TCCSĐT- Có thể nói,
kể từ sau Hiệp ước Bret-tơn Út (Bretton Woods), vàng được coi như một
“hoàng đế” đã thực hiện tròn ngôi, lui vào “hậu cung”, nhường quyền cho
các “hậu duệ”, mà không trực tiếp tham gia các công việc “triều chính”.
Tuy nhiên, kể từ năm 2001 đến nay, giá vàng trên thế giới tăng liên tục.
Tính đến đầu tháng 11-2010, giá vàng đã tăng 25% so với thời điểm cuối
năm trước, vượt qua sự kỳ vọng của nhiều nhà đầu tư, dù năm 2010 chưa
kết thúc. Phải chăng vàng - hoàng đế của thế giới tiền tệ, lại quay ra
“nhiếp chính” và khuynh đảo thiên hạ? Vai trò của vàng trong nền kinh tế
hiện đại ra sao? Xung quanh vấn đề này có nhiều quan điểm khác nhau,
bài viết dưới đây là một cách tiếp cận. TCCSĐT xin giới thiệu để bạn đọc
tham khảo.
Giá vàng tăng nhanh và liên tục
Trong những năm gần đây,
giá vàng tăng chóng mặt, với mức khoảng 20 - 25%/năm. Sự tăng giá nhanh
và bền vững của vàng thế giới là một trong những nguyên nhân chính khiến
giá vàng trong nước của Việt Nam tăng theo.
Vàng tăng giá do nhiều nguyên nhân chi phối. Thứ nhất,
vàng đã được các tổ chức tài chính quốc tế và nhiều chính phủ thường
xuyên mua vào để bổ sung cho kho dự trữ của mình, mà hầu như không có sự
bán ra. Dự định thời kỳ 5 năm từ 2009 đến 2014, các ngân hàng trung
ương châu Âu sẽ thực hiện bán ra một lượng vàng cần thiết để điều chỉnh
thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, lượng vàng bán ra chỉ mới là 6,2 tấn cho
năm thứ nhất của giai đoạn này, và đến nay việc bán vàng đã tạm ngưng,
làm giảm thiểu một nguồn cung đáng kể cho thị trường kim loại quý. Trong
khi đó, một số ngân hàng trung ương của Nga, Ấn Độ, đặc biệt là Trung
Quốc lại bắt đầu quan tâm đến việc gia tăng dự trữ vàng thay vì dự trữ
USD. Quý I/2009, Trung Quốc chỉ giữ 600 tấn vàng. Sang quý II, quốc gia
này đã mua thêm 454 tấn, đưa tỷ lệ dự trữ tăng mạnh lên 1.054 tấn. Trong
khi đó, sản lượng khai thác vàng trong thời gian qua trên toàn thế giới
không những không tăng mà đang có xu hướng giảm.
Thứ hai, khi giá
vàng tăng với mức tăng trung bình từ 20-25%/năm, các nhà đầu tư trên
thị trường tài chính không thể không chú ý đến vàng, nhất là khi những
loại tài sản khác như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, bất động sản
v.v… chưa mang lại hiệu quả sinh lợi như mong đợi. Nói cách khác, nhà
đầu tư sẽ có xu hướng chuyển dịch một phần vốn vào vàng để vừa đa dạng
hóa danh mục đầu tư, vừa hướng tới mục tiêu sinh lợi với kỳ vọng sẽ thu
được khoản chênh lệch giá lớn.
Thứ ba, mặc dù
chưa có sự tổng kết đầy đủ, song có thể dễ dàng nhận thấy, các đồng tiền
mạnh của thế giới thời gian qua không ổn định. Sự không ổn định này
được lý giải bởi nhiều yếu tố: như chính phủ của các đồng tiền này
thường rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách lớn, làm cho tỷ lệ lạm phát
tăng cao; do khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực châu Á và toàn
cầu… Một vấn đề nữa hầu như còn chưa được đề cập là kể từ khi đồng ơ-rô
của EU ra đời năm 1999, thay thế cho các đồng tiền của 12 quốc gia, trở
thành một đồng tiền quốc tế mạnh song song với đồng USD, làm cho đồng
USD mất đi vị trí độc tôn và có vẻ ngày càng suy yếu, trong khi đồng
ơ-rô chưa đủ thời gian để khẳng định vị trí của mình, đã gây ra một tâm
lý chung của người dân, cũng như cả các chính phủ và các tổ chức tài
chính quốc tế, đó là sự hoài nghi, thiếu niềm tin vào sự vững mạnh của
hai đồng tiền chủ lực này, nên đã tìm đến vàng, tăng nắm giữ, dự trữ
vàng.
