Tạp chí Xưa & Nay
Số 415 tháng 11/2012
YẾU TỐ NIỀM TIN VÀO THỰC THỂ TÂM LINH(TYLOR 1871)
HAY CÁC YẾU TỐ GIÁO HỘI VÀ GIÁO LÝ (ĐẶNG NGHIÊM VẠN 2001) TRONG ĐỊNH
NGHĨA VỀ TÔN GIÁO LẠI DƯỜNG NHƯ KHÔNG PHẢI LÀ NHỮNG YẾU TỐ QUAN TRỌNG
ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO. KHÔNG CHỈ LÀ TƯ LIỆU THỰC ĐỊA GÓP PHẦN XEM XÉT LẠI
CÁC ĐỊNH NGHĨA VỀ TÔN GIÁO CỦA PHƯƠNG TÂY CHỊU ẢNH HƯỞNG CỦA TRUYỀN
THỐNG NGHIÊN CỨU KITÔ GIÁO, THỰC HÀNH PHẬT GIÁO CÒN GÓP PHẦN ĐƯA RA MỘT
CÁCH NHÌN MỚI TRONG ĐỊNH NGHĨA VỀ TÔN GIÁO (KEYES 2006) (1).
XƯA NAY XIN GIỚI THIỆU BÀI VIẾT CỦA MỘT NGƯỜI TRONG CUỘC VỀ VẤN ĐỀ NÀY.
THƯỢNG TOẠ THÍCH HUỆ ĐĂNG HIỆN LÀ ỦY VIÊN BAN HOẰNG PHÁP TRUNG ƯƠNG VÀ
LÀ GIẢNG VIÊN HỌC VIỆN PHẬT GIÁO HÀ NỘI.
Câu hỏi này ở đầu cửa miệng của nhiều người, nhất
là nhửng người Mác xít mà tôi được quen biết. Tôi nghĩ rằng câu trả lời
có hay không, phải hay không phải, tuỳ thuộc vào vấn đề chúng ta hiểu
từ ngữ “tôn giáo”, một từ ngữ gốc Phương Tây (religion), như thế nào?
Nếu định nghĩa tôn giáo, tức đạo, là con đường
dẫn tới chân lý và giác ngộ và giải thoát, thì đạo Phật một đạo giác ngộ
và giải thoát đúng là một tôn giáo. Vì bản thân Phật pháp đã từng được
đức Phật ví như cái bè dùng để qua sông, hay ngón tay chỉ mặt trăng,
nghĩa là như một phương tiện, chứ không phải là một cứu cánh, thì đạo
Phật đúng là một tôn giáo như vậy. Khác với giáo chủ của các tôn giáo
khác, Đức Phật không bao giờ tự gán cho mình quy chế Thượng đế, con
Thượng đế, hay là phái viên của Thượng đế. Phật tự xem mình là “vị thầy
chỉ bày con đường” (Margadata), tức là con đường Bát chánh đạo đã dẫn tới giác ngộ và giải thoát, con đường đoạn trừ mọi khổ đau.
Đạo Phật xa lạ với mọi ý niệm vê một Thượng Đế cá
nhân đẩy quyền năng vô hạn. Đức Phật đến với loài người như một Con
Người giản dị nhưng hoàn thiện, một con người đã được giác ngộ và giải
thoát, và chỉ bày cho con người con đường giác ngộ và giải thoát. Cũng
vì đức Phật không tự cho mình một quy chế Thượng đế hay một thần linh
tôi thượng, cho nên các tôn giáo thần quyền thường đánh giá đạo Phật là
đạo vô thần (atheistic). Phật thường khuyên bảo học trò không nên
tin lời Phật vì lòng kính trọng đối với Ngài, mà vì lời dạy của Phật
đúng đắn, dẫn con người đến giác ngộ và giải thoát. Lời dạy của Phật
không được xem như giáo điều, tuyệt đối phải tin tưởng. Lời dạy của Phật
phải được chúng ta kiểm nghiệm qua cuộc sông thực tiễn như là người thợ
vàng thử vàng vậy. Phật thường dạy học trò rằng một điều dù đúng hay
sai không phải là do quyền uy của vị đạo sư nói ra, hay được ghi trong
sách thánh như là thần khải. Đối với Phật, quyền uy và thần khải không
phải là tiêu chuẩn của chân lý. Đối với đạo Phật tiêu chuẩn của chân lý
là lý trí và sự kiểm nghiệm của cuộc sống. Khẳng định như vậy để nói
rằng đạo Phật không phải là một tôn giáo, nếu tôn giáo nghĩa là chấp
nhận giáo điều, là tự biện thần học, gọi là để tìm ra chân lý trong từng
câu từng chữ của sách thánh, là niềm lo sợ đối với cái thiêng liêng và
siêu nhiên, là sự gửi gắm cả cuộc đời mình cho thần linh hay Thượng đế…
Nếu tôn giáo là như vậy, thì đạo Phật sẽ không Phải là tôn giáo, mà đúng
hơn là một hệ thông triết lý và đạo đức dẫn con người tới cái Chân, cái
Thiện, cái Mỹ.
