TCCS - Cách đây 35
năm, với cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, đỉnh cao là chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi oanh liệt đó đã tạo ra bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tổng kết cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, Đại hội IV của Đảng (1976) đã khẳng định: "Thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của
một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn
gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta"(1); mà "trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng"(2).
Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng ở hai
miền: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc, nhằm mục tiêu chung là hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Với đường lối đó, Đảng ta đã huy động được sức mạnh lớn nhất của cả
nước, sức mạnh của tiền tuyến lớn miền Nam và sức mạnh của hậu phương
lớn miền Bắc; kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh trong nước với sức mạnh ngoài nước, có được từ sự đoàn kết, ủng hộ,
giúp đỡ chí tình của nhân dân và bạn bè quốc tế, trước hết là của các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, đặc biệt là sự đoàn kết, sát cánh chiến
đấu chống kẻ thù chung của nhân dân ba nước: Việt Nam, Lào và
Cam-pu-chia... tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm
lược cùng bè lũ tay sai của chúng.
Thắng lợi vĩ đại đó đã
làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô nhất, dài ngày nhất và ác
liệt nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai; làm đảo lộn chiến lược
toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ và làm suy yếu hệ thống đế quốc
chủ nghĩa; đồng thời, góp phần tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa,
tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của ba dòng thác cách mạng trên thế
giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Đã 35 năm trôi qua, kể từ
ngày Đại thắng 30-4-1975, nhưng ký ức hào hùng và niềm tự hào về chiến
thắng oanh liệt đó vẫn vẹn nguyên trong mỗi chúng ta. Nó đang và sẽ mãi
là động lực tinh thần to lớn để chúng ta kiên định, vững bước trên con
đường mà Đảng, Bác Hồ kính yêu và nhân dân ta đã chọn: độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội; tiếp tục công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; ra sức phấn đấu vì
mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" mà Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã xác định.
Đại thắng mùa Xuân 1975
là chiến công chói lọi trong nửa cuối thế kỷ XX của quân và dân ta, dưới
sự lãnh đạo của Đảng; là tài sản vô giá của dân tộc, để lại cho chúng
ta những bài học quý báu trên nhiều phương diện. Bài học quyết định,
mang tính bao trùm, đó là đường lối lãnh đạo đúng đắn và tổ chức thực
hiện thắng lợi đường lối đó của Đảng ta; trong đó, trực tiếp là đường
lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Đường lối quân
sự của Đảng ta được hình thành trên cơ sở nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về chiến tranh cách
mạng, tổ chức và xây dựng quân đội cách mạng... kết hợp với truyền thống
quân sự của dân tộc, được vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện cụ
thể của cách mạng Việt Nam. Đường lối đó có sự kế thừa kinh nghiệm từ
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, được bổ sung, phát triển
và từng bước hoàn thiện trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Một
trong những biểu hiện tập trung nhất về mặt nội dung của đường lối quân
sự của Đảng, đó là: khoa học, nghệ thuật quân sự. Từ thực tiễn của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta có thể khẳng định rằng: nền
khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam, hay nói cụ thể hơn là nền khoa
học, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam đã không ngừng
phát triển, hết sức độc đáo, sáng tạo, đạt đến đỉnh cao trong cuộc Tổng
tiến công chiến lược mùa Xuân 1975. Điều đó thể hiện tập trung ở những
nội dung chủ yếu sau.
