I. Tổng quan lịch sử quan hệ quốc tế của Hàn Quốc:
1. Trước năm 1948.
Mặc dù lịch sử bán đảo Hàn có một bề dầy nhiều nghìn năm nhưng ảnh
hưởng của Hàn Quốc, trong tư cách là một quốc gia và là một bộ phận của
vùng lãnh thổ bán đảo Hàn, trên trường quốc tế mới chỉ bắt đầu trong
khoảng 1 vài thập kỷ lại đây.
Nếu nhìn lại lịch sử các mối quan hệ đối ngoại của Hàn Quốc trong tư
cách quốc gia thì nước này có mối quan hệ lâu đời với các nước láng
giềng như Trung Quốc và Nhật Bản, nhưng chỉ có quan hệ rời rạc với Ấn
Độ, Ba Tư và Nga.
Cho đến cuối thế kỷ 19, Hàn Quốc mới chính thức mở của thông với thế
giới bên ngoài. Hàng thế kỷ nay, Hàn Quốc vẫn giữ mối quan hệ gần gũi
với Trung Quốc và chịu ảnh hưởng rất lớn cả về văn hoá và chính trị của
Trung Quốc trong khi vẫn duy trì nền độc lập với những bản sắc riêng.
Khoảng 1/4 cuối thế kỷ 19, Nhật Bản bị Trung Quốc và Nga cản đường
khi 3 cường quốc này đấu tranh để giành quyền thống trị toàn bộ bán đảo
Hàn. Tuy nhiên, sự cân bằng quyền lực cuối cùng bị phá vỡ do chiến tranh
Nhật-Trung; Nhật - Nga gây ra đã cho phép Nhật xâm lược Hàn Quốc năm
1910 và tước đi nền độc lập của Joseon lần đầu. Nhật Bản đã kéo dài việc
cai trị thuộc địa đến năm 1945 khi bán đảo Hàn được giải phóng bởi
quân đồng minh trong chiến tranh thế giới thứ II. Việc giải phóng khỏi
sự đô hộ thuộc địa của Nhật cũng đã dẫn tới sự chia cắt bán đảo Hàn lấy
vĩ tuyến 38 làm ranh giới cho hai quốc gia: Cộng Hoà Dân chủ Nhân dân
Triều Tiên và Đại Hàn Dân Quốc hay gọi tắt là Hàn Quốc theo Hiệp định
thời chiến giữa Mỹ và Liên Xô.
Đại Hàn Dân Quốc ra đời năm 1948, quan hệ Hàn Quốc với thế giới được
mở rộng trên mọi lĩnh vực, đặc biệt, sau hơn 3 thập kỷ (1960-1990) Hàn
Quốc tạo ra kỳ tích Sông Hàn về tăng trưởng kinh tế, giống như Nhật Bản
trong câu chuyện Thần kỳ Nhật Bản (1955-1972).
2. Từ 1948 đến nay:
a. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh:
Từ khi được thành lập 15/8/1948 với cái tên Đại Hàn Dân Quốc, chính
phủ nước này đã cam kết đi theo các quan niệm dân chủ và theo đuổi một
nền kinh tế thị trường tự do kiểu Phương Tây. Nhưng đối với lĩnh vực đối
ngoại, các quan hệ quốc tế của chính phủ Hàn Quốc đã trải qua nhưng
thay đổi rất lớn kể từ khi nước này ra đời.
Khi thế giới còn đang tồn tại sự đối đầu Đông-Tây với biểu hiện quyền
lực chính trị và quân sự tập trung xoay quanh hai cực siêu cường là Mỹ
và Liên Xô thì các quan hệ quốc tế trên thế giới chịu ảnh hưởng của tình
trạnh chiến tranh Lạnh kéo dài bắt đầu từ sau khi kết thúc chiến tranh
thế giới lần thứ II. Quan hệ đối ngoại của Hàn Quốc lúc này là ngả theo
các nước Phương Tây, những người luôn cổ vũ cho một nền dân chủ mà Hàn
Quốc đang theo đuổi. Bởi vậy, mối quan hệ ngoại giao của Hàn Quốc trước
hết được thiết lập với Mỹ và đồng minh do sự hỗ trợ lớn nhất của Mỹ về
chính trị, quân sự và kinh tế cho nước này trong buổi đầu thành lập.
Những năm kéo dài của cuộc chiến tranh Hàn (1950-1953), Hàn Quốc dưới
con mắt của cộng đồng quốc tế được xem như là một quốc gia bị tàn phá
ghê gớm bở chiến tranh và nghèo đói. Nhưng hình ảnh đó đẵ bắt đầy thay
đổi vào năm 1962 khi mà Hàn Quốc áp dụng chính sách phát triển kinh tế
hướng theo xuất khẩu và đã bắt đầu theo đuổi một cách tích cực các hoạt
động thương mại quốc tế trên toàn cầu. Bên cạnh đó, sự đối đầu Đông -Tây
được định hình trong suốt thời kỳ chiến tranh Lạnh, với tư cách là một
thành viên của khối liên minh phương Tây, Hàn Quốc một mặt tiếp tục mở
rộng liên kết chặt chẽ các quan hệ đối ngoại của mình với các đồng minh
truyền thống trong liên minh phương Tây, song cũng bắt đầu xây dựng các
quan hệ hợp tác với các nước thuộc thế giới thứ 3. Từ những năm 1970,
chính sách ngoại giao của Hàn Quốc được xây dựng để thúc đẩy sự độc lập
và tái thống nhất hoà bình trên bán đảo Hàn đồng thời Hàn Quốc tiếp tục
cũng cố các mối liên kết của mình với các nước đồng minh phương Tây và
tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế.
b. Kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh
Với nền tảng ngoại giao được xác lập như trên, trong suốt thập kỷ 80
của thế kỷ 20, Hàn Quốc đã tiếp tục theo đuổi các mối quan hệ đối tác có
tính hợp tác với tất cả các quốc gia trên thế giới trong mọi lĩnh vực.
Tuy nhiên, bắt đầu từ cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990,
những sự thay đổi ở Đông Âu và Liên Xô cũ đã đặt một dấu chấm hết cho
thời kỳ chiến tranh Lạnh. Do đó, Hàn Quốc cũng đã có sự chuyển hướng
trong chính sách đối ngoại của mình bằng việc tích cực thúc đẩy chính
sách ngoại giao phương Bắc.
Sự theo đuổi một cách đầy quyết tâm trong chính sách ngoại giao
phương Bắc của Hàn Quốc đã góp phần đề cao sự kết gắn của nó với các
nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Những mối quan hệ như thế này trước kia
bị ngăn cản bởi những khác biệt mang tính chất hệ tư tưởng và hệ thống
kinh tế. Các mối quan hệ với phần lớn các nước như vậy, bao gồm cả Liên
Xô cũ và Trung Quốc đã được bình thường hoá trong một trình tự ngắn
ngủi, bởi vậy, nó đã có thể khiến các quan hệ đối ngoại của Hàn Quốc đã
trở nên mang tính toàn cầu. Sự kiện cả hai quốc gia Hàn Quốc và Triều
Tiên đều gia nhập Tổ chức Liên hợp quốc đồng thời vào tháng 9 năm 1991
đã chứng tỏ sự thành công của chính sách ngoại giao phướng Bắc.
Hơn thế nữa, cơ sở cho sự cùng tồn tại hoà bình của hai miền Nam và
Bắc đã được xây dựng vào tháng 12 năm 1991. Nội dung của nó bao gồm cả
một Hiệp định về hoà giải, không xâm lược và trao đổi và hợp tác (được
gọi là Hiệp định cơ bản Bắc-Nam) và thông qua một tuyên bố chung về việc
phi hạt nhân trên bán đảo Hàn.
Những văn kiện có tính lịch sử như thế đã gieo các hạt giống của "cây
hoà bình" trên bán đảo Hàn và ở vùng Đông Bắc Á. Đồng thời nó cũng cho
thấy đó là một bước quan trọng hướng tới sự tái thống nhất trong hoà
bình của một quốc gia đang bị chia cắt.
c. Phương châm chính sách ngoại giao cơ bản của Hàn Quốc với thế giới bên ngoài
Tiếp tục tập trung đóng góp cho thế giới và mở rộng vai trò của mình
trên trường quốc tế, Hàn Quốc vẫn giữ mối quan hệ với tất cả các nước và
hoạt động tích cực để cải thiện các mối quan hệ này. Theo số liệu thống
kê tạm thời tính từ năm 1948 đến tháng 3/2002, Hàn Quốc đã xây dựng và
thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 nước, có 91 sứ quán, 29 toà lãnh
sự, 4 văn phòng đại diện và tham gia 95 tổ chức quốc tế.
Nhìn lại trong suốt những năm 1990, Hàn Quốc đã kiên trì đi theo
đường lối chính sách ngoại giao nhằm đảm bảo sự ủng hộ của thế giới đối
với hoà bình và ổn định ở Đông Bắc Á, từ đó đặt nền móng cho sự thống
nhất trên bán đảo Hàn. Kể từ đó, Hàn Quốc cũng tích cực thực hiện chính
sách ngoại giao kinh tế sao cho Hàn Quốc có thể gia nhập hàng ngũ các
nước tiên tiến, có một vai trò to lớn xứng đáng với vị trí quốc tế tăng
lên của mình. Kể từ tháng 9 năm 1991, Hàn Quốc chính thức trở thành
thành viên của tổ chức Liên hợp quốc. Đánh giá trong quãng thời gian
phát triển hơn 10 năm, tính từ năm 1991 đến thời điểm tháng 5 năm 2002,
Hàn Quốc đã là thành viên của 38 cơ quan, tổ chức quốc tế thuộc LHQ. Đó
là một thành công rất lớn trong hoạt động ngoại giao của Hàn Quốc với tổ
chức quốc tế mang tính đa phương lớn nhất và có quyền lực nhất hành
tinh.
Hiện nay, trong nhiệm kỳ Tổng thư ký Liên hợp quốc đương nhiệm
(2008-2012) ông Ban ki Moon là người của Hàn Quốc đang giữ trọng trách
đó. Đây là một vinh dự rất lớn về ngoại giao cho Đại Hàn Dân Quốc.
