung Quốc đang ngày càng lo lắng về khả năng yếu kém của nước này trong
việc gây ảnh hưởng đến các vấn đề quốc tế, đặc biệt là sự trỗi dậy của
Trung Quốc, đã bị đánh giá – gọi đó là “quyền có tiếng nói” hay “quyền
thuyết trình.” Ví dụ, việc phương Tây lo lắng về việc Trung Quốc sử dụng
chất kích thích trong các kỳ Olympic thể hiện sự yếu kém của Trung Quốc
và sức mạnh của truyền thông Đông phương học tại phương Tây làm giảm
bớt thành tựu và năng lực của Trung Quốc.
Mặc dù quan điểm này không mới, tuy nhiên một
cuộc thảo luận chính thức đã được yêu cầu phải tiến hành khẩn cấp kể từ
sau mùa Hè, với nội dung đề cập đến khoảng cách giữa sức mạnh của Trung
Quốc với tư cách là nền kinh tế đứng thứ hai thế giới và khả năng của
Bắc Kinh trong việc định hình các giá trị và những thảo luận quốc tế.
Câu hỏi mà các nhà phân tích Trung Quốc phải đối
mặt là làm thế nào để Bắc Kinh có thể giải quyết được sự mất cân bằng
này, bởi việc khắc phục điểm yếu của Trung Quốc là mộí “chiến lược khẩn
cấp cần thiết giống như sự cạnh tranh giữa các nước đang nổi lên”.
Ý tưởng về “quyền có tiếng nói” hay “quyền thuyết
trình” là một sự mở rộng của quyền lực mềm, liên quan đến sự ảnh hưởng
và hấp dẫn của hệ tư tưởng và hệ thống giá trị của một quốc gia. Giống
như một phân tích quan trọng mùa Hè này đã mô tả nó, “quyền thuyết
trình” phụ thuộc vào hệ tư tưởng của ai, đặc biệt là hệ thống giá trị
của ai, những câu trả lời tốt nhất phù hợp với các vấn đề toàn cầu và
tạo động lực thúc đẩy cho sự phát triển và tiến bộ nhân loại”. Xét trên
góc độ này, Bắc Kinh cần “đối mặt với sự thật tàn nhẫn rằng phương Tây
rất mạnh trong khi Trung Quốc lại yếu thế” và bắt đầu học cách làm thế
nào để giao tiếp hiệu quả hơn với các “khán giả” nước ngoài.
Minh chứng về sự yếu kém của Bắc Kinh được thể
hiện trong việc các chính sách và thành quả của Trung Quốc trên trường
quốc tế cũng như nội bộ trong nước. Ở trong nước, người dân Trung Quốc
phàn nàn rằng chính sách đối ngoại của Bắc Kinh quá mềm yếu. Trên trường
quốc tế, chính phủ các nước phàn nàn rằng chính sách đối ngoại của
Trung Quốc quá cứng rắn. Điều này cho thấy Bắc Kinh phải làm rõ với cả
trong nước và quốc tế về việc Trung Quốc sẽ sử dụng sức mạnh đang gia
tăng của mình ra sao và loại hình thế giới nào mà Trung Quốc mong muốn.
Chìa khóa để làm điều này là củng cố quyền được
có tiếng nói của Trung Quốc. Hơn thế nữa, bất chấp những thành tích của
Trung quốc kể từ khi bắt đầu Cải cách và Mở cửa, một số nhân tố phương
Tây đã sử dụng “quyền thuyết trình” của họ để truyền bá về “Thuyết về
mối đe dọa Trung Quốc,” biến Trung Quốc thành “con quỷ”, tăng cường chủ
nghĩa bảo hộ thương mại và ngăn cản sự phát triển hòa bình của Trung
Quốc.
Sự yếu kém của Trung Quốc bắt nguồn từ một số
nguyên nhân. Đầu tiên là có sự mâu thuẫn trong việc thúc đẩy một bộ giá
trị tổng thể và tôn trọng việc không can thiệp vào vấn đề chính trị của
một quốc gia. Cho đến khi chính sách ngoại giao của Trung Quốc còn bị
chi phối bởi nguyên tắc không can thiệp vào vấn đề chính trị của một
quốc gia, Bắc Kinh sẽ cảm thấy khó khăn trong việc phá vỡ ưu thế của
phương Tây về quyền thuyết trình.
