CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI NĂM 1991
|
DỰ THẢO CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN NĂM 2011)
|
I - QUÁ TRÌNH CÁCH MẠNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
l - Thực hiện Cương
lĩnh năm 1930, trong suốt 45 năm, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách
mạng lâu dài, gian khổ và giành được những thắng lợi vĩ đại: làm cuộc
Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; đánh thắng cuộc chiến
tranh xâm lược của thực dân Pháp, giải phóng nửa nước, miền Bắc chuyển
sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa; kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước thắng lợi giải phóng miên Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước bước vào
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sau thắng lợi lịch sử mùa
Xuân 1975, nhân dân ta tiếp tục nêu cao chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa
anh hùng cách mạng và đã đạt những thành tựu to lớn: thiết lập chính
quyền nhân dân ở cả miền nam, thống nhất nước nhà; khôi phục kinh tế,
khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh; từng bước xây dựng quan hệ
sản xuất mới và cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; bảo vệ
vững chắc Tổ quốc; làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường
lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng
đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng
vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành
phần; có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì
quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp; có nhiều
chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương. Công tác
tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng.
Tại Đại hội lần thứ VI,
Đảng đã tự phê bình và đề ra đường lối đổi mới. Đại hội VI là cột mốc
lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân
dân ta. Công cuộc đổi mới qua hơn bốn năm đã đạt những thành tựu bước
đầu rất quan trọng. Tình hình kinh tế xã hội có chuyển biến tích cực,
tạo thế đi lên và khẳng định con đường chúng ta đang đi là đúng. Tuy
nhiên khó khăn còn nhiều, đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội.
|
I - QUÁ TRÌNH CÁCH MẠNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
l. Từ năm 1930 đến
nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu
dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập
tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng
lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng
Điện Biên Phủ năm 1954, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ
quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, đưa đất nước tiếp tục từng bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội với những nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp
thực tiễn Việt Nam.
Với những thắng lợi đã
giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong
kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường
xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm
chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có hệ quốc tế rộng
rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, khó khăn, thách
thức còn nhiều; trong lãnh đạo, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết
điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan,
duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình
và sửa chữa khuyết điểm để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
|
2 - Từ thực tiễn cách mạng với những thành công và khuyết điểm, sai lầm, có thể rút ra những bài học lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó
là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là
điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội
là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã
hội, bảo vệ Tổ quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữa cơ với
nhau. Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại
cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính
nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng
phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức
mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh
lệnh, rời xa nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với
vận mệnh của đất nước.
Ba là, không ngừng củng cố tăng cường đoàn kết: đoàn
kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng nước ta
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công''.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Ngày nay, trước cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội, trước sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại và quá trình quốc tế hóa mạnh mẽ nền kinh tế thế giới,
càng cần phải kết hợp chặc chẽ yếu tố dân tộc với yếu tố quốc tế, yếu tố
truyền thống với yếu tố hiện đại để đưa đất nước tiến lên.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng
không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ,
bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức của mình để đủ sức giải quyết
các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của
Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải
phòng và chống được những nguy cơ lớn: sai lầm - về đường lối, bệnh
quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
|
2. Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, Đảng đã rút ra những bài học lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội -
ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm
nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để
thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội và cơ sở bảo đảm vững
chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc và
hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính
nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động
của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân
dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân. Quan liêu,
mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất không lường được
đối với vận mệnh của đất nước.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn
kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng
nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong
bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu
cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh
thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng
không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ,
bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề
do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
|
II - QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
3 - Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc:
Cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở mức
độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong quá
trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn đến nhịp độ phát triển lịch sử
và cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển
nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là đối với
những nước lạc hậu về kinh tế.
Trong quá trình hình thành
và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt những
thành tựu to lớn về nhiều mặt, đã từng là chỗ dựa cho phong trào hòa
bình và cách mạng thế giới, cho việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt
nhân, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng, do duy trì quá lâu những khuyết
tật của mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa
học và công nghệ, nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã lâm vào khủng hoảng
trầm trọng. Ở một số nước, đảng cộng sản và công nhân không còn
nắm vai trò lãnh đạo; chế độ xã hội đã thay đổi. Các thế lực đế quốc lợi
dụng những sai lầm và khó khăn đó đẩy mạnh cuộc phản kích quyết liệt
nhằm xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa tư bản đang diễn ra gay gắt.