II. Những đặc điểm chính trong một số quan hệ song phương điển hình
1. Quan hệ Hàn Quốc - Hoa Kỳ (Mỹ).
- Từ liên minh chính trị- quân sự tới một liên minh an ninh toàn diện
Hàn Quốc và Hoa kỳ đều là hai quốc gia chia sẻ các giá trị tự do theo
quan điểm phương Tây và theo đuổi một nền kinh tế thị trường. Trải qua
hơn 5 thập kỷ, Hàn Quốc và Hoa Kỳ đã duy trì một mối liên kết đồng minh
chặt chẽ để đảm bảo một cách có hiệu quả hoà bình và ổn định ở bán đảo
Hàn và cũng như ở khu vực Đông Bắc Á. Hàn Quốc và Hoa kỳ đã có một loạt
các thoả thuận mang tính chính trị, pháp lý và thể chế để thiết lập một
sự hợp tác an ninh chống lại những thách thức từ phía Triều Tiên. Hơn
thế nữa, liên minh an ninh Hàn Quốc- Hoa kỳ được mở rộng trên phạm vi
địa lý và chức năng để phản ứng một cách nhanh nhất với những tình huống
có thể xẩy ra ở bán đảo Hàn và khu vực Đông Bắc Á. Do vậy, mặc dù chiến
trạnh lạnh đã kết thúc vào đầu những năm 1990, nhưng sự có mặt quân sự
của Hoa Kỳ ở Hàn Quốc là rất lớn, số quân nhân Mỹ đồn trú là 36.400
quân (vào năm1992). Từ đó đến nay, số quân Mỹ tại Hàn Quốc tuy có giảm
xuống nhưng vẫn là một số lượng đáng kể.
- Quan hệ kinh tế: Hàn Quốc và Mỹ là những đối tác gần gũi không chỉ
trên khía cạnh chính trị, quân sự mà cả trên lĩnh vực kinh tế như là
thương mại, khoa học kỹ thuật và đầu tư. Với tư cách là một nguồn cung
cấp quan trọng về vốn nước ngoài và công nghệ tiên tiến, Hoa Kỳ đã đóng
góp một cách đáng kể hướng tới sự tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc trong
suốt giai đoạn 1962-1979, khi nền kinh tế Hàn Quốc được phát triển một
cách nhanh chóng. Mối quan hệ chặt chẽ về kinh tế giữa Hàn Quốc và Hoa
kỳ được khẳng định trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính của Hàn Quốc
kết thúc vào cuối năm 1997 khi Hoa Kỳ đóng vai trò quyết định trong viêc
tổ chức sự trợ giúp khẩn cấp cho Hàn Quốc.
Tổng kim ngạch mậu dịch hai chiều giữa Hàn Quốc và Hoa kỳ đạt con số
60 tỷ USD vào năm 2001. Hoa kỳ vẫn là bạn hàng lớn nhất của Hàn Quốc và
chiếm tới 20% tổng xuất khẩu của Hàn Quốc. Mặc dầu là các bạn hàng quan
trọng của nhau và ngày càng tỏ rõ sự phụ thuộc lẫn nhau. Song cũng luôn
xuất hiện cách tranh chấp và mâu thuẫn thương mại giữa hai nước
- Hợp tác trao đổi văn hoá: Hàn Quốc không chỉ duy trì các quan hệ
hợp tác về kinh tế, chính trị và quân sự mà còn có các hoạt động trao
đổi trên lĩnh vực văn hoá cũng như xã hội thông qua các cấp khác nhau từ
chính phủ tới các hội, cộng đồng cư dân Hàn - Mỹ ở cả trên đất Hàn
Quốc và Hoa Kỳ.
2. Quan hệ Hàn Quốc - Nhật Bản:
- Quan hệ chính trị: Hàn Quốc và Nhật Bản là hai quốc gia láng giềng
cách nhau bởi eo biển Korea. Hai nước đã có các mối liên kết mang tính
văn hoá gần gũi và đã chia sẻ các hoạt động giao lưu văn hoá từ thời cổ
xưa. Tuy nhiên, trong thế kỷ trước (20) hai nước đã trải qua một thời kỳ
bất hạnh của lịch sử khi Hàn trở thành một bộ phận thuộc địa của Nhật
Bản (1910-1945)
Vào năm 1965, các quan hệ ngoại giao giữa hai nước lần đầu tiên được
thiết lập lại (kể từ ngày Hàn Quốc tuyên bố độc lập 1948). Hai quốc gia
có thể đã lấy lại được các thuận lợi bởi sự gần gũi về địa lý và tương
đồng văn hoá, và từ đó đã theo đuổi một cách tích cực các quan hệ chính
trị cho mục đích phát triển và các quan hệ hữu nghị giữa hai nhà nước và
nhân dân Hàn Quốc và Nhật Bản. Hàng loạt các cuộc viếng thăm lẫn nhau
của các nhà lãnh đạo cấp cao của Hàn Quốc và Nhật Bản đã được thực hiện.