Nhưng nếu tôn giáo là một cái gì đó tạo cảm hứng
cho con người hướng tới một cuộc sống tốt đẹp nhất, cao cả nhất, thúc
đẩy con người tự hoàn thiện mình bằng một nỗ lực đạo đức không ngừng,
nếu tôn giáo nâng bổng con người, vượt lên những nhu cầu vật chất tầm
thường của cuộc sống, thì đạo Phật là tôn giáo như vậy. Mà lạ lùng thay,
một tôn giáo như đạo Phật, không công nhận có linh hồn bất tử, cũng
không công nhận có thượng đế tạo thế, ấy thế mà từ khi ra đời ở Ấn Độ
cách đây hơn 2.500 năm, nó đã làm chấn động tận gốc rễ xã hội đẳng cấp
lâu đời, buộc tất cả mọi tôn giáo và triết phái truyền thông phải xét
lại cơ sở giáo lý của mình. Và sau khi nó vượt qua biên giới, nó trở
thành một tôn giáo thế giới, nó đã chinh phục trái tim và khối óc của
hàng triệu người. Ngày nay cũng vậy trong khi các tôn giáo truyền thông
và thần quyền đang chịu đựng những thử thách lớn, đối diện với tiến bộ
của khoa học như vũ bão, thì đạo Phật vẫn đứng vững như bàn thạch. Đạo
Phật mở con đường du nhập của mình vào ngay trong lòng những nước đứng
đầu trên thế giới về khoa học và công nghệ, như Mỹ, Anh, Pháp, Đức,…
Không phải vì là Phật tử mà chúng ta ca ngợi đạo
Phật. Chính các nhà khoa học lớn, có tiếng tăm ca ngợi đạo Phật. Có thể
trích ra đây lời nhận xét của nhà bác học Albert Einstein đối với đạo
Phật: “Tôn giáo trong tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ, nó phải siêu
việt hơn một Thượng đế cá nhân, tránh giáo điều và thần học; bao quát cả
hai mặt tự nhiên và tâm linh. Nó phải dựa trên một ý thức tôn giáo nảy
sinh từ sự thực nghiệm của mọi sự vật, tự nhiên và tâm linh, được quan
niệm như một thể thống nhất có ý nghĩa. Phật giáo đáp ứng một mô tả như
vậy. Nếu có một tôn giáo thỏa mãn được yêu cầu của khoa học hiện đại,
thì tôn giáo đó là đạo Phật”(2). Để chứng minh nhận xét của
tôi về sự thành công của đạo Phật tại các nước công nghiệp phương Tây,
cho phép tôi đưa ra một trích dẫn nữa, lần này là của một nhà nghiên cứu
tôn giáo người Pháp trong một bài đăng trong một đặc san nghiên cứu các
tôn giáo của tờ Thế giới ngoại giao số tháng 11 và 12/1999:
“Phật giáo chủ yếu là tôn giáo hiện đại: dành cho cá nhân, không giáo
điều đạo đức, kết hợp thân với tâm. Phật giáo có tất cả cơ may để phát
triển ở phương Tây, vì nó không đề xuất một sự cứu rỗi, xuất phát từ một
thần linh bên ngoài, mà là một phương pháp thực tiễn để thoát khỏi đau
khổ và đạt tới hạnh phúc, ngay tại thế giới này”(3).
Phật giáo không có một tổ chức tăng đoàn chặt
chẽ, theo kiểu các tôn giáo thần quyền phương Tây. Vì sao? Vì tinh thần
dân chủ và bình đẳng trong đạo Phật không cho phép có một tổ chức chặt
chẽ như vậy. Không phải trong thòi kỳ Phật giáo bộ phái ở Ấn Độ, mà ngay
cả ở Trung Hoa, Nhật Bản, tổ chức Phật giáo vẫn bao gồm nhiều giáo phái
và hệ phái khác nhau, với những chùa chiền, tu viện, và thiết chế giáo
dục, của riêng các giáo phái và hệ phái đó. Ở Việt Nam tuy có một giáo
hội Phật giáo Việt Nam được thành lập năm 1981, thế nhưng hiến chương
của giáo hội tôn trọng sự tồn tại trong phạm vi giáo hội của những giáo
phái và hệ phái khác nhau, như Phật giáo Nam tông, hệ phái Khất sĩ, Phật
giáo Khơ-me,…
Ngày xưa, khi Thiên Chúa giáo mới bắt đầu vào nước ta, có sự phân biệt đồng bào giáo và lương.
Đồng bào giáo chỉ cho tất cả đồng bào theo tôn giáo mới, tức Thiên Chúa
giáo, còn đồng bào lương chỉ cho tất cả đồng bào theo các đạo Phật,
Nho, Lão hay bất cứ một tín ngưỡng bản địa nào khác. Vì sao vậy? Phải
chăng người Việt Nam cũng như người Á Đông nói chung không có một quan niệm về tồn giáo chặt chẽ về mặt tổ chức
như đạo Thiên chúa. Một người Trung Hoa, Nhật Bản hay người Việt Nam có
thể theo cả ba đạo Phật, Nho, Lão và cả đạo ông bà nữa mà trong lương
tâm họ không bị chi phối về mặt tâm lý bởi những bài thuyết giảng kiểu
như những bài thuyết giảng của các bậc tiên tri đạo Do Thái. Những bài
thuyết giảng này chống lại mọi biểu hiện của tà giáo và tà đạo, khi các
bộ tộc Do Thái từ kiểu sống du mục chuyển thành những bộ tộc định cư và
sản xuất nông nghiệp, sau khi vương quốc Israen đầu tiên được thành lập,
với các vua David, rồi Solomon, như đã được ghi chép trong sáchCựu ước.
Người Á Đông dù là ở Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản
hay Việt Nam, chấp nhận tín ngưỡng đa thần giáo một cách tự nhiên, thông
thoáng, có thể vì vậy mà họ cũng không có tư tưởng kỳ thị tôn giáo. Tôn
giáo nào cũng cung cấp một câu trả lời mà tín đồ tin là thỏa đáng đối
với ý nghĩa của nhân sinh, của cuộc sống. Niềm tin của tín đồ có thể
nông hay sâu, liên tục hay ngắt quãng, nhưng niềm tin đó phải có, thì
mới có tôn giáo, bởi lẽ niềm tin tôn giáo là động lực khiến tín đồ sống
cả đời theo niềm tin đó. Điều đặc sắc của đạo Phật là sự kết hợp niềm tin với lý trí hay trí tuệ,
hiểu biết càng sâu thì niềm tin tôn giáo càng vững. Còn tổ chức của
giáo hội có chặt chẽ hay lõng lẻo, cũng không thành vấn đề. Thậm chí, có
những tín đồ của Phật giáo, Thiên Chúa giáo hay một tôn giáo nào khác,
rất có thể không đi chùa, không đến nhà thờ, không chấp hành những nghi
lễ nào đó do giáo hội quy định, nhưng họ vẫn là tín đồ tôn giáo theo
đúng đòi hỏi lương tâm họ.
Đức Phật thường dạy học trò mình rằng: “Không nên
chấp nhận những lời dạy của Ta do lòng kính trọng, mà trước hết hãy
kiểm nghiệm những lời dạy đó, như dùng lửa thử vàng vậy”. Phật dạy: “Một
điều là đúng hay sai, không phải là quyền uy và thần khải”. Phật ví
những tín đồ như một đoàn người mù, dẫn dắt nhau đi, người đi đầu không
thấy gì hết, người đi cuòi cũng không thấy gì hết. Phật cho rằng chấp
nhận chân lý và giác ngộ chân lý là hai chuyện khác nhau. Giác ngộ chân
lý như người nếm mật, còn chấp nhận chân lý là không hiểu, thì cũng
giống như người dùng thìa hứng mật, múc mật mà không nếm mật vậy.
Cũng như thế, đơn thuần chấp nhận chân lý do
quyền uy của người khác, dù người khác đó là bậc đạo sư, sẽ không có
được sự giác ngộ tâm -linh, dẫn tới giải thoát tối hậu. Tuân thủ một
truyền thống hay quyền uy, tự nó không có giá trị gì hết. Để được giác
ngộ, học hỏi là cần thiết, nhưng sự học hỏi đó cần được bổ sung bằng thực nghiệm cá nhân.
Tôn giáo luôn luôn là thực nghiệm qua cuộc sống như là vị thầy thuốc
tốt nhất, qua thân tâm của mình như là cuon sách quý nhất. Phật giáo là
như vậy.
CHÚ THÍCH:
1. Tylor, Edward B. 1871, Primitive Culture (Văn hóa nguyên thủy). London: John Murray; Đặng Nghiêm Vạn, 2001, Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc gia; Keyes, Charles F. 2006. “Dẫn luận: Sự thăng trầm của nghiên cứu nhân học về tôn giáo” trong Những vấn đề nhân học tôn giáo. Đào Thế Đức dịch; Nguyễn Văn Chính hiệu đính, Đà Nẵng, Hội KHLSVN, Nxb. Đà Nẵng, tr 7-27.
2. Phra Sripariyattimoli, 1999, The Buddha in the Eyes of Eminent Scholars(Đức Phật trong con mắt của các học giả uyên bác), Mahachu- lalongkorn BuddhistUniversity
3. Frederic Lenoir, 1999, Monde diplomatique, Novembre-Decembre.