Trước mắt, chủ nghĩa tư
bản còn có tiềm năng phát triển kinh tế, nhờ ứng dụng những thành tựu
mới của khoa học và công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ
cấu sản xuất, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã hội. Tuy
vậy, chủ nghĩa tư bản vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công.
Mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản giữa tính chất xã hội hoá
ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân rộng
rãi với giai cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty
xuyên quốc gia các trung tâm tư bản lớn tiếp tục phát triển. Mâu thuẫn
giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển ngày càng
tăng lên. Chính sự vận động của tất cả những mâu thuẫn đó và cuộc đấu
tranh của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định số phận của chủ nghĩa
tư bản.
Các nước độc lập dân tộc
và các nước đang phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn
và phức tạp, chống nghèo nàn và lạc hậu, chống chủ nghĩa thực dân mới
dưới mọi hình thức, chống sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc
nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc.
Nhân dân các nước đang
đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài
người. Đó là giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ môi
trường sống, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những
bệnh tật hiểm nghèo. Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác
và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các dân tộc.
Đặc điểm nổi bật trong
giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc
gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn,
thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử..
|
II- QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
3. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc.
Cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ,
tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn cơ bản
trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn
tại và phát triển. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát
triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến
tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ
trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ và
tài nguyên tiếp tục diễn ra phức tạp. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
và Đông Nam Á phát triển năng động, nhưng cũng tiềm ẩn những nhân tố mất
ổn định. Tình hình đó tạo thời cơ phát triển, đồng thời đặt ra những
thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước đang và kém phát triển.
Trong quá trình hình thành
và phát triển, Liên Xô (trước đây) và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã
đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào
hoà bình và cách mạng thế giới, góp phần quan trọng và cuốc đấu tranh
vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là một tổn thất lớn đối với những
phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội
chủ nghĩa vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới,
giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế có những bước hồi phục. Tuy nhiên, các nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa, những phong trào cộng sản và cánh tả
vẫn còn gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm
cách xoá bỏ chủ nghĩa xã hội.
Hiện tại, chủ nghĩa tư bản
còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức,
bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản,
nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng
sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những
không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế,
chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu
thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ
quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.
Các nước độc lập dân tộc
và các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu
tranh rất khó khăn, phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can
thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc.
Nhân dân thế giới đang
đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài
người. Đó là giữ gìn hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng
bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế
sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm
nghèo... Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần
trách nhiệm cao của tất cả các quốc gia, dân tộc.
Đặc điểm nổi bật trong
giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình
độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh
tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân
các nước vì hoà bình, độc lập dân tục, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã
hội dù gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
|
4 - Nước ta quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc
địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng
chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực
dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách
phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta.
Nhưng chúng ta cũng có
những thuận lợi: chính quyền thuộc về nhân dân, nước nhà đi vào giai
đoạn hòa bình xây dựng. Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí
vươn lên mãnh liệt. Nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, cần cù lao
động và sáng tạo. Chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở vật chất ban
đầu. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cùng với xu thế quốc
tế hóa đời sống kinh tế thế giới là một thời cơ để phát triển.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước và thế giới như trên, chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp lực với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Để thực hiện mục
tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan
trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát
triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hết là các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình xây dựng chủ nghiã xã hội và bảo vệ Tổ quốc? cần nắm vững những phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức làm nền tảng, do đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền
dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi
hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, phát triển
lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn
liền với phát triển một nền công nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm
nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống
nhân dân.
Ba là, phù hợp với
sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở
hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thi trường có sự quản lý của Nhà
nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế
giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ
đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền
thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những
tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi
ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức,
thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ,
trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý
của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm là, thực hiện
chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước
mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với
tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới.
