http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-04-25-mot-phan-cua-lich-suBây giờ đã là 36 năm kể từ ngày chiến tranh kết
thúc. Nhớ 36 năm về trước hoặc gần hơn là thời gian mươi năm sau chiến
tranh, hầu hết những người Mỹ và Việt Nam không hề nghĩ rằng: đến một
ngày quan hệ của hai nước lại có thể đến gần nhau như bây giờ. Nhưng nếu
không có những "chỉ dẫn" của văn hóa, hai dân tộc sẽ không tìm được con
đường đến với nhau trong ý nghĩa cao cả nhất của con người. Và sự "chỉ
dẫn" của văn hóa không những tối quan trong đối với hai dân tộc đã có
một lịch sử bi thương mà đối với tương lai của toàn nhân loại.
LTS:
Ngay cả khi cuộc chiến tranh đang ở giai đoạn tàn khốc nhất thì có
những người lính của hai phía bắt đầu nhìn thấy vẻ đẹp và chủ nghĩa nhân
văn trong nền văn hóa của hai dân tộc. Nhiều người lính Việt Nam đã
mang trong ba lô của họ vào mặt trận những tác phẩm xuất sắc nhất của
nền văn học Mỹ như Ông già và biển cả, Tiếng gọi nơi hoang dã, Chuông
nguyện hồn ai, Lá cỏ, Cuốn theo chiều gió, Chùm nho nổi giận.... Còn
những lính Mỹ, tuy không có cơ hội đọc được những tác phẩm văn học Việt
Nam trong thời gian chiến tranh nhưng họ được chứng kiến những vẻ đẹp và
chủ nghĩa nhân văn của văn hóa trong chính đời sống ở các miền đất Việt
Nam, nơi họ đã nổ súng và ném bom. Chính điều đó đã làm nên phong trào
phản chiến.
Ngay sau năm 1975, nền văn hóa của hai dân tộc đã gửi những sứ giả của mình đến với nhau. Những sứ giả đó chính là các nhà văn, nhà thơ và các nghệ sỹ của hai đất nước. Và lần đầu tiên một cách chính thức, hai dân tộc đã được chứng thực vẻ đẹp và chủ nghĩa nhân văn thông qua tác phẩm văn học nghệ thuật và những con người sứ giả đó. Đi qua mọi thách thức, mọi đe dọa, mọi ngờ vực, mọi nguy hiểm... những nhà văn, nhà thơ của hai dân tộc đã không ngưng nghỉ tạo dựng chân dung của dân tộc mình - một chân dung mà trong thời gian chiến tranh nó đã bị bộ máy tuyên truyền bóp méo.
Nhân dịp kỷ niệm 36 năm ngày chiến tranh chấm dứt, TuanVietNam xin trân trọng giới thiệu một số bài viết của một số nhà văn, nhà thơ Việt Nam và Mỹ để bạn đọc có thêm một cái nhìn về sứ mệnh lớn lao của văn hóa trong việc chấm dứt chiến tranh, hàn gắn vết thương và tạo dựng lên một thế giới của những vẻ đẹp và chủ nghĩa nhân văn. Và họ chính là những người đã phác thảo một cách chân thực và chính xác nhất chân dung dân tộc mình - chân dung của một nền văn hóa. Bởi khi các công dân của một dân tộc không dựng được chân dung văn hóa cho dân tộc mình thì dân tộc của họ mãi mãi là một dân tộc mang đến nỗi ngờ vực và sự sợ hãi cho các dân tộc khác.
Được nhận Giải thưởng Phan Châu Trinh là một vinh dự lớn. Hiếm có giải thưởng nào có ý nghĩa hoặc được trao bởi một nhóm học giả độc lập và xuất sắc như vậy. Với lòng khiêm cung, tôi xin nhận vinh hạnh này, biết rõ rằng nó không chỉ được trao cho bản thân mình, mà cho cả gia đình tôi, trung tâm và trường đại học của tôi, cùng nhiều bằng hữu, văn sỹ, nghệ sỹ, học giả và cựu chiến binh, ở cả hai phíaViệt Nam và Hoa Kỳ, cùng các nơi khác trên thế giới, những người đã và đang là một phần không thể thiếu của những cuộc giao lưu đã gần hai mươi lăm năm nay của chúng ta.