Điều thứ hai là Trung Quốc không cần thiết xây
dựng những quan điểm mới về việc các nước làm thế nào để tự vận hành
hoặc tìm được vị thế của mình trong một thế giới đang ngày càng hòa
nhập. Như một nhà phân tích quân sự tại Học viện Chỉ huy Nam Kinh đã
viết, nếu Trung Quốc chỉ chuyển đổi hoặc áp dụng các quan điểm của
phương Tây, thì sự lan tỏa “các quan điểm Trung Quốc” sẽ bất lợi so với
các giá trị của phương Tây và đẩy Trung Quốc vào thế bị động.
Vấn đề thứ ba là việc thúc đẩy giá trị của sự lựa
chọn phát triển riêng của mỗi quốc gia theo như hoàn cảnh của quốc gia
đó không đưa ra định hướng rằng các tư tưởng của phương Tây tạo ra những
sự lựa chọn kinh tế và chính trị dựa trên lý trí và lý tưởng. Điều này
làm suy giảm đặc trưng trong mô hình phát triển của Trung Quốc như quyền
của một quốc gia lựa chọn mô hình chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung
Quốc. Vì vậy, Trung Quốc cần làm tốt hơn việc công khai và giải thích
kinh nghiệm của Trung Quốc về “tìm kiếm sự thật từ thực tế”, các chính
sách cải cách và mở cửa, “lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của sự thực” và
xã hội hài hòa.
Bước đầu tiên trong việc tăng cường “quyền thuyết
trình” của Trung Quốc là nâng cao sự hiểu biết tinh tế hơn về các đối
tác nước ngoài. Vì thiếu sự nghiên cứu chuyên sâu về thái độ từ bên
ngoài, những người truyền giáo Trung Quốc đôi lúc đưa ra thông điệp rằng
có thể có một sự tự thể hiện tích cực của văn minh Trung Quốc, nhưng
lại không được tiếp nhận tích cực từ phía nước ngoài. Thách thức đối với
Bắc Kinh là làm thế nào bảo đảm tiếng nói của Trung Quốc đến tai những
người khác – điều không xảy ra trong hiện tại và cần được nghiên cứu
thêm, đặc biệt là làm thế nào thúc đẩy sự thâm nhập quốc tế của chủ
nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc.
Theo Ngô Anh – Phó Giám đốc Trung tâm quan điểm quốc tế thuộc Đại học Ngoại ngữ Thượng Hải, Trung
Quốc có thể nâng cao quyền có tiếng nói với ba bước. Đầu tiên, Bắc Kinh
cần mạnh mẽ hơn trong việc đề ra các thảo luận quốc tế. Thứ hai, Trung
Quốc cần phá vỡ được định hướng của truyền thông phương Tây và truyền
thông một cách mạnh mẽ, trách nhiệm để nới rộng không gian thuyết trình
quốc tế của Trung Quốc. Cuối cùng, Trung Quốc nên tập trung nghiên cứu
về truyền thông phương Tây, xem những phản hồi về những nỗ lực của Trung
Quốc để định hình quan điểm công chúng.
Một trong những cách mà Trung Quốc có thể cải
thiện ảnh hưởng của mình là tiếp tục thúc đẩy chính sách “Hướng ra bên
ngoài” cho các cơ quan truyền thông Trung Quốc, chẳng hạn như hỗ trợ cho
Tập đoàn Truyền thông Phương Nam trong các vấn đề ngoài Quảng Đông. Từ
kinh nghiệm này, các nhà báo Trung Quốc có thể học các luật về truyền bá
văn hóa.
Trung Quốc cũng cần phải cẩn trọng trong việc
nâng cao quyền truyền thông, bởi việc có một ảnh hưởng lớn hơn đối với
các vấn đề quốc tế không phải hoàn toàn tốt. Chính sách Cải cách và Mở
cửa của Trung Quốc khiến phương Tây tin rằng Trung Quốc đang trên con
đường hội nhập với mô hình phát triển của phương Tây.
Theo đuổi “quyền có tiếng nói” của Trung Quốc là
điểm bắt đầu cho sự kết thúc niềm tin đó và đưa ra một thông điệp rõ
ràng rằng tiến trình của Trung Quốc là khác biệt. Tuy nhiên, theo chuyên
gia phân tích truyền thông Trương Chí Châu của Đại học Thanh Hoa, Trung
Quốc không thể tiến lên mà không thách thức các quan điểm của phương
Tây bôi xấu những thành tựu của Trung Quốc – chẳng hạn như lý thuyết về
hòa bình dân chủ, chính sách quyền lực lớn hơn, kết thúc lịch sử… và do
đó chỉ ra những chặng đường phát triển khác nhau của Trung Quốc.