Sự tăng giá mạnh mẽ và
liên tục của vàng trong thời gian dài vừa qua cho thấy, hình như vàng
đang quay lại “chấp chính” với tư cách là tiền. Rõ ràng, sự tăng giá của
vàng trên thế giới cũng như trong nước về cơ bản không phải do sự tăng
lên từ cầu tiêu dùng thực của vàng phục vụ cho một số ngành công nghiệp
chế tạo hay làm đồ trang sức, trang trí, mà vàng chủ yếu được mua để cất
trữ và đầu cơ hưởng chênh lệch giá. Nói cách khác, tư duy “vàng là ông
hoàng của mọi loại tiền” lại trỗi dậy. Tư duy này đã tạo ra một lượng
cầu vô tận về vàng, trong khi nguồn cung lại không tăng tương ứng, thậm
chí còn giảm. Vì thế, sự tăng giá nhanh và liên tục của vàng là điều
thật dễ hiểu.
Những hệ lụy của vàng tăng giá
Khi vàng tăng giá mạnh và liên tục sẽ gây ra hệ lụy cho nhiều phía.
- Thị trường vàng kém sôi động hoặc thậm chí đóng băng khi giá vàng tăng mạnh và liên tục: Lúc
này, trên thị trường vàng thực chất có hai loại: “vàng – hàng” và “vàng
- tiền”. “Vàng - hàng” chủ yếu là những đồ trang sức, mỹ nghệ… bằng
vàng hoặc vàng nguyên liệu cho một số ngành sản xuất. Giá vàng tăng sẽ
làm cho cầu thực của loại hàng này giảm, dẫn tới không có nhiều giao
dịch mua bán, sức tiêu thụ các sản phẩm vàng bạc đá quý sẽ bị suy giảm,
không thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường vàng và các doanh
nghiệp kinh doanh trong ngành vàng bạc đá quý. Còn “vàng - tiền” (vàng
“cây”, “chỉ”…) sức mua sẽ biến động theo sự phân tích của những nhà đầu
tư, mà thực chất là đầu cơ, chờ hưởng chênh lệch giá.
- Ngân hàng khó cho vay vàng:
Theo số liệu thống kê, vốn huy động tiết kiệm bằng vàng của các ngân
hàng thương mại ở Việt Nam đạt mức trên dưới 95.000 tỉ đồng (khoảng 115
tấn vàng hoặc 4,8 tỉ USD). Nếu giá vàng tăng, người dân và doanh nghiệp
sẽ không dám vay vàng, vì lo ngại bị “thiệt hại kép” khi đến ngày đáo
hạn trả nợ vay (vừa trả lãi suất vay vàng, vừa bù lỗ mức chênh lệch giá
vàng). Nếu các ngân hàng huy động vàng mà không cho vay được, kênh tín
dụng bằng vàng sẽ bị tắc nghẽn, gây lãng phí cho nguồn vốn vàng không sử
dụng được.
- Xuất hiện tâm lý đầu cơ, tích trữ vàng:
Giá vàng tăng mạnh, người dân sẽ rút tiền đồng mua vàng tích trữ để kỳ
vọng kiếm lời chênh lệch giá hay cất trữ tiền cho an toàn, thay vì gửi
tiền đồng vào các ngân hàng hoặc mua hàng hóa, dịch vụ để kích thích sức
tăng trưởng kinh tế. Mặc dù chưa có một điều tra chính thức, song theo
ghi nhận của các hiệu kinh doanh vàng, khi vàng tăng giá mạnh thì lượng
người mua vàng miếng (vàng - tiền) là chủ yếu. Theo “Diễn đàn kinh tế
Việt Nam” ngày 3-11-2010, dự báo của một số nhà kinh tế cho biết, lượng
vàng cất trữ trong dân ở Việt Nam hiện nay có thể lên tới 800 tấn.
