Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2011

40. Về vấn đề đào tạo và sử dụng nhân tài ở nước ta hiện nay

TCCS - Thực tiễn cho thấy, quốc gia nào đi tiên phong trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và giáo dục, nước đó sẽ dẫn đầu trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. Vậy làm thế nào để đào tạo và thu hút đội ngũ nhân tài để họ có thể phục vụ một cách tốt nhất cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước, đây là một bài toán khó luôn được các quốc gia đặt lên hàng đầu để tìm lời giải.
Cuộc chạy đua thu hút nhân tài trên thế giới
Cùng với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế tri thức, cuộc chạy đua tranh giành nguồn lực nhân tài giữa các quốc gia ngày càng diễn ra quyết liệt. Hầu hết các nước trên thế giới đều coi “chiến lược nhân tài” là quốc sách quan trọng, không ngừng phát triển nguồn lực nhân tài trong nước, bảo đảm an ninh nhân tài cho quốc gia. Song song với việc đẩy mạnh công tác đào tạo và bảo vệ nguồn tài nguyên nhân tài, các nước còn ban hành nhiều chính sách ưu đãi nhằm thực thi chiến lược tranh giành nhân tài, tạo nên một cuộc đua “giành giật” nhân tài gay gắt trên phạm vi toàn cầu.
Biến động rõ nét nhất của sự dịch chuyển nhân tài thế giới là, các quốc gia như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ca-na-đa và một số nước phát triển ở Đông Âu là những nước “nhập khẩu” nhân tài chủ yếu, còn các nước đang phát triển lại là nguồn “xuất khẩu” nhân tài quan trọng. Theo thống kê, từ thập niên 60 đến thập niên 90 của thế kỷ XX, đã có trên hai triệu người có trình độ khoa học kỹ thuật cao ở các nước đang phát triển di cư sang các nước phát triển. Các nước phương Tây như một “ống hút” khổng lồ không ngừng “hút” nguồn chất xám từ các nước đang phát triển bằng cách thu hút các nhân tài trẻ sang đất nước họ học tập, rồi sau đó giữ lại làm việc. Năm 2009, trong số những nghiên cứu sinh đang theo học nhóm ngành tự nhiên ở Mỹ, tỷ lệ du học sinh nước ngoài chiếm tới 27,8%, tỷ lệ du học sinh nước ngoài tốt nghiệp tiến sĩ (người không có quốc tịch Mỹ) lên tới 32,8%. Còn ở Pháp, năm 2009, trong số nghiên cứu sinh theo học nhóm ngành tự nhiên, có tới 26,3% là du học sinh nước ngoài.
Trong cuộc chiến giành nhân tài, Mỹ là quốc gia đóng vai trò chủ đạo. Chiến lược mà Mỹ áp dụng là thu hút nhân tài trên phạm vi toàn cầu. Các đời tổng thống Mỹ đều tích cực đề cao chiến lược “ưu tiên cho giáo dục”, “đầu tư cho con người” và xây dựng “cường quốc trí tuệ”. Dựa vào thế mạnh kinh tế có một không hai của mình và thông qua chính sách di dân mở cửa, Mỹ đã thu hút được một đội ngũ nhân tài hùng hậu phục vụ cho đất nước. Theo thống kê, mỗi năm toàn thế giới có 1,5 triệu du học sinh, trong đó có 48.000 du học sinh học tập và nghiên cứu ở Mỹ. Từ năm 1993 đến năm 2005, Mỹ đã tiếp nhận 900.000 nhà khoa học và kỹ sư của nước ngoài sang Mỹ làm việc. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB), trong vòng 10 năm (1969 -1979), Mỹ đã tiếp nhận gần 500.000 nhân tài nước ngoài có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, trong đó có 3/4 số người đến từ các nước đang phát triển, trong số này, có 1/2 số người đến từ châu á. Tháng 5-2000, Tổng thống Mỹ B.Clin-tơn đã trình lên Quốc hội Mỹ Chương trình “nhập khẩu” nhân tài, theo đó, từ năm 2001 - 2003, mỗi năm số nhân tài nước ngoài có trình độ kỹ thuật cao mà Mỹ tiếp nhận sẽ tăng từ 115.000 người lên 200.000 người, và từ năm 2001 đến 2010, Mỹ sẽ thu hút 1 triệu nhân tài có trình độ kỹ thuật cao từ các quốc gia khác vào đất nước mình. Chính phủ Mỹ cho phép mỗi năm có 6.000 nhà khoa học nổi tiếng và các chuyên gia cao cấp của nước ngoài được định cư hợp pháp vào Mỹ.
Ngược lại với Mỹ, các quốc gia và khu vực phát triển khác, một mặt, vừa thu hút nhân tài từ các nước đang phát triển; mặt khác, cũng phải đối mặt với tình trạng “chảy máu” chất xám. Theo thống kê của Hội đồng châu Âu (EC), năm 2005, số nhân tài của EC vào Mỹ chiếm 15% tổng số nhân tài của các nước vào Mỹ, trong đó tình trạng “chảy máu” chất xám ở Anh là nghiêm trọng nhất, 25% số hội viên có quốc tịch Anh trong Hội Hoàng gia Anh đang làm việc ở nước ngoài. Đến năm 2008, có khoảng 400.000 chuyên gia cao cấp của Liên minh châu Âu (EU) đang làm việc ở Mỹ. Báo cáo chỉ tiêu khoa học kỹ thuật của EU năm 2008 đã chỉ ra rằng, 75% chuyên viên cao cấp mang quốc tịch châu Âu muốn tiếp tục ở lại Mỹ làm việc. Theo điều tra của Hiệp hội nghiên cứu sinh Ô-xtrây-li-a, tình trạng “chảy máu” chất xám ở quốc gia này đang gia tăng với tốc độ 10% mỗi năm, chỉ riêng năm 2007, 65% số nghiên cứu sinh thuộc nhóm ngành khoa học tự nhiên của quốc gia này ra nước ngoài làm việc sau khi tốt nghiệp.
Năm 1998, Mỹ thông qua Luật về sức cạnh tranh nhằm tăng cường lực lượng nhân tài cho nước Mỹ. Thực chất của Luật về sức cạnh tranh là đẩy nhanh quá trình tranh giành nhân tài trên thế giới, nhất là nguồn lực nhân tài ở các nước đang phát triển.
Một quy luật biến động nhân tài phổ biến khác là nhân tài từ các quốc gia (hoặc khu vực) có chế độ chính trị - xã hội không ổn định dồn về các quốc gia (hoặc khu vực) có môi trường chính trị - xã hội tương đối ổn định. Theo thống kê, chỉ riêng 7 tháng đầu năm 1992, có 107.000 chuyên gia của Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) được phê chuẩn định cư ở nước ngoài, trong đó 48.000 người sang Cộng hòa Liên bang Đức, 43.000 người sang I-xra-en, 8.500 người sang Mỹ, 3.400 người sang Hy Lạp. Một con số thống kê khác cũng cho thấy, sau khi Liên Xô giải thể, năm 1991, Mỹ và Nhật Bản đã “cướp mất” 90.000 chuyên gia của SNG, trong đó có hơn 2.000 chuyên gia hạt nhân cao cấp bị Mỹ “phỗng tay trên”. Đến cuối năm 1999, Nga có 30.000 chuyên gia kỹ thuật di cư ra nước ngoài.
Ngoài những quy luật phổ biến nói trên, một quy luật biến động mới của thị trường nhân tài là các công ty xuyên quốc gia của phương Tây xây dựng trung tâm nghiên cứu công nghệ cao ở nước bản địa để thu hút nguồn lực nhân tài của quốc gia đó phục vụ cho họ. Kết quả điều tra đối với 10 trung tâm nghiên cứu công nghệ cao xuyên quốc gia ở thành phố Thượng Hải (Trung Quốc) cho thấy, năm 2008, tỷ lệ nghiên cứu viên người Trung Quốc và người nước ngoài là 40:1. Một cuộc điều tra với 164 trung tâm nghiên cứu công nghệ cao ở Bắc Kinh năm 2008 cho thấy, các trung tâm này tổng cộng tuyển dụng 22.000 nghiên cứu viên Trung Quốc, trong đó có 8.000 thạc sĩ và tiến sĩ, chiếm hơn 36%. Hiện tượng “đầu quân” cho công ty nước ngoài là rất phổ biến ở các nước đang phát triển, điều này vô hình trung đã khiến nguồn chất xám của các quốc gia đang phát triển “chảy máu” một cách nghiêm trọng.
Giữ chân nhân tài: Không còn là chuyện nhỏ
Sách Xanh năm 2007 của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc viết: 28 năm trở lại đây, tỷ lệ du học sinh Trung Quốc học tập ở nước ngoài về nước làm việc chỉ đạt 25,77%, trong khi đó hơn 70% số sinh viên Trung Quốc đi du học đều ở lại nước ngoài làm việc. Theo thống kê, từ đầu thập niên 70 đến giữa thập niên 90 của thế kỷ XX, Mỹ đã thu hút được hơn 200.000 nhân tài là các chuyên gia cao cấp sang Mỹ làm việc. Sử dụng mỗi chuyên gia người nước ngoài làm việc cho mình, Mỹ tiết kiệm được 40.000 USD kinh phí đào tạo, như vậy chỉ riêng chi phí giáo dục mà Mỹ tiết kiệm được đã lên tới 80 tỉ USD, và nếu tính trong vòng 20 năm, đội ngũ nhân tài này đem lại ít nhất 60 tỉ USD thu nhập cho nước Mỹ.
Vài năm gần đây, các nước phát triển đã đẩy nhanh tốc độ tranh giành nguồn lực nhân tài, nhiều chính sách nhập cư ưu đãi được các quốc gia ban hành để thu hút những người có năng lực vào nước mình làm việc. Các nước trong EU như Pháp, Đức, Ai-len, Thụy Điển, Anh đã áp dụng chính sách di dân tiện lợi để thu hút nhân tài có trình độ kỹ thuật cao, đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ thông tin. Tháng 10-2007, EU đã ban hành “Thẻ Xanh” để cạnh tranh với Thẻ cư trú vô thời hạn “Thẻ Xanh” của Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhân tài có trình độ kỹ thuật cao nhập cư vào EU.
Trước cuộc tranh giành nhân tài gay gắt của Mỹ, Chính phủ Nga cũng áp dụng nhiều biện pháp để bảo vệ nguồn nhân tài trong nước. Nguồn kinh phí đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học và giáo dục của Nga không ngừng gia tăng, dự toán ngân sách của Viện Hàn lâm khoa học Nga vài năm gần đây tăng trên 20%/năm. Chính phủ Nga đã nâng cao mức đãi ngộ vật chất và an sinh xã hội cho đội ngũ các nhà nghiên cứu khoa học trong nước, đồng thời mở rộng quy mô xây dựng nhà ở cho các nhà khoa học trẻ. Ngoài ra, Chính phủ Nga còn áp dụng những biện pháp cụ thể để ngăn chặn tình trạng “chảy máu” chất xám như hạn chế những chuyên gia đầu ngành ra nước ngoài làm việc, khuyến khích các nhà doanh nghiệp và chính phủ hỗ trợ các học giả trẻ bằng nhiều hình thức khác nhau...
Cũng giống Nga, vài năm gần đây Chính phủ Ấn Độ đang nỗ lực thông qua nhiều chính sách để tạo môi trường phát triển thuận lợi cho đội ngũ học giả đang làm việc ở nước ngoài về nước làm việc. Chính phủ Ấn Độ đã xây dựng nhiều trung tâm kỹ thuật cao ở các thành phố mới nổi, như Ben-ga-lu-ru, Hy-đê-ra-bát và khuyến khích đội ngũ nhân tài có trình độ kỹ thuật cao về nước làm việc. Hiện nay, nhiều nhân tài Ấn Độ sang trung tâm công nghệ cao Sillicon Valley (Mỹ) làm việc đã mang theo vốn và kỹ thuật quản lý hiện đại từ Mỹ về các trung tâm kỹ thuật cao của Ấn Độ để đầu tư, đem lại nguồn sinh lực mới cho ngành công nghệ thông tin của quốc gia này. Bắt đầu từ năm 2003, mỗi năm Chính phủ Ấn Độ tổ chức “Ngày người Ấn Độ ở nước ngoài” với quy mô lớn nhằm kêu gọi, thu hút người Ấn Độ ở nước ngoài góp tiền, góp sức cho công cuộc xây dựng đất nước. Còn đối với Trung Quốc, để ngăn chặn tình trạng chảy máu chất xám đang diễn ra nghiêm trọng, hằng năm, Chính phủ Trung Quốc đều trao một giải thưởng cao quý nhất nhằm vinh danh nhà khoa học có cống hiến lớn lao nhất cho đất nước trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật với trị giá lên tới 5 triệu NDT (tương đương với 15 tỉ VNĐ).
Đôi điều suy nghĩ về việc sử dụng nhân tài ở Việt Nam
Gần đây, một sự kiện lớn được báo chí đề cập nhiều là trường hợp Giáo sư Ngô Bảo Châu của Việt Nam giành được giải thưởng Fields cao quý. Sự kiện này là niềm vinh dự và tự hào lớn lao, vì đây là lần đầu tiên nhà toán học người Việt Nam được thế giới vinh danh. Tuy nhiên, chúng ta và ngay cả bản thân giáo sư Ngô Bảo Châu đều phải thừa nhận rằng, nếu như không được tiếp cận với hai nền giáo dục tiên tiến, được học hỏi, nghiên cứu và giảng dạy tại Pháp và Mỹ - hai cường quốc về khoa học cơ bản, giáo sư Ngô Bảo Châu có thể sẽ không được bước lên đỉnh cao vinh quang của môn toán học - lĩnh vực khoa học chỉ dành cho những bộ óc siêu việt. Khoa học cơ bản không phải là thế mạnh và cũng không phải là nhu cầu bức thiết của các nước đang phát triển vì nhiều lý do dễ hiểu, trong đó có cả lý do kinh tế. Cho dù là nhân tài ở lĩnh vực nào cũng đều mong muốn có môi trường làm việc tốt, được hưởng mức đãi ngộ phù hợp để có thể phát huy tối đa khả năng của mình. Chúng ta cần nắm bắt quy luật biến động của thị trường nhân tài để kiện toàn cơ chế sử dụng nhân tài cho phù hợp, để có thể chiêu nạp hiền tài phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển đất nước. Qua đó, có thể thấy, kinh nghiệm trọng dụng nhân tài của các nước phát triển là bài học quý đối với một nước đang phát triển, có nền kinh tế lạc hậu muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nước như Việt Nam. Do đó, qua sự kiện giáo sư Ngô Bảo Châu được nhận giải Fields và những kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong việc đào tạo và sử dụng nhân tài, có thể khái quát một số điểm sau:
Thứ nhất, cần xóa bỏ quan niệm “gừng càng già càng cay”. Năm 2005, Ngô Bảo Châu, một nhà toán học tài ba được đặc cách phong hàm giáo sư tại Việt Nam và trở thành vị giáo sư trẻ nhất Việt Nam tính đến thời điểm hiện nay. Được đặc cách, có nghĩa là chưa “hội đủ” tiêu chuẩn giáo sư của Việt Nam, mặc dù trước đó Ngô Bảo Châu đã được phong giáo sư tại Đại học Pa-ri VI và Pa-ri XI, đồng thời được nhận giải thưởng của Viện Toán học Clay (Mỹ). Điều đó cho thấy, tiêu chuẩn về học hàm học vị trong hệ thống đại học của chúng ta còn khắt khe và nghiêm ngặt về tuổi tác.
Quan niệm “gừng càng già càng cay” có thể là một chuẩn mực tốt trong một vài lĩnh vực, nhưng trong các lĩnh vực khoa học, văn học và nghệ thuật nó lại là một rào cản lớn cho sự phát triển của những bộ óc sớm bộc lộ tài năng. Hiện nay, ở nhiều nước phát triển trên thế giới đã có nhiều vị “giáo sư thanh niên” bước lên bục giảng đại học từ lúc còn rất trẻ, chưa đến tuổi 30.
Thứ hai, cần thay đổi tư duy về giáo dục. Qua sự kiện Ngô Bảo Châu, đã đến lúc chúng ta cần phải thay đổi lại tư duy giáo dục và xây dựng một cơ chế thích hợp để đào tạo và giữ chân nhân tài, đặc biệt là các nhân tài trẻ có năng lực thực sự. Trường hợp để những nguồn chất xám quý giá như giáo sư Ngô Bảo Châu ra nước ngoài làm việc là một thiệt thòi lớn cho nước nhà. Đào tạo nhân tài đã khó, nhưng giữ chân nhân tài lại càng khó hơn. Hiện nay, chúng ta đã có con số thống kê tương đối chính xác về tỷ lệ lưu học sinh về nước làm việc sau khi đi tu nghiệp ở nước ngoài hay chưa? Phải chăng chúng ta cũng nên xây dựng một cơ chế khích lệ nhân tài cho phù hợp với tình hình đất nước, đặc biệt, hằng năm nên có các giải thưởng dành cho những công trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu với giá trị lớn để khuyến khích các nhà khoa học trong nước có thể dồn nhiều tâm huyết hơn cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Để trong một tương lai không xa, chúng ta lại được vinh dự đón mừng một trí tuệ Việt khác tiếp nhận một giải thưởng uy tín quốc tế với tư cách là một công dân Việt Nam, do Việt Nam đào tạo mà không chỉ là người gốc Việt!
Thứ ba, cần có cơ chế và chính sách linh hoạt trong việc thu hút nhân tài. “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, trong thời đại hiện nay, nhân tài chính là động lực để phát triển đất nước. Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để đào tạo, phát triển và thu hút nhân tài. Nhưng cơ chế hành chính của chúng ta đã tạo ra không ít ràng buộc, do vậy chưa phát huy, tận dụng ở mức cao nhất trí tuệ Việt Nam, cơ chế sử dụng người tài vẫn còn bất cập. Thực tiễn đã chứng minh, bất kỳ lĩnh vực nào, nếu không tạo ra được một cơ chế thích hợp theo đúng quy luật phát triển, nếu người lãnh đạo không biết nhìn nhận, thu hút, trọng dụng nhân tài thì chúng ta không thể sớm tạo ra được sự bứt phá trên nhiều lĩnh vực. Hiện nay nhiều địa phương trên cả nước trọng dụng nhân tài theo kiểu phong trào, cụ thể là địa phương nào cũng có chính sách “trải thảm đỏ” thu hút nhân tài, nhưng không thiết thực, hiệu quả, làm lãng phí nguồn chất xám của đất nước. Ví dụ, tại một số địa phương, hằng năm, có chính sách ưu đãi thu hút sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, thủ khoa, nhưng có không ít người từ chối. Một số người nhận làm việc song rồi lại ra đi sau một thời gian ngắn với lý do là không được phân công theo đúng chuyên ngành đào tạo của họ. Do đó, hiện nay, các địa phương cần căn cứ vào nhiệm vụ và nhu cầu phát triển kinh tê - xã hội của mình để ký những “hợp đồng” cụ thể với những người có năng lực thực sự, đồng thời trả công thỏa đáng cho họ theo cơ chế thị trường. Đặc biệt, ngoài kết quả công việc theo hợp đồng, những người có tài sẽ không bị ràng buộc và chi phối bởi bất cứ yếu tố nào trong quá trình thực hiện công việc của mình. Như vậy, người tài sẽ phát huy được hết khả năng và địa phương cũng có thể giải quyết được rất nhiều vấn đề kinh tế - xã hội đang đặt ra trước mắt.
Thứ tư, chú trọng đầu tư cho đại học, đổi mới công tác quản lý du học sinh. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý du học sinh để bảo đảm số lượng du học sinh sau khi học tập, phần lớn sẽ trở về cống hiến cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Điều quan trọng là chúng ta cũng cần phải có những chiến lược đầu tư thích đáng hơn nữa cho giáo dục nói chung, đặc biệt là giáo dục đại học. Trong bối cảnh hiện nay, cần phải đầu tư xây dựng những trường đại học có khả năng thu hút sinh viên trong nước và quốc tế có nhiều tố chất của một nhân tài.
Ngoài ra, chúng ta cần nhìn nhận một điều sâu xa hơn, đó là Việt Nam có rất nhiều tài năng trên nhiều lĩnh vực. Thực tế những cuộc thi quốc tế nhiều năm qua đã chứng minh điều đó. Nếu những nhân tài được ươm, trồng, phát triển trên những mảnh đất có đủ điều kiện về mọi mặt, được chăm chút bởi những con người có tri thức, có tâm huyết thì chắc chắn Việt Nam không chỉ có một Ngô Bảo Châu, một Đặng Thái Sơn... Và như vậy, nhân tài Việt Nam không chỉ phụng sự đất nước, mà còn cho cả sự phát triển của nhân loại, nhất là trong thời kỳ hội nhập và mở cửa. Như vậy, cần có một “điểm nhìn” và tạo ra những cơ chế mới để trọng dụng và thu hút nhân tài trong bối cảnh hiện nay./.
Nguyễn Thành Lợi
Số 2 (218) năm 2011