TCCS - Tổng thống Mỹ
B.Ô-ba-ma chủ trương “Đổi mới sự lãnh đạo của Mỹ” trên tất cả các lĩnh
vực quân sự, ngoại giao, đạo lý… để đối mặt với những mối đe dọa mới và
nắm bắt các cơ may mới của thế kỷ XXI. Mặc dù “khoảnh khắc siêu cường
duy nhất của Mỹ chưa hết”, nhưng trong tình hình thế giới và nước Mỹ
biến đổi mau lẹ “Mỹ không thể một mình đối mặt với các thách thức của
thế kỷ” (1).
Các văn kiện chiến lược
do Mỹ công bố vào đầu năm 2010, trong đó quan trọng nhất là Chiến lược
an ninh quốc gia NSS (27/5A), Đánh giá quốc phòng 4 năm QDR (1/2) và
Đánh giá tư thế hạt nhân NPR (1/3), đã cụ thể hóa ý đồ chiến lược của
chính quyền B.Ô-ba-ma.
“Không nước nào - dù lớn mạnh đến mấy - có thể một mình đối phó được với các thách thức toàn cầu”
Đó là kết luận rất quan
trọng rút ra sau khi đánh giá môi trường chiến lược an ninh thế giới và
vai trò của Mỹ trong nhiều thập niên qua, nhất là thời kỳ sau Chiến
tranh lạnh (2).
Theo đánh giá của chiến
lược gia Mỹ, ngót một thập niên qua, nước này luôn trong tình trạng
chiến tranh và đối diện với nhiều mối đe dọa từ các quốc gia, các phần
tử phi quốc gia và từ các nước thất bại. Mối đe dọa nguy hiểm nhất với
Mỹ là các vũ khí hủy diệt hàng loạt, đặc biệt mối nguy cơ đặt ra đối với
việc tìm kiếm vũ khí hạt nhân của các phần tử quá khích và sự phổ biến
vũ khí hạt nhân cho các nước khác.
Người Mỹ cũng hiểu ra
rằng, sự tiến bộ vượt bậc của khoa học - công nghệ, thị trường mở cửa,
hòa dịu đã tạo ra nhiều cơ may cho mọi người. Tuy nhiên, toàn cầu hóa
cũng làm gia tăng các nguy cơ cho nước Mỹ - từ khủng bố quốc tế và phổ
biến các công nghệ chết người cho đến khủng hoảng kinh tế và sự biến đổi
khí hậu.
Sự tăng trưởng kinh tế
giúp giảm bớt đói nghèo và dẫn đến sự nổi lên của các trung tâm quyền
lực mới; có thêm nhiều nước tự khẳng định mình là cường quốc khu vực hay
toàn cầu. Nước Mỹ vẫn có sức mạnh đóng vai trò lãnh đạo trong nhiều
thập niên, Mỹ có nền kinh tế lớn nhất và lực lượng quân sự mạnh nhất,
nhiều liên minh mạnh và một nền văn hóa với nhiều sản phẩm hấp dẫn. Mỹ
cũng có truyền thống hành động hợp tác đa phương trong những liên minh
mạnh sau Chiến tranh thế giới thứ hai và giúp Mỹ “chiến thắng” trong
Chiến tranh lạnh; “người lính Mỹ và công dân Mỹ không thể đơn độc chịu
đòn gánh nặng của thế kỷ và lực lượng Mỹ không thể bị căng kéo dàn mỏng
quá mức và bị hủy hoại như kẻ thù của Mỹ mong đợi” (3).
Trước thực trạng thế giới
biến động và phức tạp, chủ trương của Mỹ là bằng mọi cách tăng cường
khả năng và nền tảng kinh tế, quân sự, tinh thần cho sự đổi mới lãnh đạo
của Mỹ, thực hiện chiến lược đối ngoại toàn cầu can dự toàn diện
(comprehensive engagement) và thiết lập một trật tự quốc tế do Mỹ chi
phối đủ sức giải quyết các thách thức của thế kỷ và bảo đảm hòa bình an
ninh và hợp tác quốc tế cho Mỹ, liên minh và các đối tác.
Ngoại giao “can dự toàn diện”
Bước sang thế kỷ thứ XXI
đã diễn ra những biến động lớn trong cục diện địa chính trị - quân sự
thế giới bằng sự sụp đổ của trật tự “đơn cực”, sự trỗi dậy mạnh mẽ của
Trung Quốc, Ấn Độ, Nga và nhiều nước ở Á - Phi, Mỹ La-tinh. Bên cạnh sự
hợp tác giữa các mô hình phát triển nổi lên sự cạnh tranh và xung đột
địa chính trị ngày càng gay gắt, nhất là giữa các nước lớn. Đây có thể
là dấu hiệu cảnh báo trước về một kỷ nguyên tranh giành ảnh hưởng khu
vực và giành giật những tài nguyên quý hiếm, biển đảo giữa các nước lớn
và các tập đoàn liên kết khu vực với những kết cục khó lường hết.