1 - Đánh giá đúng tình
hình, nắm vững thời cơ chiến lược và triệt để tận dụng thời cơ để mở
cuộc Tổng tiến công chiến lược, kết thúc chiến tranh trong thời gian
ngắn, có lợi nhất
Đây là thành công nổi bật
của Đảng ta về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược trong chiến tranh giải
phóng và cũng là nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân
dân Việt Nam. Trải qua mấy chục năm chiến đấu chống giặc Mỹ xâm lược, ta
càng đánh càng mạnh, liên tiếp đánh bại các chiến lược chiến tranh,
những cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải ký Hiệp định
Pa-ri, rút quân Mỹ và quân các nước đồng minh ra khỏi miền Nam Việt
Nam. Với kết quả đó, chúng ta đã thực hiện quyết tâm chiến lược theo tư
tưởng của Bác Hồ kính yêu: "đánh cho Mỹ cút", để rồi tiến tới "đánh cho
ngụy nhào". Sự chuyển biến về chiến lược đó đã tạo ra bước ngoặt căn bản
về tương quan so sánh giữa lực lượng cách mạng và phản cách mạng, tạo
ra những thuận lợi mới đối với cách mạng Việt Nam. Đến cuối năm 1974,
trên cơ sở bám sát, đánh giá đúng tình hình thế giới, trong nước, nhất
là so sánh lực lượng ta - địch, điểm mạnh và điểm yếu chí mạng của chế
độ ngụy quyền Sài Gòn sau khi đế quốc Mỹ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam
và khả năng của ta..., Đảng ta nhận định: địch không thể đương đầu nổi
với lực lượng cách mạng đã mạnh hẳn lên cả về chính trị và quân sự; từ
đó, đi đến kết luận: nhân dân ta, dân tộc ta đang đứng trước thời cơ lịch sử để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Để thực hiện mục tiêu
chiến lược, Đảng ta cùng quân, dân cả nước đã hạ quyết tâm chiến lược,
mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy quy mô lớn trên toàn chiến trường miền
Nam, nhằm tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ ngụy quân với số lượng trên
một triệu tên, đập tan bộ máy ngụy quyền, giành chính quyền về tay nhân
dân. Để bảo đảm chắc thắng cho cuộc Tổng tiến công chiến lược, nhất là
trận quyết chiến chiến lược (chiến dịch Hồ Chí Minh) - đòn đánh quyết
định cuối cùng tại sào huyệt của địch, Đảng ta đã tính toán, cân nhắc và
chuẩn bị hết sức chu đáo; trong đó có việc hệ trọng là tính tới khả
năng Mỹ quay lại can thiệp với mức độ và hình thức khác nhau để có sự
chủ động đối phó, với quyết tâm cao nhất cả về tinh thần và lực lượng
bảo đảm đủ điều kiện giành thắng lợi, kết thúc toàn thắng cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. Nhìn lại toàn bộ cuộc Tổng tiến công chiến
lược mùa Xuân 1975 (diễn ra theo đúng chủ trương, kế hoạch dự kiến của
Bộ Chính trị), chúng ta thấy rõ: nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh cách
mạng và chỉ đạo chiến lược hết sức tài tình, sắc bén, táo bạo và đầy sức
sáng tạo của Đảng ta, cùng với nền khoa học, nghệ thuật quân sự của
chiến tranh nhân dân Việt Nam đặc sắc, phong phú, phát triển đến đỉnh
cao. Trong đó, thành công trước hết và nổi bật của Đảng ta là đánh giá
đúng tình hình, so sánh lực lượng giữa địch và ta, nắm vững thời cơ lịch
sử, hạ quyết tâm chiến lược chính xác.