Thế mà đã gần hai mươi lăm năm, vào cái đêm sau Giáng Sinh ấy, khi lần đầu tiên tôi trở lại Việt Nam kể từ sau cuộc chiến, trên một chuyến bay cất cánh từ New York. Phim Trung Đội vừa mới công chiếu ngày hôm đó. Tâm khảm tôi vẫn còn hằn rõ hình ảnh của chuyến trực thăng cuối cùng đưa tôi trở lại căn cứ để mãn hạn về nhà, bên dưới chỉ thấy những cảnh như trên mặt trăng, vùng thôn quê Tây Ninh, hoang tàn vì bom đạn và chất diệt cỏ. Ngay cả khi rời Việt Nam lúc ấy, tôi đã mơ đến một ngày trở lại trong hòa bình, nhưng đó là năm 1969, tôi đã không thể mường tượng được hòa bình sẽ như thế nào, sẽ đến ra làm sao.
Khi
trở lại Việt Nam năm 1987 cùng với Dự án Hòa giải Đông Dương của John
McAulliff, tôi đã có những trải nghiệm làm thay đổi hẳn con người mình.
Trong những chuyến viếng thăm đền chùa và bảo tàng, gặp gỡ các cựu chiến
binh, các giáo sư, đặt từng bước chân đi trên mảnh đất này, tôi đã cảm
thấy mình đang thực sự sống trên mặt đất, lần đầu tiên sau biết bao
nhiêu năm.
Các viên tướng trong chiến tranh gọi việc gia tăng quân số là "putting boots on the ground - cho ủng dẫm xuống đất", nhưng với tôi, một thường dân trở lại trong hòa bình, việc đặt chân xuống đất ở đây đã có ý nghĩa như thể lần đầu tiên tôi đứng trên đất thực sự, với cảm thức sâu thẳm rằng cả lịch sử, tinh thần và thi ca của xứ sở xung quanh đang thẩm thấu qua da thịt mình. Tôi cũng thấy một sự cởi mở tuyệt vời, một ước muốn được nói, nghe và tìm kiếm sự tương đồng.
Tôi đã thực sự kinh ngạc. Ở những giai đoạn ấy, mức độ tin cậy và hiểu biết giữa hai nước chúng ta còn thấp. Quan niệm về Việt Nam ở Mỹ và về Mỹ ở Việt Nam đều u ám bởi nhiều thập niên tuyên tuyền và xuyên tạc. Việc cắt hầu hết ngân sách cho các chương trình dạy ngôn ngữ, lịch sử và văn hóa Việt Nam ở Mỹ và những cắt giảm tương tự đối với các chương trình dạy tiếng Anh và nghiên cứu về Mỹ ở Việt Nam đồng nghĩa với tình trạng bất khả của những giao lưu trực tiếp và thực sự trong sáng.
Nhưng đó là buổi ban đầu. Là giám đốc Trung tâm Joiner, tôi may mắn có cương vị được trở lại Việt Nam, lần này qua lần khác. Năm 1988 tôi quay lại cùng một nhóm nhỏ cùng trung tâm, có David Hunt, Ralph Timperi, Gene Michaud và vợ tôi - Leslie. Lúc ấy chúng tôi muốn thu thập tài liệu về những tác động cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam và những hậu quả dai dẳng của cuộc chiến. Đó là những ngày gian khổ ở Việt Nam. Thiếu điện, thiếu thuốc men, khan hiếm thực phẩm, hiếm cả khách sạn hoặc xe gắn máy hoạt động theo đúng nghĩa của chúng. Năm ấy chúng tôi đi từ Hà Nội vào Tây Ninh, qua Huế, Cam Lộ, Hội An, Đà Nẵng, Hóc Môn. Leslie chụp ảnh các nghĩa trang, trại trẻ mồ côi, bệnh viện, nhà máy, các trung tâm người tàn phế, với ý đồ giúp người Mỹ hiểu về Việt Nam.