Trước tình hình thế giới
và nước Mỹ đang thay đổi, các lựa chọn chiến lược của Mỹ là hoặc để thế
giới thích nghi với Mỹ hay để Mỹ thích nghi với thế giới?
Chính quyền G. Bu-sơ từng
mưu đồ dùng ưu thế sức mạnh vượt bậc ở trên đỉnh cao của Mỹ để khiến
thế giới thích nghi với Mỹ và áp đặt mô hình xã hội và giá trị Mỹ đối
với các nước, nhưng đã thất bại. Chính quyền B.Ô-ba-ma trong Chiến lược
an ninh quốc gia NSS (27/5A) đã xác định phải “nhìn nhận thế giới thực
như nó có” và vạch ra một chiến lược vừa thích nghi, vừa cải biến nó
theo hướng Mỹ mong muốn. Chiến lược ngoại giao can dự toàn diện đoạn
tuyệt với ngoại giao liên minh, ý thức hệ, đơn phương của chính quyền
tiền nhiệm.
Ngoại giao can dự toàn
diện không chỉ can dự với các quốc gia mà cả với các thể chế và dân
chúng toàn thế giới trên nền tảng “lợi ích chung và tôn trọng lẫn nhau”.
Ưu tiên trong chính sách
đối ngoại trước hết với các liên minh, hợp tác chặt chẽ và thường xuyên
với Anh, Pháp, Đức về các vấn đề quốc tế cùng quan tâm, tăng cường và đề
ra chiến lược mới của NATO; chuyển trọng tâm sang G20 như là diễn đàn
hàng đầu về hợp tác kinh tế, làm sâu sắc thêm sự hợp tác với các trung
tâm ảnh hưởng thế kỷ XXI - bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ và Nga. Ngoài ra,
tìm kiếm sự hợp tác xây dựng với các đối tác mới nổi ở khắp các khu vực
trên thế giới, chú trọng các nước Bra-xin, In-đô-nê-xi-a và Nam Phi.
Đối với các nước đối
địch, thông qua quan hệ tiếp xúc, đối thoại tạo ra cơ hội giải quyết sự
khác biệt và sẽ cô lập họ nếu không nhận được sự đáp trả như với I-ran,
Xy-ri, Mi-an-ma, CHDCND Triều Tiên, nới lỏng một số quy định cấm vận với
Cu-ba.
Mỹ tiếp tục theo đuổi đối
thoại hòa bình ở Trung Đông nhằm bảo đảm an ninh cho I-xra-en và thiết
lập nên một nhà nước Pa-le-xtin độc lập, Mỹ tán thành việc thiết lập khu
vực phi hạt nhân ở Trung Đông bao gồm cả I-xra-en, Mỹ cũng tìm cách
phát triển quan hệ đối tác với các cộng đồng Hồi giáo trên thế giới. Mỹ
tiếp tục sử dụng linh hoạt các thành tố tạo thành sức mạnh quốc qua một
cách “thông minh” để đạt được kết quả trong can dự toàn diện với các
nước.
Ngoại giao bao gồm ngoại
giao chính trị, quân sự, kinh tế và ngoại giao nhân dân có tầm quan
trọng ngang như sức mạnh quân sự. Kết hợp chặt chẽ hoạt động của binh sĩ
ở chiến trường với các nhà ngoại giao và các nhà phát triển để thu được
thắng lợi trong các cuộc chiến tranh, trước mắt trọng tâm là
Áp-ga-ni-xtan, Pa-ki-xtan và cuộc chiến nhằm “phá vỡ, làm tan rã và đánh
bại An Kê-đa và đồng bọn trên khắp toàn cầu”. Mỹ đã rút quân chiến đấu
khỏi I-rắc vào tháng 8-2010 và chỉ để lại khoảng 40.000 - 50.000 quân
huấn luyện, cố vấn chuyên gia, biệt kích, tình báo hỗ trợ quân I-rắc và
sẽ rút hết số quân còn lại vào cuối năm 2011. Quân Mỹ và NATO gia tăng
mạnh mẽ các chiến dịch truy quét quân Ta-li-ban làm cho chúng suy yếu
không còn khả năng lật đổ chính phủ của Tổng thống Ka-dai hiện nay, đồng
thời gấp rút xây dựng quân đội và chính quyền Áp-ga-ni-xtan tạo điều
kiện cho quân chiến đấu Mỹ bắt đầu rút khỏi nước này từ tháng 7-2011.