- Rủi ro tín dụng bằng vàng: Với
các hợp đồng tín dụng bằng vàng đã được giải ngân, nếu giá vàng biến
động mạnh theo xu hướng tăng, rủi ro đối với các ngân hàng là tài sản
đảm bảo của người đi vay sẽ không đủ bù đắp, còn rủi ro đối với người đi
vay là tổng chi phí vay tăng lên do bù lỗ giá vàng.
- Ảnh hưởng đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI):
Theo phương pháp tính chỉ số CPI của Tổng cục thống kê cho giai đoạn 5
năm 2009 - 2014 trên toàn quốc, hiện tại vàng không được tính trong 572
nhóm hàng và dịch vụ (hay còn gọi là “rổ hàng hóa”) để tính CPI. Tuy
vậy, vàng tăng giá cũng sẽ tác động gián tiếp đến chỉ số CPI. Ví dụ, khi
giá vàng tăng, các nguyên liệu đầu vào phục vụ cho việc sản xuất, chế
tác các dòng sản phẩm có liên quan đến vàng hoặc ngành vàng bạc đá quý
sẽ tăng theo, dẫn đến giá bán tăng đối với nhóm hàng hóa này. Khi giá
bán các sản phẩm kim loại quý tăng, các sản phẩm này sẽ tác động gián
tiếp đến rổ 572 nhóm hàng và dịch vụ chính thức nói trên.
- Ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ. Khi
giá vàng tăng gây ảnh hưởng gián tiếp đến chỉ số CPI tăng, những dấu
hiệu về lạm phát sẽ xuất hiện. Nếu tỷ lệ lạm phát không dao động trong
vùng kiểm soát theo kỳ vọng chung của nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước sẽ
phải xem xét thực thi một số giải pháp như điều chỉnh lãi suất cơ bản,
điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và điều tiết tổng phương tiện thanh
toán của nền kinh tế để kiềm chế lạm phát.
- Ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán vốn được xem là hàn thử biểu của nền kinh tế.
Khi giá vàng tăng với mức sinh lợi kỳ vọng hấp dẫn, các công ty chứng
khoán một mặt vừa chú tâm theo dõi diễn biến của thị trường vàng, mặt
khác vừa lo ngại một số nhà đầu tư chứng khoán sẽ dịch chuyển danh mục
đầu tư sang vàng. Nếu nhiều nhà đầu tư chuyển hướng đầu tư sang vàng,
thị trường chứng khoán sẽ thiếu tính thanh khoản, ảnh hưởng đến sự phục
hồi và sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán và nền kinh tế.
- Ảnh hưởng đến thị trường bất động sản. Theo
tập quán truyền thống từ lâu đời, người dân Việt Nam có thói quen sử
dụng vàng để định giá nhà đất hoặc bất động sản. Giá vàng tăng, dẫn đến
giá trị nhà đất, bất động sản tăng theo, khiến các nhà đầu tư ngại mua
bán nhà đất/bất động sản do sợ rủi ro giá vàng đảo chiều. Điều này có
thể sẽ làm cho thị trường bất động sản kém sôi động hoặc thậm chí tắc
nghẽn.
Giải pháp ổn định giá vàng
Xuất phát từ những phân tích nguyên nhân của tăng giá vàng như trên, giải pháp ổn định giá vàng được đưa ra như sau:
Một
là, giải pháp cơ bản và lâu dài là phải giữ được sự ổn định của đồng
tiền các quốc gia, nhất là các đồng tiền mạnh, có khả năng chuyển đổi
lớn.