2 - Phát huy cao nhất
sức mạnh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ các mặt đấu tranh; kết hợp tiến công
và nổi dậy, nổi dậy và tiến công để giành thắng lợi quyết định
Đại thắng mùa Xuân 1975
là kết cục tất yếu của cả quá trình chiến đấu anh dũng, bền bỉ của đồng
bào và chiến sĩ cả nước, trực tiếp là đồng bào và chiến sĩ miền Nam suốt
một phần năm thế kỷ, từ sau thắng lợi vĩ đại của cách mạng Tháng Tám và
kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng ta đã
động viên và phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân;
đó là: sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc vừa chiến đấu, xây dựng,
vừa chi viện đắc lực sức người, sức của cho miền Nam, kết hợp với sức
mạnh của đồng bào và chiến sĩ miền Nam trực tiếp trên tuyến đầu đánh Mỹ
và thắng Mỹ. Để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, Đảng ta đã kiên định và vận dụng sáng tạo quan điểm về con đường
cách mạng miền Nam phải là con đường cách mạng bạo lực, với hai lực
lượng cơ bản: lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; kết hợp đấu
tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; kết hợp
khởi nghĩa với chiến tranh cách mạng; đánh địch bằng ba mũi giáp công:
quân sự, chính trị, binh vận; trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông
thôn đồng bằng và thành thị; kết hợp chiến tranh du kích và chiến tranh
chính quy, thực hiện đánh địch trên mọi quy mô: đánh lớn, đánh vừa,
đánh nhỏ của lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương và dân quân du kích); thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu
diệt địch để giành quyền làm chủ. Quán triệt và nắm vững tư tưởng chiến
lược tiến công và phương châm chiến lược đánh lâu dài, nhưng đồng thời
biết tạo thời cơ, tranh thủ thời cơ mở những cuộc tiến công chiến lược
(1968, 1972) làm thay đổi cục diện chiến tranh có lợi cho ta, để cuối
cùng thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đánh bại hoàn toàn quân
địch, giành thắng lợi triệt để và trọn vẹn.
Cuộc Tổng tiến công chiến
lược mùa Xuân 1975 là đỉnh cao của sự kết hợp giữa tiến công và nổi
dậy, nổi dậy và tiến công để đánh bại và làm tan rã toàn bộ lực lượng
địch, kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn, có lợi nhất. Nó thể
hiện nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và tài thao lược quân sự sắc bén,
sáng tạo, táo bạo mà đúng đắn của Đảng ta. Sự kết hợp giữa tiến công
quân sự của bộ đội chủ lực và nổi dậy của quần chúng được thực hiện hết
sức chặt chẽ, hiệu quả, trong suốt cuộc Tổng tiến công chiến lược. Những
đòn tiến công quân sự của bộ đội chủ lực, bằng một loạt trận đánh hiệp
đồng binh chủng quy mô lớn, đánh thẳng vào các thành thị, trung tâm đầu
não, căn cứ quân sự lớn của địch, tiêu diệt, làm tan rã lực lượng lớn và
gây cho chúng hoang mang tột độ đã tạo điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy lực
lượng chính trị của quần chúng nổi dậy, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch ở
địa phương, cơ sở để giành quyền làm chủ. Tương tự như vậy, sự nổi dậy
mạnh mẽ của lực lượng quần chúng đông đảo trên nhiều địa bàn từ nông
thôn đến thành thị, với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt đã tạo
thuận lợi cho bộ đội chủ lực cả về thế, lực và điều kiện để nhanh chóng
đập tan sự kháng cự của địch; đồng thời, để tập trung lực lượng vào
những mục tiêu chủ yếu của cuộc Tổng tiến công.