Sáu là, xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước,
nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả
cách mạng.
Bảy là, xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức ngang tầm
nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Mục tiêu tổng quát
phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản
những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về
chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp làm cho nước ta trở thành một
nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.
|
4. Đi lên chủ nghĩa
xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các
nước trên thế giới.
Đây là một quá trình cách
mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm
tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát
triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Tuy nhiên,
chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản. Đó là: có sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có
bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc
ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có
lòng yêu nước nồng nàn, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được
những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức cùng
với quá trình toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập quốc tế là một thời cơ
để phát triển.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta
là xây dựng xong về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở
làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn
vinh.
Từ nay đến khoảng giữa thế kỷ XXI,
toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành
một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực
hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao
tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm
năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, quán triệt và
thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn như. Quan
hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
hệ thống chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ
nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng
bước quan hệ sản xuất; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc
tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không
phiến diện, cực đoan, duy ý chí.
|
III. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG LỚN VỀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ, XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG – AN NINH, ĐỐI NGOẠI
5 - Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh
tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được
củng cố và mở rộng. Kinh tế cá thể còn có phạm vi tương đối lớn, từng
bước đi vào con đường làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ
và cùng có lợi. Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi
cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định. Phát triển kinh tế tư bản
nhà nước dưới nhiều hình thức. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát
triển mạnh, nhưng không phải là một thành phần kinh tế độc lập. Các hình
thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế
đa dạng. Các tổ chức kinh tế, tự chủ và liên kết, hợp tác và cạnh tranh
trong sản xuất và kinh doanh.
Khi kết thúc thời kỳ quá độ, hình thành về cơ bản nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Trong quá trình chuyển đổi
cơ cấu kinh tế lạc hậu lên cơ cấu kinh tế hiện đại, nền kinh tế quốc
dân sẽ bao gồm nhiều ngành, nghề, nhiều quy mô, nhiều trình độ công
nghệ. Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và
xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình
hình kinh tế xã hội. Đẩy mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng
xuất khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế dịch vụ, xây
dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng. Xây dựng nền công nghiệp nặng với bước đi
thích hợp, trước hết là các ngành trực tiếp phục vụ nông nghiệp. Thực
hiện chuyên môn hóa và liên kết kinh tế giữa các vùng, các địa phương.
Xây dựng các trung tâm kinh tế của từng vùng, để tạo điều kiện liên kết
công nghiệp với nông nghiệp, thành thị với nông thôn, phát triển giao
lưu hàng hóa.
Xóa bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng
pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát
triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng vật tư, dịch vụ, tiền vốn,
sức lao động...; thực hiện giao lưu kinh tế thông suốt cả nước và với
thị trường thế giới. Xác định quyền của người sở hữu, quyền của người sử
dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh
tế, bảo đảm cho mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị
kinh tế: đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.
Đổi mới và nâng cao hiệu lực hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết của Nhà
nước.
Khoa học và công nghệ giữ
vai trò then chốt trong sự phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao
trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh
tế. Các chiến lược khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu công nghiệp hoá
theo hướng hiện đại, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Sử dụng
có hiệu quả và tăng nhanh tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước.
Phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật
đi đôi với phát triển giáo dục và văn hóa, nâng cao dân trí.
Giáo dục và đào tạo gắn
liền với sự nghiệp phát triển kinh tế phát triển khoa học, kỹ thuật,
xây dựng nền văn hóa mới và con người mới. Nhà nước có chính sách toàn
diện thực hiện giáo dục phổ cập phù hợp với yêu cầu và khả năng của nền
kinh tế, phát triển năng khiếu, bồi dưỡng nhân tài.
Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu.
6 - Chính sách xã hội đúng đắn
vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng
tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Phương hướng lớn của chính sách xã hội là:
phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng
các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập
thể và cộng đồng xã hội.
Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của
mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa
bệnh và nâng cao thể chất. Nhà nước tạo môi trường và điều kiện cho mọi
người lao động có việc làm, chăm lo cải thiện điều kiện lao động. Khuyến
khích tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động: Có chính sách
bảo trợ và điều tiết hợp lý thu nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành
và các vùng. Cải cách căn bản chế độ tiền lương trong khu vực nhà nước
theo nguyên tắc phân phối theo lao động. Chú trọng cải thiện điều kiện
sống, lao động và học tập của người mẹ và của thanh thiếu niên. Chăm sóc
giáo dục và bảo vệ trẻ em. Phải thật sự coi việc giảm tốc độ tăng dân
số là một quốc sách. Thiết lập một hệ thống đồng bộ và đa dạng về bảo
hiểm và trợ cấp xã hội. Có chính sách thích đáng đối với các gia đình
liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, cán bộ lão thành, những người về hưu.
Chăm lo đời sống những người già cả, neo đơn, tàn tật mất sức lao động
và trẻ mồ côi. Phát triển các công trình công cộng như trường học, bệnh
viện, các công trình văn hóa, thể dục, thể thao... Khuyến khích và tạo
điều kiện để tập thể và nhân dân đầu tư xây dựng nhà ở. Tuân thủ nghiêm
ngặt việc bảo vệ môi trường, giữ gìn cân bằng sinh thái cho thế hệ hiện
tại và mai sau.
Xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao
đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ. Phát
huy vai trò văn học, nghệ thuật trong việc nuôi dưỡng, nâng cao tâm hồn
Việt Nam. Khẳng định và biểu dương những giá trị chân chính, bồi dưỡng
cái chân, cái thiện, cái mỹ theo quan điểm tiến bộ, phê phán những cái
lỗi thời, thấp kém. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo
của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin
đa dạng, nhiều chiều, kịp thời chân thực và bổ ích.
Kết hợp và phát huy đầy đủ
vai trò của xã hội, các đoàn thể, nhà trường, gia đình, từng tập thể
lao động và tập thể dân cư trong việc chăm lo bồi dưỡng hình thành con người mới. Đó
là con người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri
thức, sức khỏe và lao động giỏi; sống có văn hóa và tình nghĩa; giàu
lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính. Gia đình là tế bào
của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường
quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Các chính sách của
Nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hòa thuận, tiến bộ.
Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải
là môi trường xây dựng phong cách lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có
năng suất và hiệu quả cao, nơi thể hiện tình bạn, tình đồng chí, đồng
đội, hình thành nhân cách con người mới và nền văn hóa mới.
Chính sách xã hội tác động trực tiếp đến việc hình thành một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều
có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng đoàn kết chặt chẽ, góp phần xây dựng
nước Việt Nam giàu mạnh. Phát triển giai cấp công nhân về số lượng và
chất lượng để xứng đáng là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội: Xây dựng giai cấp nông dân về mọi mặt để xứng đáng là
một lực lượng cơ bản trong việc xây dựng nông thôn mới, góp phần đắc lực
vào sự nghiệp công nghiệp hóa, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm
năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất
nước. Đặc biệt coi trọng việc xây dựng một đội ngũ công nhân lành nghề,
những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi và các nhà khoa học,
kỹ thuật có trình độ cao. Quan tâm thích đáng lợi ích và phát huy khả
năng của các tầng lớp dân cư khác vì sự nghiệp "ích nước lợi nhà''. Động
viên sự cống hiến của đồng bào Việt Nam ở nước ngoài góp phần tích cực
xây dựng quê hương xứ sở.
Thực hiện bình đẳng nam nữ về mọi mặt.
Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo
mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến
bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam. Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán,
tín ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp
hòi, kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế xã hội phải phù
hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu
số.
Tín ngưỡng, tôn giáo
là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán
chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng. Chống mọi hành
động vi phạm tự do tín ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng
để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
7- Nhiệm vụ của quốc phòng - an ninh
là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự và an toàn
xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành
động của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta.
Củng cố quốc phòng, giữ
vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và
của Nhà nước. Không ngừng nâng cao giác ngộ và cảnh giác chính trị của
nhân dân, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt
chẽ với thế trận an ninh nhân dân trong điều kiện mới, với những lực
lượng nòng cốt tinh nhuệ.