Hầu hết đồng tiền của các
quốc gia trên thế giới hiện nay là tiền dấu hiệu, về mặt pháp lý là
được đảm bảo bằng pháp luật. Tuy vậy, niềm tin của xã hội, của dân chúng
vào những đồng tiền này nếu chỉ mới dừng lại ở cơ sở pháp lý là chưa
đủ, mà quan trọng hơn là ở chính sức mua của chúng. Đồng tiền ổn định
tức là sức mua của chúng được giữ ổn định (cố định hoặc biến động trong
một biên độ dao động nhỏ) trong một thời gian dài. Khi đồng tiền có sức
mua ổn định, lâu dài, lòng tin đối với chúng sẽ nhanh chóng được thiết
lập. Từ đó, người ta không cần phải tìm kiếm hay nghĩ tới một cái gì
khác để thay thế những đồng tiền, kể cả đó là vàng, vì suy cho cùng,
người ta cần tiền chủ yếu nhất là để thực hiện hai chức năng, thước đo
giá trị và phương tiện trao đổi, thì chính các đồng tiền dấu hiệu lại là
những phương tiện luôn thực hiện tốt nhất hai chức năng này.
Hai là, trước mắt và kể cả trong dài hạn, đã đến lúc cần đưa vàng ra khỏi thế giới tiền tệ, trả lại vị trí vốn có của nó.
Chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB), Rô-bớt Dô-e-lich (Robert Zoellick) phát biểu trên “Thời báo Tài chính” (Financial Times) (Anh)
ra ngày 8-11 cho rằng: nên kết thúc việc lấy USD làm mỏ neo cho tiền tệ
của các nước. Theo ông Rô-bớt Dô-e-lich, việc áp dụng chế độ bản vị
vàng sẽ góp phần trang bị lại nền kinh tế thế giới trong thời điểm căng
thẳng tỷ giá và chính sách tiền tệ của Mỹ. Phát biểu của ông Rô-bớt
Dô-e-lich được đưa ra trước dư luận lo ngại về nguy cơ bùng nổ một cuộc
chiến tranh tiền tệ do các nước đua nhau giữ đồng nội tệ yếu để tìm kiếm
lợi thế xuất khẩu trong bối cảnh nhu cầu thế giới giảm.
Đại
sứ Hàn Quốc tại Việt Nam Pắc Suc Hoan (Park Suk Hwan): “Cá nhân tôi cho
rằng, nếu thay USD hay các ngoại tệ khác bằng vàng thì nền kinh tế thế
giới sẽ bị thu hẹp đi rất nhiều và rất khó để các quốc gia có thể giao
dịch với nhau bằng bằng vàng mà không phải ngoại tệ. Ngày xưa người ta
đã lấy vàng làm đơn vị tiêu chuẩn để phục vụ cho quá trình giao dịch
giữa các nước trên thế giới, nhưng do thất bại nên mới chuyển sang USD
hay các đồng tiền khác như bây giờ. Theo tôi, nếu thấy khó khăn mà quay
trở lại với phương pháp của quá khứ thì không được hay cho lắm. Tuy
nhiên, đây là ý kiến của một tổ chức lớn vì vậy chúng ta cần suy nghĩ và
bàn bạc kỹ”.
(Nguồn: VOVnews)
|
Không ai phủ nhận vai trò
tiền tệ của vàng, thậm chí, vàng đã thực hiện được vai trò đó vô cùng
xuất sắc. Tuy nhiên, trong điều kiện của nền kinh tế đương đại ngày nay,
những yếu tố khác hoàn toàn có khả năng thay thế vàng để đảm đương vai
trò tiền tệ một cách đầy đủ và thuận tiện nhất, vàng nên rút lui hoàn
toàn vào “hậu cung”. Nếu làm được như vậy, một mặt, vừa giữ gìn được
“danh dự” cho vàng một cách trọn vẹn (vàng không bị coi là ông hoàng đã
hết thời nay lại quay ra nhiếp chính để khuynh đảo xã hội), mặt khác,
phát huy cao độ vai trò tiền tệ của các loại tiền dấu hiệu, tạo ra sự ổn
định của đời sống kinh tế - xã hội hiện đại. Để làm được như vậy, cần
phải tính đến các bước sau:
Trên phạm vi quốc gia:
Pháp luật chỉ thừa nhận vàng như là vô vàn những hàng hóa thông dụng
khác và được sử dụng với những công dụng vốn có của chúng (làm đồ trang
sức, chế tác, sản xuất… ra các sản phẩm khác), mà không thừa nhận chúng
với tư cách là tiền. Theo đó, đối với hoạt động kinh doanh vàng, chỉ
được phép mua bán vàng với tư cách là “vàng – hàng”, nghiêm cấm việc mua
bán vàng miếng, vàng thỏi… là “cây”, “chỉ”…, mà thực chất là những đơn
vị tiền tệ trá hình của vàng.
Tại Việt Nam, đầu năm
2010, Chính phủ đã có quy định chấm dứt các hoạt động của các sàn giao
dịch vàng. Đặc biệt, ngày 29-10 vừa qua, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã
ký ban hành Thông tư 22/2010/TT-NHNN, trong đó quy định, kể từ ngày
29-10, tổ chức tín dụng sẽ chỉ được phép huy động vốn bằng vàng thông
qua phát hành giấy tờ có giá, thay vì hình thức phát hành sổ tiết kiệm
vàng trước đây. Ngoài ra, ngân hàng sẽ chỉ được phép cho khách hàng vay
vốn bằng vàng để sản xuất (chế tác) và kinh doanh vàng trang sức. Việc
cho vay để sản xuất và kinh doanh vàng miếng hoàn toàn bị cấm.
Về phạm vi quốc tế: Thực
tế mấy chục năm qua cho thấy, các tổ chức tài chính quốc tế và chính
phủ của nhiều quốc gia chủ yếu phát huy vai trò tiền tệ của vàng với
chức năng chính là để cất trữ. Trên toàn cầu, hàng trăm ngàn tấn vàng
dưới dạng vàng thoi đã phải thực hiện giấc ngủ dài tại các kho dự trữ
kiên cố, được bảo vệ cẩn mật và có lẽ suốt đời sẽ nằm yên tại đó. Vậy,
việc tiếp tục nạp thêm vàng vào các kho dự trữ như thế để cho giá vàng
cứ tăng lên chóng mặt và góp phần không nhỏ làm rối loạn kinh tế thế
giới thì liệu có xứng đáng? Phải chăng, đã đến lúc, các nhà khoa học và
các nhà quản lý, các chính phủ và các tổ chức quốc tế cần có cái nhìn
đúng hơn về vị thế của vàng trong nền kinh tế đương đại, trả lại đúng
nghĩa tư cách cho vàng là một loại hàng hóa với những công dụng vốn có,
thu về cái áo “tiền tệ” mà nhân loại đã nhờ nó mang trong suốt nhiều
ngàn năm qua. Từ những tư duy đó, những cam kết quốc tế mới được ra đời
để làm lành mạnh hệ thống tiền tế quốc tế trong nền kinh tế hiện đại
không có sự hiện diện của vàng.
Ý tưởng đưa vàng ra khỏi
thế giới tiền tệ trong nền kinh tế đương đại đã được đưa ra tại một vài
diễn đàn trong thời gian gần đây. Các ý kiến phản hồi khá nhiều chiều,
có ý kiến cho là hợp lý, ý kiến khác lại nói rằng không thể được, hoặc
phải tiếp tục suy nghĩ, nghiên cứu thêm.
Có một vĩ nhân đã từng
nói: “Người đi nhiều thành lối mòn”. Trong khoa học kinh tế, rất nhiều
vấn đề khá linh ứng với quy luật này. Ý tưởng trên chưa nhận được sự
đồng tình cao là điều khá dễ hiểu. Tuy thế, giá vàng thế giới và trong
nước đang tăng lên từng ngày, từng giờ… một cách vô lý và kỳ cục, chúng
ta phải làm gì đó nhiều hơn nữa trước động thái không bình thường này./
Số 21 (213) năm 2010