Ngoại giao can dự toàn
diện của Mỹ còn nhằm mục tiêu tìm kiếm trật tự thế giới do Mỹ chi phối,
lãnh đạo. Đó là trật tự thế giới nào? Ngày 22-5-2010, tại Trường Võ bị
lục quân Oét-poanh, ông B.Ô-ba-ma nói rằng đó “là trật tự có thể giải
quyết những thách thức trong thời đại của chúng ta - đối phó với chủ
nghĩa cực đoan bạo lực và nổi dậy, chấm dứt phổ biến vũ khí hạt nhân và
bảo đảm an toàn cho nguyên liệu hạt nhân, đối phó với biến đổi khí hậu
và duy trì tăng trưởng toàn cầu, giúp các quốc gia bảo đảm lương thực và
chăm sóc y tế, giải quyết và ngăn chặn xung đột trong khi vẫn hàn gắn
những vết thương do xung đột gây ra”.
Theo chiến lược an ninh
quốc gia, việc thúc đẩy một trật tự quốc tế phấn đấu cho hòa bình, an
ninh và cơ may thông qua hợp tác rộng lớn để đối phó với các thách thức
toàn cầu là một trong bốn lợi ích quốc gia ưu tiên của Mỹ. Một lợi ích
quốc gia và ưu tiên khác (xếp thứ ba sau lợi ích an ninh và lợi ích kinh
tế) là nuôi dưỡng và phát triển các giá trị Mỹ ở trong nước và thế giới
chủ yếu bằng sức mạnh nêu gương, chủ trương không ép buộc, không dùng
vũ lực áp đặt dân chủ, nhân quyền, tự do cho các nước khác hoặc lật đổ
và thay đổi chế độ chính trị nước khác như thời chính quyền G. Bu-sơ.
Trong quan hệ quốc tế “vũ lực đôi khi vẫn cần thiết để đối đầu với các
mối đe dọa”.
Quân lực vẫn là “hòn đá tảng” của an ninh quốc gia Mỹ
Đánh giá quốc phòng 4 năm
QDR nhận định nước Mỹ đang đứng trước cảnh quan an ninh phức tạp, bất
trắc và biến động nhanh chóng. Sự trỗi dậy của Trung Quốc, Ấn Độ sẽ định
hình hệ thống quốc tế hiện rất khó xác định. Trong hệ thống đó Mỹ vẫn
là quốc gia mạnh nhất nhưng phải gia tăng sự hợp tác với các liên minh
và đối tác mới thu được kết quả.
Lợi ích toàn cầu và vai
trò của Mỹ trên thế giới đòi hỏi lực lượng vũ trang Mỹ có khả năng không
ai địch nổi với một ý chí quốc gia sử dụng nó khi cần thiết. Nước Mỹ
vẫn là quốc gia duy nhất có khả năng tung phóng lực lượng tầm xa và yểm
trợ các chiến dịch quy mô lớn trong thời gian dài. Bộ Quốc phòng Mỹ sẽ
cơ cấu lại lực lượng, quân lực và sự rủi ro để hoàn thành 4 mục tiêu ưu
tiên là: giành thắng lợi trong các cuộc chiến tranh hiện nay, phòng ngừa
và răn đe xung đột, chuẩn bị đánh bại mọi kẻ thù và hoàn thành một loạt
các tình huống khẩn cấp và cuối cùng là tăng cường đội quân Mỹ hoàn
toàn tình nguyện hiện nay.
Lực lượng quân sự Mỹ được
cơ cấu lại để chủ yếu tập trung đánh thắng các loại hình chiến tranh
không đối xứng như chống khủng bố, chống nổi dậy, các chiến dịch bình
định, các mối đe dọa tinh vi phức hợp (chiến tranh mạng, phá hoại đánh
vào cơ sở hạ tầng thông tin, tài chính, vũ trụ, cơ sở hạt nhân...).
Ngoài ra còn chuẩn bị sẵn sàng đáp ứng nhiều cấp độ chiến dịch quân sự
bao gồm cả răn đe và đánh bại xâm lược tại các khu vực không được tiếp
cận nhất là đối với Trung Quốc ở khu vực biển Đông Việt Nam (các công ty
Mỹ bị ngăn cản khai thác dầu lửa, tàu chiến Mỹ không được hoạt động ở
khu vực đặc quyền kinh tế trên biển Đông gần Trung Quốc...). Đáng chú ý
QDR 2010 không còn dùng danh từ “chiến tranh trường kỳ”, “cuộc chiến
tranh toàn cầu chống khủng bố” và cách tiếp cận 1-4-2-1 trong QDR 2001
và QDR 2007 theo nghĩa chuẩn bị chiến tranh theo Phương án: 1- Phòng thủ
nội địa; 4- Mở rộng răn đe ra 4 khu vực (châu Âu, Đông - Bắc Á, vùng
ven biển Đông và Nam Á và vùng Trung Đông, Tây Nam Á); 2- Nhanh chóng
đánh bại hai cuộc chiến tranh xâm lược xảy ra đồng thời; 1- Cơ cấu lực
lượng đủ mạnh giành thắng lợi quyết định một trong hai cuộc chiến tranh
đó và lật đổ chính quyền thù địch, lập chính quyền mới).