Mở đầu chuyến thăm Hàn Quốc của cựu thủ tướng Nhật Bản, Nakasone, vào
1/1984 và chuyến thăm Nhật Bản của cựu Tổng thống Hàn Quốc,Chung Đô
Hoan, 9/1984 đã thúc đẩy bầu không khí chính trị hữu nghị giữa hai nước.
Tuy nhiên, vẫn còn có những hạn chế để cải thiện hơn nữa mối quan hệ
hữu nghị hai nước do còn có những bất đồng về các vấn đề lịch sử để lại
từ thời kỳ chiến tranh, ví dụ như vấn đề sách giáo khoa, vấn đề tranh
chấp chủ quyền hòn đảo Dokdo hay Takeshima.
Tuy nhiên, sự hợp tác chính trị của Hàn Quốc với Nhật Bản không chỉ
giới hạn trong những vấn đề song phương mà còn mở rộng tới các vấn đề
chung của khu vực, liên quan tới sự ổn định và thịnh vượng của Đông Bắc
Á, cũng như các vấn đề toàn cầu. Các bộ trưởng ngoại giao hai nước đã tổ
chức một cách thường niên các cuộc trao đổi, tư vấn các vấn đề liên
quan của hai nước. Các quan chức ngoại giao khác theo hình thức từ 4 đến
5 lần trong một năm. Hơn thế nữa, có rất nhiều kênh trao đổi khác nhau
để hai nước có thể giải quyết các vấn đề này sinh có khả năng làm phương
hại tới mối quan hệ chính trị giữa hai nước.
Hàn Quốc và Nhật Bản có một điểm chung trong liên minh chính trị và
quân sự với Hoa kỳ, cùng chia sẻ quan niệm giá trị tự do kiểu phương Tây
của kinh tế thị trường. Đây được coi là nền tảng của quan hệ chính trị
giữa hai nước.
- Quan hệ kinh tế và văn hoá: Vì có sự thuận lợi về địa lý và tương
đồng văn hoá nên quan hệ kinh tế và văn hoá giữa Hàn Quốc được phát
triển nhanh. Mỗi năm có khoảng trên 3 triệu du khách Hàn Quốc và Nhật
Bản tới thâm lẫn nhau. Kim ngạch buôn bán hai chiều đạt con số 53 tỷ
USD/năm (số liệu năm 2001). Hai nước ngày càng gia tăng sự phụ thuộc lẫn
nhau trong phát triển kinh tế, đặc biệt qua hoạt động thúc đẩy trao đổi
thương mại và đầu tư cũng như các lĩnh vực kinh tế khác.. Nhật Bản là
bạn hàng lớn thứ hai của Hàn Quốc. Hai nước đang xem xét một cách nghiêm
túc việc tiến tới hình thành một khu vực thương mại tự do (FTA) Hàn
Quốc- Nhật Bản. Hai nước vừa là đối tác kinh tế quan trọng của nhau và
cũng vừa là các đối thủ cạnh tranh lẫn nhau.
Về hợp tác văn hoá với nét nổi bật là Hàn Quốc và Hàn Quốc cùng tổ
chức thành công vòng chung kết giải bóng đá thế giới 2002 được xem là
bằng chứng củng cố cho sự hợp tác hữu nghị giữa nhân dân hai nứoc. Hàn
Quốc và Nhật Bản đồng ý rằng mở rộng hơn nữa các kênh giao lưu văn hoá
nhằm để có được một sự hiểu biết tốt hơn và cố gắng thu hẹp các khoảng
cách do các vấn đề lịch sử để lại trong ý tưởng của nhân dân mỗi nước.
3. Quan hệ Hàn Quốc- EU:
- Hàn Quốc đã có các mối quan hệ chính trị truyền thống với các nước
phương Tây, được xây dựng trên nền tảng các giá trị tự do phương Tây và
kinh tế thị trường. Các mối liên kết giữa Hàn Quốc và Cộng đồng Châu âu
có một lịch sử lâu dài. Anh, Pháp và nhiều nước ở Tây âu khác đã ngầm
ủng hộ Hàn Quốc trong thời kỳ chiến tranh Hàn dưới ngọn cờ của Liên hợp
quốc. Và mỗi nước có một cách thức khác nhau giúp đỡ Hàn Quốc trong thời
kỳ khôi phục kinh tế sau chiến tranh.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, Hàn Quốc và các nước Tây âu hoạt
động cùng nhau trong việc làm giảm sự căng thẳng của đối đầu Đông-Tây,
nhưng tham gia vào Liên minh của Hoa Kỳ. Quan hệ của Hàn Quốc với Châu
âu trong suốt thời kỳ này là được tập trung chủ yếu vào sự phát triển và
hợp tác kinh tế, trao đổi thương mại.