Như vậy, có thể thấy
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, trong cuộc Tổng
tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 nói riêng, Đảng ta đã vận dụng rất
sáng tạo cả quy luật chiến tranh cách mạng và quy luật khởi nghĩa vũ
trang, để tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn nhất, vào thời điểm quyết định,
kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
3 - Kế thừa truyền
thống quân sự của dân tộc; nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, vận
dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân để giành thắng
lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để, kết thúc
toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại
Dân tộc ta có quyền tự
hào bởi truyền thống đánh giặc, giữ nước hào hùng, với tư tưởng và nghệ
thuật quân sự đặc sắc. Nhờ đó, trong suốt mấy ngàn năm lịch sử, cha ông
ta đã nhiều lần đánh bại các kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế - quân
sự hơn hẳn để giành và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Truyền thống quân sự dân
tộc với nét đặc sắc cấu thành bởi những nhân tố cơ bản: "mưu sâu, kế
hiểm, thế vững, lực mạnh" được Đảng ta kế thừa, vận dụng sáng tạo trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và phát triển từng bước
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt đạt đến đỉnh cao trong
cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975. Đó là nghệ thuật quân sự
của chiến tranh nhân dân Việt Nam hết sức độc đáo, sáng tạo. Nó được vận
dụng trong cuộc Tổng tiến công chiến lược với những nội dung chủ yếu
là: nghệ thuật lựa chọn hướng, mục tiêu tiến công đúng đắn, thời cơ tiến
công thích hợp; nghệ thuật tổ chức xây dựng lực lượng và cơ động, tập
trung lực lượng kịp thời; nghệ thuật xác định phương pháp tác chiến
(cách đánh), hình thức tác chiến phù hợp; nghệ thuật lợi dụng, khai thác
triệt để sai lầm của địch, hạn chế điểm mạnh, khoét sâu điểm yếu của
chúng; thực hành tiến công mãnh liệt, thần tốc, táo bạo, bất ngờ để tiêu
diệt từng bộ phận lớn quân địch, tiến tới tiêu diệt và làm tan rã toàn
bộ quân địch...
Trước hết, nói về nghệ thuật chọn hướng, mục tiêu và thời cơ tiến công.
Đây là những vấn đề hết sức quan trọng của nghệ thuật quân sự, nhất là
trong tác chiến chiến lược. Nếu lựa chọn hướng, mục tiêu, thời cơ tiến
công chính xác sẽ góp phần giành thắng lợi và ngược lại, nếu chọn không
đúng sẽ dẫn tới thất bại, vì thế không được phạm sai lầm, đặc biệt là
trong Tổng tiến công chiến lược. Sau khi hạ quyết tâm chiến lược, chúng
ta tiếp tục nghiên cứu rất kỹ về địch và thấy rằng: tuy lực lượng của
chúng còn lớn, nhưng chúng phải rải khắp trên toàn miền Nam để tổ chức
phòng thủ chiến lược, với đặc điểm bố trí lực lượng chỉ mạnh ở hai đầu.
Từ đó, ta đã chọn Tây Nguyên, là địa bàn chiến lược quan trọng để mở đầu
cuộc tiến công chiến lược. Thực tế cho thấy, sự lựa chọn đó hoàn toàn
chính xác và rất sáng tạo. Với việc ta giải phóng Tây Nguyên và tiếp đó
lần lượt giải phóng các tỉnh thuộc Quân khu II thì toàn bộ hệ thống
phòng thủ chiến lược của địch ở miền Nam bị chia cắt, tạo nên phản ứng
dây chuyền, làm rung chuyển toàn bộ bộ máy chiến tranh của địch. Ngay
khi chiến dịch Tây Nguyên chưa kết thúc, ta đã kịp thời mở các mũi tiến
công về Quân khu I lúc đó đã bị cô lập, nhằm vào mục tiêu quan trọng là
Huế và Đà Nẵng. Sau khi lực lượng địch ở Quân khuI, Quân khu II bị xóa
sổ, cùng với những hoạt động của quân và dân ta ở Quân khu III, Quân khu
IV của địch được đẩy mạnh, đã xuất hiện những nhân tố mới của cuộc
chiến tranh: địch bị tiêu diệt và tan rã hàng chục vạn quân; ta thì trên
đà thắng lợi, lực lượng dồi dào, thế trận vững... Tình hình đó đã chín
muồi để ta mở trận quyết chiến chiến lược (chiến dịch Hồ Chí Minh) tại
Sài Gòn - Gia Định - sào huyệt cuối cùng của địch.
Như vậy, có thể thấy, với
việc xác định hướng, mục tiêu tiến công đúng đắn, lựa chọn thời cơ tiến
công thích hợp, chúng ta đã quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công,
phương châm đánh địch trên cả ba vùng chiến lược phù hợp với hoàn cảnh
mới. Trong cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, ta tiếp tục
đánh địch ở cả rừng núi, đồng bằng và thành thị, trong đó, chọn hướng
rừng núi để mở đầu, sau đó phát triển xuống đồng bằng, nhưng hướng và
mục tiêu của các cuộc tiến công đều là thành thị và cuối cùng đánh chiếm
thủ đô của địch cũng là thành thị. Nét đặc sắc của việc chọn hướng, mục
tiêu và thời cơ tiến công được thể hiện ở cả phạm vi chiến lược, chiến
dịch và chiến thuật; trong đó, tựu trung, chúng ta đều nhằm vào những
nơi hiểm yếu của địch để đánh bại chúng. Đó thường là nơi địch yếu hoặc
tương đối yếu và cũng có thể là nơi địch tương đối mạnh hoặc mạnh, nhưng
có sơ hở hoặc tương đối sơ hở và ở đó ta có điều kiện triển khai lực
lượng, hình thành thế trận, phát huy được sức mạnh áp đảo, gây được bất
ngờ, bằng cách đánh hay để đánh gục chúng.
Về nghệ thuật tổ chức lực lượng và cơ động, tập trung lực lượng.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, để bảo đảm chắc
thắng, hoàn thành quyết tâm chiến lược đã xác định, chúng ta đã huy động
lực lượng, cơ sở vật chất, kỹ thuật rất lớn. Tất nhiên, để thực hiện
được điều này thì trước đó, Đảng ta đã chú trọng và dày công tổ chức xây
dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, đặc biệt là các binh đoàn chiến
lược với các thành phần binh chủng kỹ thuật hiện đại (xe tăng, thiết
giáp, pháo binh, phòng không...) có đủ khả năng tiến hành các chiến dịch
tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Đó là một thành công nổi bật
của Đảng ta về tổ chức xây dựng lực lượng chiến lược, trong bối cảnh
vừa chiến đấu vừa tổ chức xây dựng; nhờ đó, chúng ta không những duy trì
được sức mạnh chiến đấu trong suốt quá trình chiến tranh, mà còn chuẩn
bị được lực lượng đủ mạnh để đánh đòn quyết định, kết thúc chiến tranh
thắng lợi. Trong cuộc Tổng tiến công, ta có những binh đoàn chiến lược
tại chỗ, bố trí sẵn trên các hướng, các địa bàn chiến lược; đồng thời,
lại có những binh đoàn cơ động chiến lược, lực lượng dự bị chiến lược
lớn luôn sẵn sàng tham chiến và đối phó với các tình huống đột xuất, bất
trắc ngoài dự kiến. Việc tổ chức những binh đoàn chiến lược lớn gồm
nhiều binh chủng hợp thành, được bố trí tại chỗ và cơ động một cách hợp
lý đã bảo đảm cho ta luôn giành quyền chủ động về chiến lược và đủ khả
năng tiến hành các chiến dịch tiến công quy mô lớn đồng thời và kế tiếp,
giáng đòn quyết định, giành thắng lợi trong thời gian ngắn, có lợi
nhất. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã tập trung lực lượng
mạnh, có ưu thế hơn hẳn địch về các chỉ số so sánh: tổng quân số, xe
tăng, pháo binh,... với sức cơ động cao; nhờ đó, ta đã duy trì được sức
mạnh chiến đấu, tốc độ tiến công, hiệu suất chiến đấu cao, thực hiện tốt
phương châm: "thần tốc, táo bạo, bất ngờ" mà Tổng Tư lệnh Võ Nguyên
Giáp đã chỉ thị để đánh thắng hoàn toàn quân địch trong thời gian ngắn.
Những đòn tiến công mãnh liệt của bộ đội chủ lực, kết hợp chặt chẽ với
sự tiến công và nổi dậy mạnh mẽ của lực lượng vũ trang địa phương và
quần chúng trên các địa bàn, đã tạo nên sức mạnh vô cùng lớn để đánh bại
ngụy quân, đập tan ngụy quyền là nét độc đáo, đầy sức sáng tạo của
chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Về phương pháp tác chiến, hình thức tác chiến.
Trong cuộc Tổng tiến công chiến lược, cũng như trong từng chiến dịch,
ta đã quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, vận dụng phương pháp tác
chiến, hình thức tác chiến hết sức linh hoạt, táo bạo, sáng tạo, phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, nên đã đạt hiệu suất, hiệu quả
chiến đấu rất cao. Chúng ta đã phát triển lên một bước mới cách đánh
truyền thống của chiến tranh nhân dân: kết hợp tiến công và nổi dậy; kết
hợp, phối hợp tác chiến của lực lượng vũ trang ba thứ quân; kết hợp cả
đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ... Ta đã mở những chiến dịch tiến công
hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, quan hệ chặt chẽ với nhau, theo ý định
chiến lược thống nhất: thực hiện chia cắt, bao vây, phá vỡ hệ thống
phòng thủ chiến lược của địch, tiêu diệt và làm tan rã bộ phận lớn quân
địch, kết hợp với tiến công rộng khắp ở quy mô vừa và nhỏ của lực lượng
vũ trang địa phương và nổi dậy mạnh mẽ giành quyền làm chủ của quần
chúng. Cách đánh đó đã làm cho địch rơi vào tình thế hoảng loạn, sụp đổ
hoàn toàn. Trong các chiến dịch tiến công, chúng ta đã vận dụng linh
hoạt phương pháp tác chiến và các hình thức, thủ đoạn tác chiến: tiến
công trận địa, bao vây, chia cắt, đột phá thọc sâu... làm cho địch không
thể đối phó, liên tiếp bị bất ngờ về nhiều mặt. Khi thì chúng bị bất
ngờ về phương hướng, mục tiêu tiến công của ta như ở Tây Nguyên; khi thì
bị bất ngờ về cách đánh như ở Huế, hoặc thời gian tiến công như ở Đà
Nẵng; khi thì bị bất ngờ cả về thời gian, tốc độ tiến công và quy mô tập
trung lực lượng của ta như ở Sài Gòn - Gia Định. Nhưng trên hết, bất
ngờ lớn nhất đối với địch là thời gian của cuộc Tổng tiến công chiến
lược; chúng đã tính toán sai khi cho rằng: vào thời điểm đó, ta chưa đủ
khả năng mở cuộc Tổng tiến công chiến lược. Đó là điểm mấu chốt khiến
chúng hoàn toàn bị động về chiến lược, mà đã bị động về chiến lược thì
thất bại là tất yếu.
Trên đây là một số nội
dung chính về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân đã được vận
dụng trong cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975. Cùng với đó,
còn rất nhiều nội dung khác như nghệ thuật vận dụng thời gian, không
gian; nghệ thuật đánh trận mở đầu, trận kết thúc; nghệ thuật tổ chức và
xây dựng thế trận; nghệ thuật nghi binh, lừa địch... Và, tất nhiên, cùng
với nghệ thuật quân sự cần phải nhấn mạnh một nhân tố rất cơ bản tạo
nên sức mạnh áp đảo địch để giành thắng lợi là nhân tố chính trị - tinh
thần; đây là chỗ mạnh tuyệt đối, mang tính truyền thống của dân tộc Việt
Nam ta.
Đại thắng mùa Xuân 1975
kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi là niềm
tự hào của nhân dân ta. ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm quý báu
được rút ra từ chiến thắng vĩ đại đó còn nguyên giá trị đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Trách nhiệm và cũng là hành
động thiết thực nhất của chúng ta là tiếp tục nghiên cứu những kinh
nghiệm đó để phát triển nền khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam đáp
ứng yêu cầu của công cuộc củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong điều
kiện mới./.
_____________________________________________________________________________________________
(1), (2) Văn kiện Đảng: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t 37, tr 472, 484