Lực lượng quốc phòng Mỹ
ngoài lực lượng quân sự còn có lực lượng kinh tế Mỹ phồn vinh, đi đầu
trong sáng chế phát minh, giàu tính cạnh tranh, ngoại thương phát triển
(định tăng gấp đôi), viện trợ phát triển giúp tăng cường đối tác đang
phát triển nhất là các nước I-rắc, Áp-ga-ni-xtan, Pa-ki-xtan..., an ninh
nội địa (chú ý phần tử khủng bố phát sinh trong nước Mỹ) và sự tham gia
tích cực của dân chúng và khu vực doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức phi
chính phủ ở trong và ngoài nước Mỹ.
Về việc sử dụng quân sự ở
nước ngoài, Mỹ “sẽ đôi khi cần tới sau khi sử dụng mọi công cụ ngoại
giao, phi quân sự không kết quả”. Mỹ cũng “giành quyền hành động quân sự
đơn phương để phòng thủ nước Mỹ và bảo vệ các lợi ích của Mỹ”.
Tóm lại, qua
các văn kiện chiến lược mới, chính quyền B. Ô-ba-ma đã thừa nhận Mỹ tuy
vẫn là nước mạnh nhất nhưng đã mất vai trò siêu cường “đơn cực” thống
soái thời kỳ sau Chiến tranh lạnh và một trật tự quốc tế đa cực đang
hình thành. Để theo đuổi những lợi ích và mục tiêu chính trị của Mỹ trên
thế giới, ngoài việc củng cố các liên minh truyền thống, tìm thêm các
đối tác chiến lược mới, mở rộng sự hợp tác với các trung tâm quyền lực
mới nổi lên trên thế giới và tại các khu vực.
Chiến lược toàn cầu mới
của chính quyền B. Ô-ba-ma đã có những bước đi đột phá “thay đổi” hay
“đổi mới” không những về phong cách cởi mở, đối thoại, lắng nghe mà cả
các chính sách biện pháp tỏ ra không thành công của chính quyền G.
Bu-sơ. Cả trên văn bản chiến lược và hoạt động thực tiễn trong một năm
rưỡi qua, Tổng thống B. Ô-ba-ma đã từng bước triển khai thực hiện các
lời hứa “thay đổi” trong tuyển cử - thay đổi nhưng không phải là phủ
định triệt để chính sách, chiến lược của một siêu cường - đế quốc toàn
cầu mà chỉ thay đổi những chính sách tỏ ra lỗi thời và thất bại của học
thuyết Bu-sơ trong nhiệm kỳ đầu. Đồng thời chính quyền mới vẫn kế thừa
những chính sách đối ngoại, quốc phòng, an ninh mà chính quyền Bu-sơ
nhiệm kỳ II đã điều chỉnh sau khi cách chức các nhân vật chủ chốt bảo
thủ mới, như Bộ trưởng Quốc phòng Đ. Răm-xpheo và bổ nhiệm R.Gết và bà
C. Rai-xơ - những nhân vật thực dụng lên làm Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ
trưởng Ngoại giao.
Mặc dù chính quyền B.
Ô-ba-ma đã đề ra chiến lược mới với cách tiếp cận mới và chính sách mới
giải quyết các thách thức của Mỹ và toàn cầu, song mục tiêu cơ bản cuối
cùng vẫn không có gì thay đổi so với các chính quyền trước. Đó là tìm
cách tăng cường thực lực tổng hợp của nước Mỹ với lực lượng quân sự và
kinh tế mạnh nhất, quan niệm giá trị Mỹ vẫn là một đòn tiến công - nhằm
bảo đảm các lợi ích tối cao của Mỹ và hầu mong cứu vãn vị thế của một
siêu cường đang bị lung lay, suy tàn dần trong tình hình mới./.
---------------------------------------------------------
(1) Foreign affairs, July - August 2007
(2) National security strategy 2010, p. 1
(3) Phát biểu của Tổng thống B. Ô-ba-ma tại Trường Võ bị lục quân Oét-poanh (West point) ngày 22-05-2010
Trần Bá Khoa-Số 4 (220) năm 2011