Ngày nay, Hợp tác giữa Hàn Quốc và EU đã được mở rộng và nhấn mạnh
trong tất cả các lĩnh vực, không chỉ đơn thuần trong các quan hệ mậu
dịch, công nghệ mà còn lan rộng sang các quan hệ chính trị và văn hoá
Năm 1996, Hàn Quốc và EU đã ký một hiệp định khung về hợp tác kinh tế
và chính trị. EU cũng đã cam kết dành sự ủng hộ chính trị và tài chính
cho tổ chức phát triển năng lượng bán đảo Hàn (KEDO, 1999) để góp phần
giải quyết vấn đề hạt nhân ở bán đảo Hàn cũng như các hoạt động cứu trợ
nhân đạo khác cho Triều Tiên.
- Về kinh tế, EU đã trở thành bạn hàng lớn thứ ba của Hàn Quốc. Kim
ngạch mậu dịch hai chiều Hàn Quốc và EU năm 2001 đạt 34,5 tỷ USD, chiếm
11,8% tổng kim ngạch ngoại thương của Hàn Quốc. Thăng dư thương mại của
Hàn Quốc đạt 4,7 tỷ USD năm 2001. Các quan hệ kinh tế trong lĩnh vực
thương mại và đầu tư tiếp tục mở rộng. Tuy nhiên, EU đang kêu gọi Hàn
Quốc mở rộng hơn nữa thị trường nội địa của mình. Chính phủ Hàn Quốc
đang cố gắng cam kết có các biện pháp để làm giảm thiểu các xung đột
kinh tế xẩy ra có thể làm xấu đi các quan hệ này. Ví dụ đang nghiên cứu
vấn đề mở rộng thị trường nông sản, trợ giá,...
4. Quan hệ Hàn Quốc-Trung Quốc:
- Trong thời kỳ chiến tranh lạnh Hàn Quốc không có bất kỳ một quan hệ
nào vơí Trung Quốc vì sự khác biệt ý thức hệ và vấn đề ủng hộ Triều
Tiên. Tuy nhiên, khi nền kinh tế của Hàn Quốc lớn mạnh lên, Trung Quốc
đã nhìn thấy những lợi thế về các mối liên kết kinh tế với Hàn Quốc và
đã đi tới gạt bỏ quan điểm ý thức hệ về vấn đề bán đảo Hàn. Từ đó, Hàn
Quốc đã có quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào năm 1992, sau 2 năm khi
Hàn Quốc chính thức có quan hệ ngoại giao với Nga. Cả hai nước Trung
Quốc và Liên xô (cũ) đã rút quyền phủ quyết để Hàn Quốc chính thức gia
nhập Liên hợp quốc vào năm 1991.
Ngày nay, Hàn Quốc và Trung Quốc chia sẻ quan điểm rằng hoà bình và
sự ổn định trên bán đảo Hàn là sự sống còn cho việc hiện thực hoá nền
hoà bình và ổn định ở khu vực Đông Bắc Á. Trung Quốc đã phản đối chương
trình hạt nhân của Triều Tiên và đóng một vai trò quan trọng trong tiến
trình tìm kiếm giải pháp cho cuộc khủng hoảng ở bán đảo Hàn hiện nay.
- Kể từ khi đạt được các quan hệ ngoại giao đầy đủ với Trung Quốc vào
năm 1992, các quan hệ kinh tế và mậu dịch giữa hai nước đã được phát
triển nhanh. Sau 8 năm, từ 1992 với kim ngạch chính thức hầu như là con
số 0 thì đến năm 2000, quan hệ mậu dịch 2 chiều đạt 31,3 tỷ USD. Trung
Quốc là bạn hàng song phương lớn thứ 3 của Hàn Quốc sau Mỹ và Nhật Bản.
Các quan hệ đầu tư tiếp tục được tăng cường ở các lĩnh vực khác nhau cả ở
Hàn Quốc và Trung Quốc. Trên cơ sở của sự gia tăng các quan hệ kinh tế
giữa Hàn Quốc và Trung Quốc, hai nước cũng có những tiến bộ đáng kể
trong các lĩnh vực khác của các quan hệ song phương bao gồm các vấn đề
chính trị, ngoại giao, văn hoá và trao đổi học thuật.
5. Quan hệ Hàn Quốc - Nga:
- Giống như Trung Quốc, trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, Hàn Quốc
không có bất kỳ một mối quan hệngoại giao nào với Liên Xô (cũ) vì các
trở ngại của ý thức hệ và vấn đề ủng hộ Triều Tiên.
Tuy nhiên, Hàn Quốc và Nga nhanh chóng có quan hệ ngoại giao khi có
những thay đổi ở Liên Xô và trên thế giới trong những năm cuối của thập
kỷ 1980. Sự bình thường hoá về mặt ngoại giao giữa Hàn Quốc và Liên xô
(cũ) vào năm 1990 là kết quả của chính sách "ngoại giao phương bắc" của
Seoul và kết quả của chính sách ngoại giao có những "suy nghĩ mới" của
Nga đối với Hàn Quốc trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh.
Kể từ đó, xuất phát từ các lợi ích quốc gia của mỗi nước cả ở trên
khía cạnh chính trị và kinh tế, Hàn Quốc và Nga đã tiến tới gần nhau
hơn. Việc Putin được bầu làm Tổng thống nước Nga và cuộc gặp gỡ Hàn Quốc
- Triều Tiên tháng 6/2000 đã mang lại một cơ hội cho quan hệ chính trị
hai nước Hàn Quốc và Nga được phát triển hơn nữa.
Ngày nay, Hàn Quốc và Nga đều chia sẻ quan điểm về nhiều vấn đề quốc
tế và khu vực, đặc biệt vai trò của cả Nga và Hàn Quốc trong việc giải
quyết vấn đề hoà bình và ổn định trên bán đảo Hàn và khu vực Đông Bắc Á.
Nga cũng bày tỏ mối quan tâm và ủng hộ sự đốí thoại của hai miền Korea,
về tương lai thống nhất trên bán đảo Hàn, thể hiện quan điểm một bán
đảo phi hạt nhân.
- Về kinh tế: Kể từ khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao, hai nước
cũng đồng ý thúc đẩy tiến hành các dự án kinh tế bao gồm cả việc thực
hiện thông tuyến đường sắt đi qua Triều Tiên. Các chương trình hợp tác
kinh tế Hàn Quốc và Nga được thực hiện trên các lĩnh vực khai thác tài
nguyên thiên nhiên, nghề cá,vận tải, thông tin và công nghệ thông tin.
Tổng kim ngạch hai chiều từ 900 triệu USD năm 1990 đạt 3,8 tỷ USD năm
1996. Mặc dù năm 1997 xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính ở Hàn Quốc, mậu
dịch hai chiều có sụt giảm đáng kể, song đến năm 2000 nó đã được khôi
phục trở lại với kim ngạch hai chiều đạt trên 5 tỷ USD. Các công ty Hàn
Quốc cũng đang có mặt trong hoạt động FDI ở Nga từ nhiều năm nay và nhận
được sự cổ vũ của cả hai phía.
III. Hàn Quốc với Liên Hợp Quốc
Gia nhập Liên hợp quốc vào tháng 9 năm 1991, Hàn Quốc mở rộng sự
đóng góp và tham gia tích cực của mình trong các nỗ lực quan hệ ngoại
giao đa phương trong các diễn đàn của Liên hợp quốc.
Tháng 9/2001, TS. Han Seung-Soo, khi đó là Bộ trưởng Bộ ngoại giao và
ngoại thương Hàn Quốc đã được lựa chọn bởi sự tín nhiệm với tư cách là
Chủ tịch phiên họp lần thứ 56 của Đại hội đồng Liên hợp quốc.
Tuy nhiên, thậm trí trước khi gia nhập Liên hợp quốc, Hàn Quốc được
cho là một đối tượng hoạt động tích cực trong các cơ quan chuyên môn của
Liên hợp quốc như là Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng tái thiết và
phát triển quốc tế (IBRD), Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp
quốc (UNIDO) và Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên hợp quốc
(UNESCO), cũng như là Hiệp định chung về mậu dịch và thuế quan (GATT) và
một số những cơ quan liên chính phủ quan trọng khác.
Hàn Quốc cũng đã giúp xây dựng và cho ra mắt Chương trình các đại sứ
thiện chí được thực hiện trong chương trình kiểm soát ma tuý quốc tế do
tổ chức liên hợp quốc chấp nhận như là một phần của các hoạt động vì một
thập kỷ chống lại sự lạm dụng ma tuý của UN. Hàn Quốc cũng đã giữ vai
trò chủ nhà phiên họp lần thứ 18 của cuộc gặp gỡ những người đứng đầu
các cơ quan phòng chống ma tuy quốc gia ở Châu á và Thái Bình Dương, tổ
chức ở Seoul vào tháng 9 năm 1993.
Với tư cách là thành viên của tổ chức liên hợp quốc, Hàn Quốc đã từng
bước củng cố các nỗ lực để mở rộng vai trò trên phạm vi quốc tế của
mình. Vào năm 1992, Hàn Quốc đã trở thành một thành viên trong một số cơ
quan quan trọng của LHQ như là Uỷ ban ngăn ngừa tội phạm và xét tử tội
phạm, Hội đồng điều hành chương trình phát triển của LHQ (UNDP), Uỷ ban
nhân quyền, và Uỷ ban chương trình và điều phối LHQ. Tại phiên họp lần
thứ 47 của đại hội đồng LHQ vào tháng 10 năm 1992, Hàn Quốc được bầu vào
Hội đồng Kinh tế và xã hội của LHQ. Đây là một trong những cơ quan quan
trọng của tổ chức LHQ cùng tồn tại giống như Hội đồng an ninh và đại
hội đồng.
- Sự đóng góp tài chính của Hàn Quốc cho ngân sách thường xuyên của
LHQ lên tới 21 triệu USD vào năm 2002, đứng hàng thứ 10 trong số tất cả
các thành viên của LHQ.
Tại phiên họp tháng 1 năm 1993 của Hội đồng Kinh tế-xã hội (ECOSOC),
Hàn Quốc đã được bầu là phó chủ tịch, và sau đó cũng trở thành chủ tịch
uỷ ban ECOSOC. Hàn Quốc cũng được bầu vào Tiểu ban phát triển bền vững,
một cơ quan mới được thành lập bên trong Uỷ ban ECOSOC vào tháng 2 năm
1993 để điều phối và giám sát các hoạt động trong các lĩnh vực môi
trường và phát triển.