Sự ổn định và phát triển
mọi mặt đời sống xã hội là nền tảng của quốc phòng - an ninh. Phát triển
kinh xã hội đi đôi với tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh. Kết
hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với
kinh tế trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Từng bước xây
dựng nền công nghiệp quốc phòng, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang,
trong đó có công an nhân dân được trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại.
Xây dựng các lực lượng, vũ
trang nhân dân với số quân thường trực thích hợp theo hướng cách mạng,
chính quy, từng bước hiện đại, tinh nhuệ, với lực lượng dự bị động viên,
dân quân tự vệ hùng hậu, có sức chiến đấu cao. Phát triển đường lối và
nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân trong hoàn cảnh mới.
Xây dựng lực lượng công an
nhân dân thật sự là một lực lượng vũ trang chính quy từng bước hiện
đại, tinh nhuệ. Ngăn chặn, trừng trị kịp thời mọi hành động phá hoại của
bọn phản cách mạng và tội phạm khác, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia,
giữ gìn tốt trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ quyền lợi, tính mạng và tài sản của nhân dân. Kết hợp lực
lượng chuyên trách, nửa chuyên trách, các cơ quan bảo vệ pháp luật với
phong trào quần chúng. Kết hợp biện pháp phòng ngừa, giáo dục là cơ bản
với trấn áp, trừng trị các loại tội phạm.
Chăm lo nâng cao phẩm chất
cách mạng, trình độ chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học, kỹ thuật,
nghiệp vụ cho các lực lượng vũ trang, cho đội ngũ sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên nghiệp. Bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ và chiến
sĩ phù hợp với tính chất hoạt động của quân đội nhân dân và công an nhân
dân.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an nhân dân.
8 - Mục tiêu của chính sách đối ngoại
là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
Hợp tác bình đẳng và cùng
có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội
khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình.
Không ngừng củng cố và
phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống với các nước xã hội
chủ nghĩa, các nước anh em trên bán đảo Đông Dương. Đảng Cộng sản Việt
Nam trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong
trào cách mạng trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời
đại. Đảng Cộng sản Việt Nam sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với
các đảng và các lực lượng đấu tranh chống các thế lực hiếu chiến, xâm
lược, áp bức bóc lột các nước chậm tiến, vì hòa bình thế giới và tiến bộ
xã hội. Tham gia tích cực các tổ chức quốc tế và phong trào không liên
kết vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc và phát triển.
Phát triển quan hệ với các nước Đông - Nam Á, tích cực góp phần xây dựng khu vực này thành khu vực hòa bình và hợp tác.
Phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau với các nước đang phát triển.
Mở rộng sự hợp tác cùng có lợi với các nước phát triển.
|
III - NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG LỚN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HOÁ, XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG, AN NINH, ĐỐI NGOẠI
5. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức
kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo
pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và mở rộng. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh
tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Các hình thức sở
hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng
ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các
loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy
luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ
nghĩa. Xác định quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu
sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm
cho mới tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Quan hệ phân
phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực
được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội và theo nguyên tắc thị trường; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp
vốn cùng các nguồn cực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã
hội, phúc lợi xã hợi. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều
tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến
lược, quy hạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn
với phát triển kinh tế tri thức; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện
đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ. Thường xuyên coi trọng phát triển công nghiệp nặng, công
nghiệp chế tạo; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ
công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng
nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hoà giữa các vùng; thúc đẩy phát
triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát
triển các vùng cớ nhiều khó khăn. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ,
đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế:
6. Xây dựng nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa
dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho
văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở
thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hoá tốt đẹp của công đồng các dân tộc Việt Nam,
tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hợi dân chủ,
văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri
thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển, nâng cao
chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các
giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu
tranh chống những biểu hiện phi văn hoá, phản văn hoá. Bảo đảm quyền
được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương
tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa
dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Con người là trung
tâm của chiến lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn
quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm
chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, các
đoàn thể, nhà trường, gia đình, từng tập thể lao đồng và cộng đồng dân
cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước; có
ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động
giỏi; sống có văn hoá; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia
đình ấm no, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi
trường trực tiếp, quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách.
Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn
luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu
quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách
con người và nền văn hoá Việt Nam.
Giáo dục và đào tạo có
sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, góp phần quan trọng xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam.
Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ
là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát
triển. Đổi mới toàn diện, mạnh mẽ giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát
triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo định hướng chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi
công dân được học tập suốt đời.
Khoa học và công nghệ giữ
vai trò then chốt trong việc nâng cao trình độ lãnh đạo - quản lý đất
nước, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ
tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự
nhiên, khoa học kỹ thuật gắn với phát triển văn hoá và nâng cao dân trí.
Tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và công nghệ của
đất nước. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo và
đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ.
Bảo vệ môi trường và
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Kết hợp chặt chẽ
giữa ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường
sinh thái. Phát triển ''năng lượng sạch'', ''sản xuất sạch'' và ''tiêu
dùng sạch''. Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện các giải pháp ứng
phó với quá trình biến đổi khí hậu. Bảo vệ và sử dụng hợp lý, có hiệu
quả tài nguyên quốc gia.
Chính sách xã hội đúng
đắn, công bằng vì con người và động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực
sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo
đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt
chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách; phát triển hài hoà đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không
ngừng nâng cao đời sống của mới thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi
lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, gắn nghĩa vụ
với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập
thể và cộng đồng xã hội.
Tạo môi trường và
điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Khuyến
khích làm giàu hợp pháp đi đôi với giảm nghèo bền vững. Có chính sách
điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã
hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công với
nước. Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh,
thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Chăm lo đời sống những người già
cả, neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi. Hạn chế, tiến tới
đẩy lùi và giảm tác hại của tệ nạn xã hội. Bảo đảm quy mô hợp lý và
chất lượng dân số.
Hình thành một cộng đồng xã hội văn minh trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn
kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Xây dựng giai cấp cùng nhau
lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng, phát huy vai trò
chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy mọi tiềm năng và sức sáng tạo
của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước.
Xây dựng đội ngũ những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi.
Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất
nước. Thực hiện bình đẳng giới và hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định
cuộc sống, giữ gìn bản sắc dân tộc, chấp hành tốt pháp luật các nước sở
tại, hướng về quê hương, góp phần xây dựng đất nước.
Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo
mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự
phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam, Giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư
tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải
phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc
thiểu số.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo -
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đấu tranh với mọi hành động
vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm
tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
7. Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ
vững hoà bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống
phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta.
Củng cố quốc phòng, giữ
vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu
thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân là nòng cốt. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân,
kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Phát triển
đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý luận, khoa học
an ninh.
Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt
đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng của quốc phòng - an ninh. Phát
triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an
ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an
ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội.
Xây dựng Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân,
được nhân dân tin yêu. Xây dựng Quân đội nhân dân với số quân thường
trực hợp lý, lực lượng dự bị đảng viên, dân quân tự vệ hùng hậu, có sức
chiến đấu cao. Xây dựng lực lượng Công an nhân dân vững mạnh toàn diện;
kết hợp lực lượng chuyên trách, nửa chuyên trách, các cơ quan bảo vệ
pháp luật với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Chăm lo nâng
cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho
cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang; bảo đảm đời sống vật chất, tinh
thần phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân trong điều kiện mới. Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an
ninh, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật ngày
càng hiện đại.
Tăng cường sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống
nhất của Nhà nước đối với Quân đội, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc
phòng - an ninh.
8. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của
đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, góp phần và sự nghiệp hoà bình, độc tập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Hợp tác bình đẳng, cùng có
lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác
nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và
luật pháp quốc tế.
Đảng Cộng sản Việt Nam
trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào
tiến bộ xã hội trong cuốc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời
đại. Đảng Cộng sản Việt Nam mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, các
đảng cầm quyền trên thế giới trên cơ sở độc lập, tự chủ, vì hoà bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Tăng cường hiểu biết, tình
hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên
thế giới. Phấn đấu cùng các nước ASEAN xây dựng Đông Nam Á thành khu vực
hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh.
|
IV - HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
9 - Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội
phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội thông qua hoạt động của nhà nước do
nhân dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ đi đôi
với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp
luật bảo đảm.
Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm.
10 - Là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, Nhà nước ta
phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản
lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà
nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan luật pháp để
thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của nhà nước.
Nhà nước có mối liên hệ
thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của
nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm
soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô
trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Tổ chức và hoạt động
của bộ máy quản lý nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống
nhất quyền lực, có sự phân công, phân cấp đồng thời bảo đảm sự chủ đạo
thống nhất của trung ương.
Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó.
11 - Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân
có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên, thực hiện
dân chủ và đổi mới xã hội, giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền
và nghĩa vụ công dân; thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của
các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành
viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo phương thức
hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành
viên theo chương trình hành động chung.
Các đoàn thể nhân dân tùy
theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác định, vừa vận động đoàn
viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích thiết thực; vừa
giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội viên, vừa tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Đảng tôn trọng tính tự
chủ, ủng hộ mọi hoạt động tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý
kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Nhà nước hỗ trợ, tạo điều
kiện cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả.
12 - Đảng Cộng sản Việt Nam
là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc
tổ chức cơ bản.
Đảng lãnh đạo xã hội bằng
cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công
tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra
và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng
viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan
lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của
các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật
thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong
Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng. Thường
xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ
nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức
chiến đấu cao. Đảng quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự
nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân.
Cương lĩnh này là ngọn cờ
chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng
bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội định hướng cho mọi hoạt động của Đảng
hiện nay và trong những thập kỷ tới. Thực hiện thắng lợi Cương lĩnh này,
nước nhà nhất định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Đảng kêu gọi tất cả người
cộng sản, toàn thể đồng bào ở trong nước và ở nước ngoài mang hết tinh
thần và nghị lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Cương lĩnh./.
(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII) |
IV- HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
9. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là
bản chất của chế độ ta, vừa và mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải
được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh
vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức
dân chủ trực tiếp. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được
thể chế hoá bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Nhà nước quy định và
bảo vệ các quyền công dân, quyền con người đi đôi với nghĩa vụ và trách
nhiệm; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mới người.
10. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện và thực hiện ý chí, quyền
lực của nhân dân, trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà
nước định ra luật pháp và tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật; giữ
nghiêm kỷ cương xã hôị, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ
quốc và của nhân dân. Không ngừng hoàn thiện hệ thống tổ chức nhà nước.
Nhà nước gắn bó chặt chẽ
với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng,
lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ
chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của
công dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo
thống nhất của trung ương. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân
công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp; có cơ chế kiểm tra, giám sát trong việc thực hiện
ba quyền đó.
11. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có
vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và
xây dựng xã hội lành mạnh; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền
và nghiã vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt
Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của
hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng
Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa và người lãnh đạo Mặt trận. Mặt
trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp
và thống nhất hành động giữa các thành viên.
Các đoàn thể nhân dân tuỳ
theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác định, vận động, giáo dục
đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các
quyền lợi hợp pháp của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên
nâng cao trình độ mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý
nhà nước, quản lý xã hội.
Đảng tôn trọng tính tự
chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành
lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể Đảng, Nhà nước có
cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân
hoạt đảng có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ
bản. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghiã Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là di sản tư tưởng và lý luận
vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
Đảng Cộng sản Việt Nam là
Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương
lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng
công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng
hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán
bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ
thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt
động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách
nhiệm cá nhân, nhất và người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng
lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò,
tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết
với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa và
nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Để đảm đương được vai trò
lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng
lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, bảo
đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt Đảng. Thường xuyên tự phê
bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và
mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao; quan
tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và
của nhân dân.
*
Cương lĩnh này là ngọn cờ
chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng
bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng
hiện nay và trong những thập kỷ tới. Thực hiện thắng lợi Cương lĩnh này,
nước nhà nhất định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Đảng kêu gọi tất cả những
người cộng sản, toàn thể đồng bào ở trong nước và ở nước ngoài mang hết
tinh thần và nghị lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, vững bước
đi tới tương lai./.
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG |