TCCS - Cuộc chiến
tranh thế giới thứ hai do bọn phát-xít gây ra đã mang lại thảm hoạ tàn
khốc chưa từng có trong lịch sử loài người, cướp đi hàng chục triệu sinh
mạng con người, phá hoại nguồn của cải vật chất trị giá hàng ngàn tỉ
USD, và gây nên đau thương thảm khốc không thể tính bằng con số. Kỷ niệm 65 năm
ngày chiến thắng phát-xít, không gì thiết thực hơn là nhân dân các nước
trên thế giới cùng nhớ lại và suy ngẫm bài học lịch sử, hướng tới một
tương lai hoà bình bền vững, vĩnh viễn loại bỏ chiến tranh khỏi cuộc
sống của con người trên trái đất.
Nhớ lại bài học lịch sử của cuộc chiến tranh chống phát-xít
Trong 65 năm qua, đã có
hàng ngàn quyển sách, hàng vạn bài báo viết về đề tài chiến tranh chống
phát xít, nhất là trong các dịp kỷ niệm năm chẵn. Chủ đề được các công
trình nghiên cứu và các tác phẩm nghệ thuật (nhất là điện ảnh) tập trung
nhiều nhất là nguyên nhân bùng nổ chiến tranh và nguyên nhân thắng lợi
của chiến tranh chống phát-xít.
Về nguyên nhân bùng nổ
chiến tranh, các nhà sử học Liên Xô trước đây nhấn mạnh Hiệp ước
Muy-ních (về vấn đề Tiệp Khắc) do các nước Anh, Pháp ký với nước Đức
quốc xã đã dọn đường cho phát-xít Đức gây chiến tranh ở châu Âu; chính
sách Muy-ních phương Đông của Mỹ đã dẫn đến việc quân phiệt Nhật Bản gây
chiến tranh ở châu Á - Thái Bình Dương. Trong khi đó, các nhà sử học
phương Tây lại cho rằng "Hiệp ước không xâm phạm Xô - Đức" đã tạo điều
kiện cho Hít-le gây chiến tranh ở Tây Âu, để sau đó quay lại tấn công
Liên Xô.
Về nguyên nhân thắng lợi
của chiến tranh chống phát-xít, giới sử học Liên Xô khẳng định vai trò
chủ lực của Hồng quân Liên Xô trong cuộc chiến tranh tiêu diệt phát-xít
Đức ở châu Âu và trong cuộc chiến chống quân phiệt Nhật trên chiến
trường châu Á. Ngược lại, giới sử học phương Tây nhấn mạnh "Mặt trận thứ
hai" do liên quân Anh - Mỹ mở tại Noóc-măng-đi là nhân tố quyết định
thảm bại của phát-xít Đức, và hai quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống
Hi-rô-si-ma và Na-ga-xa-ki là đòn giáng quyết định Nhật hoàng đầu hàng
Đồng minh.
Thậm chí sau khi chiến
tranh lạnh kết thúc, và nhất là hiện nay, cuộc tranh luận nói trên không
những vẫn tiếp tục theo quán tính, thậm chí còn được ráo riết đẩy mạnh
hơn. Một số người trong giới nghiên cứu phương Tây còn lợi dụng việc
Liên Xô giải thể, lợi dụng một số tài liệu mới được công bố, mưu toan
bóp méo, xuyên tạc, xét lại lịch sử, cố tình phủ nhận vai trò quyết định
của Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ hai góp phần giải phóng loài
người khỏi họa diệt chủng... Trước tình hình này, Tổng thống Nga
Đ.Mét-vê-đép đã cho thành lập "Uỷ ban chống xuyên tạc lịch sử" để đáp
trả những luận điểm trâng tráo đó.
Thiết nghĩ sau 20 năm
chiến tranh lạnh kết thúc, và trong bối cảnh toàn cầu hoá, nhân loại
đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới, những người nghiên cứu
về chiến tranh chống phát-xít trên thế giới nên có sự đổi mới về tư duy,
phương hướng và đối tượng nghiên cứu, tập trung vào chủ đề phê phán chủ
nghĩa phát-xít, tìm ra bản chất gây chiến xâm lược của chúng, và chủ đề
đấu tranh chống chủ nghĩa phát-xít vì những mục tiêu cao cả của thời
đại: hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, và tiến bộ xã hội.
Về bản chất của chủ nghĩa
phát-xít: có thể khẳng định rằng chủ nghĩa phát xít là “quái thai lịch
sử”, và những tên đầu sỏ Hít-le, Mút-sô-li-ni v.v.. là những con thú dữ,
kẻ thù của loài người, kẻ thù của nước Nga, Mỹ, Anh, Pháp, kẻ thù của
các nước ở châu Âu, châu Á, châu Phi bị chúng xâm lược v.v.. Ra đời
trong một môi trường thế giới bất công, chúng khuếch trương thế lực,
phát động chiến tranh bằng chính sách xảo quyệt lừa mị nhân dân. Có thể
lấy chủ nghĩa phát-xít Đức - một điển hình của chủ nghĩa phát-xít quốc
tế làm ví dụ.
Những thập niên cuối của
thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là thời kỳ chủ nghĩa đế quốc tranh giành,
xâu xé đất đai trên thế giới bằng những thủ đoạn xâm lược tàn bạo, và
khi không còn đất để xâm chiếm nữa thì chúng dùng thủ đoạn chiến tranh
thế giới để cướp tay trên của nhau, phân chia lại thế giới theo nguyên
tắc so sánh sức mạnh. Đó là ngòi nổ gây nên cuộc chiến tranh thế giới
lần thứ nhất trong lịch sử loài người (1914 - 1918). Ở nước Đức từ cuối
thế kỷ XIX, những phần tử dân tộc cực đoan đã giải thích lịch sử loài
người như lịch sử của loài động vật. Học thuyết của nhà sinh vật học
Sác-lơ Đác-uyn về sự tiến hoá của giới động vật đã bị chúng lợi dụng,
biến thành thuyết "Đác-uyn - xã hội", giải thích lịch sử tiến hoá của
nhân loại là một quá trình "cạnh tranh không gian sinh tồn", giết hại
lẫn nhau để tồn tại và phát triển, như quy luật "cá lớn nuốt cá bé"
trong lịch sử tiến hoá của giới động vật. S.Đác-uyn chia giới động vật
thành từng loài, còn chúng chia loài người thành từng giống: da trắng,
da đen, da vàng, da đỏ. Da trắng là giống người "thượng đẳng", trong đó
nòi Giéc-manh là "siêu đẳng", còn các giống người da màu là "hạ đẳng",
chỉ đáng làm nô lệ hoặc bị tiêu diệt. Khi Đức - Áo bị thảm bại trong
chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Đức không những không cướp thêm được
thuộc địa từ tay các đối thủ Anh, Pháp, Mỹ, mà đã mất hết thuộc địa
từng có, và bản thân dân tộc Đức bị các nước thắng trận kìm kẹp và nô
dịch bằng Hiệp ước Véc-xay, thì những phần tử dân tộc cực đoan càng trở
nên hung hãn, kích động tâm lý phục thù để lôi kéo cả dân tộc Đức vào
cuộc chiến tranh mới - chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945).
Hít-le vốn chỉ là lính đen một tên cảnh sát. Hắn trở thành quốc trưởng
nước Đức phát-xít chỉ vì đã lừa bịp được nhân dân Đức bằng những khẩu
hiệu đánh trúng vào tâm lý bất mãn chính đáng của từng tầng lớp xã hội
và cả dân tộc Đức. Năm 1919, Hít-le và đồng bọn thành lập Đảng Quốc xã
(National sozialistiche_ Nazi) nấp dưới chiêu bài "Quốc gia", "xã hội",
hò hét "giải phóng nước Đức khỏi sự nô dịch của Hiệp ước Véc-xay", "giải
phóng giai cấp công nhân Đức khỏi sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản",
"đưa nông dân Đức tới những vùng đất phì nhiêu mênh mông", "đưa thanh
niên Đức tới một tương lai xán lạn, ở đó mọi người có thể phát huy tài
năng và trí tuệ" v.v.. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 - 1932
làm cho cạnh tranh giữa các đế quốc trở nên cực kỳ gay gắt và nước Đức
ráo riết chuẩn bị chiến tranh. Đó là thời cơ để bọn phát xít Hít-le lên
cầm quyền, biến nước Đức thành một "trại lính" và "lò đúc súng", biến
thanh niên Đức thành những "cỗ máy giết người" có thể phạm bất cứ tội ác
nào miễn là đặt được sự thống trị của nòi giống Giéc-manh lên toàn thế
giới. Ở nước Ý, đảng phát-xít của Mút-sô-li-ni (chính thức thành lập năm
1921) cũng đã đưa ra những khẩu hiệu mị dân để mê hoặc và lôi kéo quần
chúng, lên cầm quyền từ năm 1922, dùng "bàn tay sắt và máu" đàn áp trong
nước và chuẩn bị chiến tranh thế giới. Cùng lúc đó, Nhật Bản dưới chế
độ quân phiệt Thiên Hoàng cũng đã tung ra thuyết "Đại Đông Á" lừa mị cả
dân tộc Nhật lao vào một cuộc chiến tranh "giải phóng giống da vàng".
Có thể nói rằng, bọn phát
xít Đức - Ý - Nhật phát động được chiến tranh trước hết là do chúng đã
lừa bịp được quần chúng trong nước, đã đầu độc được một bộ phận người
dân, nhất là thanh niên, bằng tư tưởng Sô-vanh. Tư liệu lịch sử còn ghi
lại những cuộc duyệt binh, những cảnh diễn thuyết của Hít-le trước sự
hưởng ứng cuồng nhiệt của hàng triệu dân Đức, nhất là thanh niên và học
sinh. Chính vì bị lừa bịp, mê hoặc bằng tư tưởng hiếu chiến mà hàng chục
triệu thanh niên là binh lính nước Đức, Ý, Nhật đã phơi thây trên các
chiến trường, đã bị lợi dụng để gây nên cuộc “đại tàn sát” man rợ nhất
trong lịch sử loài người... Trải qua cơn ác mộng lịch sử ấy, ngày nay
người dân các nước Đức, Ý, Nhật hơn ai hết thấu hiểu giá trị của hoà
bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc, và càng nhận thức rõ chân lý:
một dân tộc bị lôi kéo gây chiến xâm lược dân tộc khác, dân tộc đó sẽ
không có hoà bình và hạnh phúc.
Tuy nhiên, bọn phát-xít
sẽ không thực hiện được âm mưu gây chiến tranh thế giới, hoặc lò lửa
chiến tranh có thể bị dập tắt ngay từ khi chúng mới nhen nhóm, nếu nhân
dân và chính phủ các nước trên thế giới thực sự đoàn kết lại trong một
mặt trận bảo vệ hoà bình và kịp thời chặn đứng bàn tay của bọn gây
chiến. Tương quan lực lượng lúc bấy giờ cho phép Liên Xô và các nước dân
chủ phương Tây, Mỹ, Anh, Pháp v.v.. hoàn toàn có khả năng chặn đứng
hành động gây chiến của phát xít Hít-le ngay từ khi chúng khởi sự xâm
lược Tiệp Khắc (tháng 8-1938). Nhưng lực lượng chống phát-xít đã không
tập hợp được do đàm phán giữa Liên Xô với Anh, Pháp (đứng sau là Mỹ)
không đi đến kết quả, đã tạo thời cơ cho Hít-le mở cuộc tấn công Ba Lan,
sau đó chuyển sang hướng Tây tập trung tấn công đánh chiếm châu Âu tư
bản, rồi quay sang phía Đông tấn công xâm lược Liên Xô.
Tuy nhiên, nhờ có "Mặt
trận đồng minh chống phát-xít", chính thức ra đời vào ngày 1-1-1942 đã
tạo điều kiện cho các lực lượng chống phát-xít trên toàn cầu hợp đồng
tác chiến và giành thắng lợi. Chiến thắng phát-xít là chiến công chung
của toàn nhân loại, trong đó có vai trò quan trọng của Liên Xô, là chiến
thắng của nền văn minh toàn nhân loại, gắn liền với sự sống còn của tất
cả các dân tộc, gắn liền với lợi ích của tất cả các quốc gia. Nếu chủ
nghĩa phát-xít không bị đánh bại thì thảm hoạ khủng khiếp sẽ bao trùm
toàn thế giới, tất cả các nền văn minh sẽ bị huỷ diệt, tất cả dân tộc
đều bị nô dịch, các quốc gia đều bị diệt vong. Nếu các nhà lãnh đạo các
quốc gia, nhất là các cường quốc, sớm nhận thức được điều đó, bỏ qua
những tính toán hẹp hòi trước mắt, xuất phát từ tầm cao chiến lược, thực
sự đoàn kết lại trong Mặt trận Đồng minh dân chủ và kịp thời hành động,
thì có lẽ nhân dân thế giới đã tránh được những thảm hoạ kinh hoàng
trong chiến tranh thế giới thứ hai. Nhưng may mắn là thực tế chiến tranh
khi mới nổ ra đã làm cho các nhà lãnh đạo các cường quốc tỉnh ngộ, cùng
nhau hiệp đồng chiến đấu trong Mặt trận Đồng minh, xoay chuyển được cục
diện cuộc chiến để đi đến thắng lợi cuối cùng. Nghiên cứu lịch sử chiến
tranh chống phát-xít ngày nay không nên quá chú tâm vào việc tranh công
chiến thắng, mà nên tập trung vào bài học đoàn kết quốc tế nhằm mục
tiêu ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, giữ vững hoà bình thế giới.
Cùng phấn đấu cho một nền hoà bình bền vững
Chiến tranh chống
phát-xít kết thúc, các bên trong Mặt trận Đồng minh chống phát xít lại
đối địch nhau, tạo nên cục diện chiến tranh lạnh với sự đối đầu Xô - Mỹ
kéo dài suốt 35 năm. Một số nước phương Tây sau khi được giải phóng khỏi
sự chiếm đóng của phát-xít Đức, lại đem quân đi đàn áp phong trào giải
phóng dân tộc tại các nước từng bị họ xâm chiếm. Nhưng xu thế hoà bình,
độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội ngày càng lớn mạnh và không thể nào
ngăn nổi. Sự thay đổi cán cân so sánh lực lượng giữa các cường quốc sau
chiến tranh thế giới thứ hai đã tạo ra nguy cơ của một cuộc chiến tranh
thế giới mới. Nhưng chính sự thay đổi cán cân so sánh giữa thế lực gây
chiến và lực lượng bảo vệ hoà bình đã tạo ra sức mạnh ngăn chặn được
nguy cơ chiến tranh thế giới mới, mặc dầu những cuộc chiến tranh và xung
đột vũ trang cục bộ vẫn liên tục xảy ra.
Chiến tranh lạnh kết
thúc, xu thế hoà bình và hợp tác phát triển đã trở thành dòng chảy chủ
đạo trong quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế thế giới,
các nước lớn đã điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng thoả hiệp và
hợp tác phát triển. Tuy nhiên, cạnh tranh chiến lược địa - chính trị,
địa - kinh tế không vì thế mà suy giảm. Trong nhiều trường hợp, cuộc
cạnh tranh đó không thể hiện một cách trực diện trong quan hệ giữa các
nước lớn, mà bộc lộ một cách gián tiếp trong xung đột quân sự tại các
khu vực ngoại biên (các nước nhỏ), từ đó làm bùng nổ các cuộc chiến cụ
bộ, làm xuất hiện các "điểm nóng" tiềm ẩn nguy cơ chiến tranh. Chiến
tranh Vùng Vịnh năm 1990, cuộc chiến liên quan đến sự kiện Cô-xô-vô năm
1999, xung đột quân sự kéo dài giữa I-xra-en và Pa-le-xtin từ nhiều năm
nay, vấn đề hạt nhân I-ran, vấn đề phi hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên,
vấn đề Đài Loan, vấn đề Biển Đông v.v.. đều có liên quan đến cạnh tranh
chiến lược giữa các cường quốc.
Trong khi đó, bước sang
thế kỷ XXI, loài người lại đứng trước nguy cơ những hiểm hoạ phi truyền
thống: chủ nghĩa khủng bố quốc tế, thiên tai, dịch bệnh. Ứng phó với
những hiểm hoạ ấy là trách nhiệm chung của toàn nhân loại, vì lợi ích
của tất cả các quốc gia, trong đó các nước lớn có nghĩa vụ phải gánh vác
phần chủ yếu. Hiện đã có vai trò của Liên hợp quốc và những cơ chế quốc
tế giải quyết các vấn đề "điểm nóng" như cơ chế "4 bên" về vấn đề xung
đột I-xra-en – Pa-le-xtin (gồm Liên hợp quốc, Mỹ, EU, và Nga); cơ chế
giải quyết vấn đề hạt nhân Iran "5 + 1" (5 nước thường trực Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc + Đức), cơ chế giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo
Triều Tiên bằng "đàm phán 6 bên" (CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, Trung
Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Nga) v.v.. Trong các quan hệ song phương quan trọng
và nhạy cảm như quan hệ giữa Nga và EU, NATO, quan hệ Trung - Mỹ v.v..
cũng đã hình thành những cơ chế đối thoại. Trong các vấn đề toàn cầu
cũng đã có những cơ chế hoạt động phối hợp, gần đây nhất là Hội nghị
quốc tế về biến đổi khí hậu tại Cô-pen-ha-ghen (Đan Mạch) tháng 12-2009.
Thế nhưng, trong khi đối phó với những nguy cơ an ninh chung đó, giữa
các cường quốc cũng đã bộc lộ những mâu thuẫn do tính toán lợi ích
riêng, hạn chế kết quả phối hợp để giải quyết vấn đề chung. Thể hiện
nghiêm trọng nhất là sự kiện Cô-xô-vô năm 1999 với chủ thuyết "nhân
quyền cao hơn chủ quyền", và hai cuộc chiến tranh Áp-ga-ni-xtan và I-rắc
với hành động đơn phương của Mỹ bất chấp vai trò của Liên hợp quốc.
Tình hình trên cho thấy,
ngày nay đã xuất hiện những nhân tố thuận lợi trong việc ngăn chặn nguy
cơ chiến tranh thế giới, nhưng mặt khác cạnh tranh chiến lược giữa các
nước lớn đã gây ra, hoặc khó ngăn chặn được chiến tranh và xung đột khu
vực, làm tiềm ẩn những nguy cơ khó lường.
Vũ khí hạt nhân là một
sản phẩm chiến tranh đặc biệt trong thời đại toàn cầu hóa. Nước Mỹ đã
làm ra bom nguyên tử để diệt đối thủ trong chiến tranh và khống chế thế
giới sau chiến tranh. Nhưng sau khi việc khó cấm nổi "phổ biến vũ khí
hạt nhân", thì đây không chỉ là mối hiểm hoạ treo lơ lửng trên đầu nhân
loại, mà cũng là mối đe doạ nghiêm trọng đối với nước Mỹ trong trường
hợp vũ khi này rơi vào tay bọn khủng bố quốc tế. Việc ký kết "Hiệp định
cắt giảm vũ khí chiến lược - START II" giữa Mỹ và Nga ngày 8-4-2010 vừa
qua là một nỗ lực theo hướng giảm bớt nguy cơ chiến tranh hạt nhân. Mỹ
và Nga sở hữu tới 95% số vũ khí hạt nhân trên thế giới. Theo quy định
trong START II, số đầu đạn hạt nhân sẽ giảm 30% và các loại phương tiện
chuyên chở đầu đạn hạt nhân sẽ giảm một nửa so với START I. Hy vọng Hiệp
định sau khi được ký kết giữa Tổng thống B.Ô-ba-ma và Tổng thống
Đ.Mét-vê-đép sẽ được Quốc hội Mỹ và Đu-ma quốc gia Nga phê chuẩn. Hội
nghị Thượng đỉnh về an ninh hạt nhân tại Oa-sinh-tơn (với sự tham gia
của lãnh đạo 47 nước, trong đó có Việt Nam trong 2 ngày 12 đến
13-4-2010) cũng đã thể hiện tầm quan trọng và tính cấp bách của vấn đề
ngăn chặn nguy cơ hạt nhân toàn cầu. Tuy nhiên, việc phê chuẩn và thực
thi START II không phải là không còn khó khăn, nhất là điều khoản liên
quan đến hệ thống phòng thủ tên lửa (NMD) mà Mỹ định bố trí tại Đông Âu
và các nơi khác. Tổng thống B.Ô-ba-ma đã nói đến ý tưởng về "một thế
giới không có vũ khí hạt nhân". Nhưng viễn cảnh lý tưởng đó có trở thành
hiện thực hay không, còn phải xem hành động cụ thể của các cường quốc
hạt nhân, sự phối hợp hành động của các lực lượng hoà bình trên toàn thế
giới.
*
* *
Kỷ niệm 65 năm ngày chiến
thắng phát-xít (1945 - 2010) là dịp nhân dân thế giới nhớ lại và suy
ngẫm về những bài học lịch sử từ cuộc chiến tranh đó, để cùng nhau phấn
đấu cho một nền hoà bình, tình hữu nghị và sự hợp tác giữa các dân tộc,
vĩnh viễn loại trừ chiến tranh thế giới ra khỏi cuộc sống của loài
người.
Thế giới ngày nay đã có
những thay đổi lớn lao so với thế giới trước chiến tranh thế giới thứ
hai. Đó là sự tăng cường hợp tác, cùng phát triển; đối thoại thay cho
đối đầu giữa các quốc gia; những thay đổi lớn lao trong sự thức tỉnh của
con người về chiến tranh và hoà bình. Các thế lực hiếu chiến cực đoan
không dễ gì lừa mị nhân dân lao vào con đường gây chiến ngông cuồng như
bọn phát xít trước kia; phong trào hoà bình thế giới đã lớn mạnh có thể
tạo nên sức mạnh tổng hợp để kịp thời ngăn chặn nguy cơ chiến tranh thế
giới. Tuy nhiên, bài học cảnh giác qua vẫn luôn có ý nghĩa. Các nguy cơ
tiềm ẩn tại các “điểm nóng” trên thế giới hiện nay nếu không được giải
quyết thoả đáng, ngăn chặn kịp thời thì hậu quả sẽ khôn lường.
Lịch sử qua đi nhưng
không cho phép ai lãng quên quá khứ và những bài học xương máu, bởi nó
sẽ giúp nhân dân các nước thêm cảnh giác, quyết tâm, và lòng tin vào sự
nghiệp đấu tranh cho một thế giới hoà bình bền vững. Nói như Thủ tướng
Ba Lan Đô-nan Tu-scơ nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày nổ ra cuộc chiến tranh
thế giới thứ hai: chúng ta đều hiểu rất rõ rằng ký ức về sự hung tàn,
về sự diệt chủng sẽ là lá chắn quan trọng nhất, hiệu quả nhất chống lại
nguy cơ của cuộc chiến tranh tiếp theo. Thủ tướng Nga V.Pu-tin cũng nhấn
mạnh rằng cần phân tích kỹ những sự kiện trong chiến tranh thế giới thứ
hai, từ đó rút ra bài học cần thiết để không bao giờ cho phép tái diễn
một thảm kịch tương tự.(1)
_____________________________________________________________________________________________
PGS.TSNguyễn Huy Quý
TCCS: Số 9 (201) năm 2010