Suốt hàng thập kỷ với tư cách là thành viên của LHQ, Hàn Quốc đã tham
gia một cách tích cực vào những vấn đề lớn do Liên hợp quốc xử lý như
là sứ mệnh gìn giữ hoà bình và ngăn chặn các xung đột, các cuộc đối
thoại giải trừ quân bị, bảo vệ môi trường, các dự án phát triển và bảo
vệ nhân quyền. Đặc biệt, với vai trò của mình như là một thành viên
không thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ trong suốt giai đoạn 1996-1997
đã cung cấp cho Hàn Quốc những kinh nghiệm quý báu trong hành trang
hoạt động ngoại giao trên trường quốc tế. Trong nhiệm kỳ đó, Hàn Quốc đã
có nhứng đóng góp mang tính xây dựng trong các cuộc thảo luận để giải
quyết những xung đột lớn mang tính khu vực bằng việc làm sáng tỏ các vấn
đề thuộc về "những người tị nạn chính trị".
- Với tư cách là một thành viên yêu chuộng hoà bình của LHQ, Hàn Quốc
đã cam kết duy trì an ninh và hoà bình thế giới, và do đó Hàn Quốc đã
và đang tích cực tham gia trong các hoạt động gìn giữ hoà bình của LHQ.
Hàn Quốc đã phái 250 nhân viên kỹ thuật tới Somali vào năm 1993 theo
nghị quyết UNOSOM II của LHQ. Sau đó, đã phái một đơn vị 42 nhân viên y
tế tới Tây Sahara theo nghị quyết MINUR-SO của LHQ vào năm 1994, và một
đơn vị kỹ thuật 198 người tới Angola theo nghị quyết UNAVEM III của LHQ
vào năm 1995.
Hàn Quốc đã tăng cường hơn nữa vai trò của mình trong các hoạt động
gìn giữ hoà bình của LHQ bằng việc lần đầu tiên gửi 1 đơn vị quân đội
hơn 400 nhân viên quân sự tới Đông Ti Mo theo nghị quyết UNTAET thực
hiện gìn giữ trật tự an ninh tại đó. Hơn nữa, năm 2002, một quan chức
quân sự của Hàn Quốc được chỉ định làm Tư lệnh lực lượng gìn giữ hoà
bình tại đảo Síp theo nghị quyết UNFICYP.
- Trong việc tham gia vào các hoạt động quốc tế, Hàn Quốc thấy rằng
các nước đang phát triển thường phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm
trọng bởi vì họ thiếu kinh nghiệm trong việc soạn thảo các kế hoạch,
khát khao có các nguồn vồn đấu tư cần thiết và thiếu các chính sách kinh
tế căn bản cho sự tăng trưởng bền vững. Hàn Quốc tự đánh giá mình là đã
có đủ các kinh nghiệm đó trong phát triển và do đó có thể giới thiệu mô
hình phát triển của mình cho các quốc gia đang phát triển khác trên thế
giới học tập và tham khảo.
- Hàn Quốc đã thực sự bắt đầu trợ giúp phát triển cho các nước đang
phát triển từ những năm 1960. Khi đó, Hàn Quốc đã mời một số lượng nhỏ
tu nghiệp sinh nước ngoài đến đào tạo tại Hàn Quốc và đã phái một vài
chuyên gia ra nước ngoài. Sau năm 1975, khi nền kinh tế đã phát triển
tới một trình độ cao hơn, Hàn Quốc đã bắt đầu gia tăng sự trợ giúp của
mình trong nhiều hình thức khác nhau vì dụ như trợ giúp máy móc và vật
liệu, viện trợ kỹ thuật xây dựng, Quỹ hợp tác phát triển kinh tế (EDCF)
cho vay và trợ giúp nhân sự trực tiếp, đặc biệt thông qua chương trình
thanh niên tình nguyện.
- Hàn Quốc cũng cung cấp sự trợ giúp cho các nước đang phát triển
thông qua các tổ chức đa phương như là IMF, IBRD, ADB và gần 1 tá các tổ
chức tài chính quốc tế khác.
Tháng 4 năm 1991, Hàn Quốc mặc dù chuẩn bị được kết nạp là thành viên
của LHQ đã chủ động xây dựng cơ quan Hợp tác quốc tế của riêng mình gọi
là KOIKA đặt dưới sự điều phối của Bộ ngoại giao nhằm củng cố sự trợ
giúp của mình cho các nước đang phát triển. Cơ quan này cung cấp sự viện
trợ tài chính và kỹ thuật cho các nước đang phát triển và chia sẻ các
kinh nghiệm phát triển và chuyên gia của Hàn Quốc với họ.
KOIKA đã triển khai một loạt các chương trình hợp tác như là việc
phái các bác sỹ y khoa, các chuyên gia trong ngành công nghiệp, các
hướng dẫn viên Tăewondo và các nhân viên tình nguyện; việc mời tới đào
tạo tại Hàn Quốc và trợ giúp các tổ chức phi chính phủ. KOIKA đóng góp
vào sự đề cao hình ảnh của Hàn Quốc thông qua việc thiết lập các mối
quan hệ hợp tác với các nước đang phát triển. Tính đến năm 2001, Hàn
Quốc đã đóng góp số tiến là 264 triệu USD cho viện trợ phát triển chính
thức (ODA) tới các nước đang phát triển.
- Hàn Quốc đã cam kết theo đuổi sự giao lưu văn hoá với các nước để
đề cao sự hiểu biết và hữu nghị song phương và nhằm góp phần vào sự điều
chỉnh và hợp tác mang tính toàn cầu. Hàn Quốc cũng tìm kiếm việc giới
thiệu và quảng bá văn hoá và nghệ thuật truyền thống của mình ra nước
ngoài và hỗ trợ các chương trình nghiên cứu Hàn Quốc ở nước ngoài cũng
như là hàng loạt các hội thảo khoa học và các giao lưu thể thao. Quỹ Hàn
Quốc (Korea Foundation: KF) được thành lập năm 1991 là nhằm mục đích
như vậy. Nó là cơ quan điều phối và xây dựng các chương trình giao lưu
văn hoá và thể thao quốc tế.
IV. Hàn Quốc với khu vực Đông Bắc Á:
Quan điểm ngoại giao kinh tế nội vùng Đông Bắc Á của các nhà Lãnh đạo Hàn Quốc:
- Quan điểm của người Hàn Quốc cho rằng thời đại Đông Bắc Á đang tới
trong một khung cảnh của thời hậu chiến tranh lạnh, sự toàn cầu hoá, tri
thức và thông tin. Đông Bắc Á ngày nay đang đóng vai trò động lực cho
nền kinh tế thế giới như là vốn, công nghệ, sản xuất,.v.v.
- Bán đảo Hàn nằm ở giữa khu vực Đông Bắc Á hiện vẫn bị bế tắc theo
trật tự của kiểu chiến tranh lạnh. Cấu trúc xung đột mang tính lịch sử
giữa Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và Mỹ chưa hẳn nhìn thấy một sự chuyển
tiếp sang một "hệ thống nhìn về phía trước" vì hoà bình và hợp tác.
- Chính quyền của cựu Tổng thống Roh Moo Hyun trước đây và nay là
Tổng thống Lee Myung - bak (2009) đang tìm kiếm cách thức khởi xướng
việc dẫn dắt khu vực Đông Bắc Á tới một kỷ nguyên Hoà bình và thịnh
vượng. Điều căn bản cho Hàn Quốc là thiết lập một cấu trúc hoà bình trên
bán đảo Hàn và xây dựng Hàn Quốc như là trái tim của Đông Bắc Á.
Với lý do đề cập trên, chính sách chính quyền Lee Myung - bak tập
trung vào sự tìm kiếm vai trò biến Hàn Quốc trở thành trung tâm kinh tế
của vùng Đông Bắc Á bằng cách: (1)Theo đuổi sự hợp tác và trao đổi kinh
tế hai miền; (2) thiết lập một hệ thống hợp tác kinh tế Đông Bắc Á và
(3) xây dựng mạng lưới hạ tầng cho trung tâm kinh doanh và vận tải.
Chính phủ lên kế hoạch xây dựng một trung tâm vận tải khổng lồ ở Đông Bắc Á theo các bước sau:
1- Phát triển sân bay liên quốc gia Incheon như là một trung tâm hàng
không khổng lồ ở Đông Bắc Á; trong khi đó biến các cảng biển Gwangyang
và Busan thành các siêu cảng biển của khu vực.
2- Phát triển cảng hàng không quốc tế Incheon và cảng biển Incheon như là trung tâm vận tải của vùng Thủ đô Seoul.
3- Nối lại hai tuyến đường sắt và đường bộ hai miền và thiết lập mạng
lưới vận tải nối với tuyến đường sắt xuyên Siberia của Nga và tuyến
đướng vận tải sắt xuyên Trung Quốc.
4- Xây dựng và hoà mạng một mạng lưới thông tin vận tải thống nhất nối liền với các cảng hàng không và cảng biển vào năm 2015.
T.S Phạm Quý Long
Viện nghiên cứu Đông Bắc Á
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hàn Quốc đất nước con người; NXB Trung tâm thông tin hải ngoại Hàn Quốc, Seoul , 1993.
2. Fact About Korea; Korean Oversears Information Service; Seoul, 2003.
3. Nghĩa tình Việt Nam Hàn Quốc, NXB Văn hoá- Thông tin, Hà nội, 2002.
4. Dương Phú Hiệp-Ngô Xuân Bình: Hàn Quốc trước thềm thế kỷ XXI; NXB Thống kê, Hà nội, 1999.
5. Ngô Xuân Bình-Phạm Quý Long: Hàn Quốc trên đường phát triển; NXB Thống kê, Hà nội, 2000.
6. Byung-Nak Song; Kinh tế Hàn Quốc đang trỗi dậy; NXB Thống kê, Hà nội, 2002 (Phạm Quý Long và các đồng nghiệp dịch)