Lúc ấy chúng tôi là một phần của những hoạt động giao lưu đầu tiên, gửi thuốc men và thiết bị y tế, tổ chức trao đổi bác sỹ, các chương trình tiếng Anh và tiếng Anh cho người nước ngoài, giáo viên, nghệ sỹ và nhà văn. Như nhiều bạn đã biết, chúng tôi vẫn là một tổ chức bất thường.
Trung tâm chúng tôi không lấy tên một chính khách hoặc tướng lãnh nổi tiếng nào; nó không có trụ sở ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn; và nó cũng chả có nhiều tiền. Trung tâm chúng tôi lấy tên một người lính bình thường, một cựu binh Mỹ gốc Phi đã làm việc để trợ giúp các cựu binh khác và đã chết vì căn bệnh ung thư có liên quan đến việc tiếp xúc với chất độc màu da cam. Những người làm ở trung tâm chúng tôi lúc nào cũng vẫn chủ yếu là cựu chiến binh.
Như đã nói, chúng tôi chưa bao giờ có nhiều tiền, nhưng cũng như hầu hết cựu chiến binh, chúng tôi biết cách xoay xở, và điều đó thường có nghĩa là khi tiếp đãi khách từ Việt Nam sang, chúng tôi không để mọi người ở khách sạn, chúng tôi đưa họ về nhà mình.
Có lẽ tôi sẽ chả bao giờ có thể đủ lời hay ý đẹp để nhắc lại buổi ban đầu ấy một cách xứng đáng. Những vị khách đầu tiên của chúng tôi chỉ sang có ít ngày. Lê Cao Đài và Bùi Tụng sang dự hội nghị y tế công cộng Mỹ. Những người khác sang dài ngày hơn và trở nên gắn bó lạ kì. Lê Lựu và Ngụy Ngữ là những sứ giả văn chương đầu tiên. Lê Lựu đã thành bạn của nhiều người suốt từ Boston đến Washington nhờ những mẩu chuyện đời của chính mình trong và sau chiến tranh.
Biết nói gì đây khi nhớ lại cảnh ngay dưới mái hiên sau nhà mình, Nguyễn Quang Thiều, Hữu Thỉnh và Lê Minh Khuê thay nhau bế ẵm và hát ru Lily, đứa con gái mới 2 tháng tuổi của chúng tôi. Rồi cảnh Thiều, Phạm Tiến Duật và Tô Nhuận Vỹ cùng đá bóng với Myles - con trai chúng tôi, chạy quanh khắp sân sau; hoặc cảnh nổi tiếng nhất là Nguyễn Quang Sáng ném bóng rổ ở ngay gần đó.
Những chuyện ấy đều như có phép lạ. Có lẽ một phần là vì cái lạ lùng thật sự của chúng: cứ nghĩ mà xem, những kẻ cựu thù, gặp gỡ nhau như thế, nấu nướng, mua sắm, ăn uống, kể chuyện cho nhau nghe như thế, và sống với nhau như một gia đình trong ngôi nhà ấy ở Dorchester. Mà tất cả những cái lạ lùng ấy lại còn phong phú sâu sắc hơn lên nữa nhờ những bài ca điệu nhảy cùng nhau, những bài thơ cùng đọc cùng nghe, và một niềm vui giản dị khi hình như tất cả đã cùng tìm thấy một con đường thoát ra khỏi cuộc chiến, khỏi câu chuyện bao trùm xưa cũ của quá khứ.
Những hội thảo văn chương của chúng tôi hồi ấy thu hút mọi người từ khắp nơi đến chỉ cốt để gặp gỡ các nhà văn Việt Nam. Năm 1999 là thời điểm bước ngoặt của chúng tôi. Dự án Full Circle - Vòng tròn trọn vẹn - của chúng tôi đã đưa được hai nhóm cựu binh Mỹ trở lại thăm những chiến trường xưa ở Việt Nam và gặp gỡ những con người mà họ đã từng ngắm bắn.
Hội Nhà văn chủ trì cuộc hội nghị đầu tiên của các nhà văn cựu chiến binh Việt Nam và Mỹ. Tôi nhớ cả "Đêm thơ trữ tình" ở Hà Nội, ngồi trong gian phòng đặc khói thuốc lá, lắng nghe các tác giả Mỹ và Việt thay nhau đọc tác phẩm của mình, lần đầu tiên nhận ra những tiết tấu không thể quên được của những dòng chữ mà nhiều năm sau này một số chúng tôi đã may mắn dịch được sang tiếng Anh, hoặc chí ít thì cũng đã cố làm công việc ấy.
Và tôi cũng nhớ cái giây phút lúc đến thăm Hội Nhà văn, đang ngồi đó thì Vũ Tú Nam và Chính Hữu đến trao cho chúng tôi những trang giấy pơ-luya đánh máy của bản thảo sau này sẽ thành tác phẩm Mountain River. Đó chính là lịch sử, một lịch sử độc đáo, vì tôi không thấy có một giây phút nào khác sau chiến tranh mà những người lính làm thơ của nước này trao bản thảo tác phẩm của mình cho những người lính làm thơ của nước kia.
Năm 1992, tôi có dịp trở lại Việt Nam để phỏng vấn các nhà văn ở khắp mọi miền đất nước. Với tôi, đó là một trải nghiệm khải huyền. Tôi đã nghe Vũ Tú Nam kể lại những ngày tranh cãi về giải thưởng trao cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, về những lá thư mà vợ chồng anh ấy viết cho nhau suốt những năm tháng xa cách trong chiến tranh.
Tôi đã nghe Nguyên Ngọc kể về thời thơ ấu của anh ấy, chuyện vợ anh ấy bị bắt, cuộc đoàn tụ kì lạ khi tù binh được trao trả năm 1973. Tôi đã gặp Lý Lan, người đã hỗ trợ công việc dịch thuật của tôi lần đầu tiên ở Sài Gòn. Tôi vẫn giữ những cuốn băng ghi âm ấy, âm thanh nền là tiếng gà gáy, tiếng xe đạp và xe máy thảng hoặc chạy qua chứ chưa thấy tiếng xe hơi rồ máy bóp còi.
Tôi nhớ một hôm ở Hà Nội, đang đánh vật với việc dịch ở báo Văn Nghệ Quân Đội thì có ai đó cúi xuống bên cạnh hỏi cái gì đó rồi rành rẽ nói mấy từ "La Colline des vaches machine" - đồi xay thịt bò, khiến tôi bỗng nhớ lại "Hamburger Hill", nơi diễn ra một trong những trận đánh khốc liệt nhất trong năm 1969.
Vào cái ngày có tin bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam, tôi mới chợt nhận ra một sự thật là chúng ta đã là một phần của lịch sử, một phần của quá trình tiến lại gần nhau của hai đất nước chúng ta. Hôm đó, Nguyễn Duy đang ở chỗ chúng tôi và vừa rời nhà đi tham quan thủ đô Washington.
Cùng
ngày ấy, Nguyễn Duy đến thăm đài tưởng niệm các cựu binh của cuộc chiến
tại Việt Nam và sau đó viết một bài thơ rất hay về nó. Cũng đúng hôm
ấy, hoàn toàn không biết gì về sự có mặt của Duy tại Mỹ, tờ The Boston
Globe đăng toàn bộ bản dịch một bài thơ của anh ấy - "A Small Song of
Peace" - ngay trên trang xã luận để đánh dấu sự kiện bình thường hóa
quan hệ. Hôm sau, trong mục thư gửi tổng biên tập của báo, một độc giả
đã viết rằng cả số báo hôm ấy chỉ có bài thơ này là quan trọng nhất.
Thời điểm ấy đánh dấu một bước tiến quan trọng, tôi nghĩ vậy. Nó báo hiệu rằng công việc giao lưu và dịch thuật mà chúng tôi đã khởi sự như một mạo hiểm chung với các cộng sự Việt Nam đã trở thành một sự nghiệp với sức sống riêng của nó, rằng nền văn học Việt Nam cũng như các tác gia của nó nay đã được công chúng Mỹ đón nhận.
Một sự kiện xuất bản khác hồi đó cũng báo hiệu bước chuyển biến ấy là việc bài "To Return to the Urges of the Beginning" của Phạm Tiến Duật được chọn vào tuyển tập những bài thơ được yêu thích nhất tại Mỹ - một công trình lớn có ý nghĩa lịch sử của Robert Pinsky, thi khôi của nước Mỹ lúc bấy giờ. Một nhà giáo, nữ thi sỹ trẻ người Mỹ và một người bạn Việt Nam là học sinh của chị đã đề cử bài thơ này cho tuyển tập.
Công việc đã không phải lúc nào cũng dễ dàng. Visa phải xin và lấy ở Bangkok. Lê Lựu, Nguyễn Quang Sáng, Ngụy Ngữ và Nguyễn Khải đã bị một đám đông tấn công sau một sự kiện tổ chức ở thư viện công cộng Boston. Một nhóm cựu binh Mỹ đã phải làm rào cản để bảo vệ họ. Một trong số đó, nhiều các bạn đã biết, là nhân vật chủ ngân hàng Bob Glassman.
Dịch thuật lúc nào cũng là một thách thức. Những người cùng dịch cuốn Thời xa vắng - có David Hunt, tôi, Ngô Vĩnh Hải và Nguyễn Bá Chung, hai Việt hai Mỹ - chúng tôi đã học được rất nhiều khi cùng nhau đánh vật với từng dòng của cuốn sách đó, cố truyền đạt trung thực nhất những gì Lê Lựu đã mô tả, từ trời, đất, cuộc sống thành phố, nông thôn, rồi cuộc chiến, và cả những lối chơi chữ, tính hóm hỉnh và chất nồng ấm trong giọng văn của anh ấy. Được trở lại Việt Nam là quan trọng nhất, được về tận làng quê của Lê Lựu, thấy dân làng oằn mình ngoài đồng ruộng, bước dọc bờ sông vào ngày hội Tiên Dung, nhìn cờ phướn tung bay trong gió, những đội nhạc hỉ hội hè, tất cả thật không thể thiếu được.
Có một nhà phê bình vĩ đại đã từng nói mục đích của nghệ thuật là khiến ta nhìn thấy. Các nhà văn Việt Nam đã làm việc với chúng tôi từng bước một để giúp cho cái phần dịch giả trong con người chúng tôi nhìn ra được những gì cần phải thấy. Chuyện này thật nhiều ý nghĩa. Với tôi chẳng hạn, cái có ý nghĩa nhất là những trải nghiệm tuyệt vời trong chuyến viếng thăm làng quê của Nguyễn Quang Thiều, thấy con đê anh ấy từng nằm ngủ trên đó hồi còn bé, những con chuồn chuồn chao lượn trên mặt ao, nằm ngủ trên chiếc giường của bà nội anh ấy.
Như tôi đã nói, những chuyện ấy, cả cái quá trình ấy, không phải lúc nào cũng dễ dàng. Và khó nhất là với người Việt Nam ở hải ngoại. Có những người đã chống lại tiến trình giao lưu ấy cả trên báo chí và trên đường phố, với những cuộc biểu tình mỗi khi chúng tôi có khách từ Việt Nam sang. Đã có cả những lời dọa giết và đánh bom. Với nhiều người, nỗi đau ấy là chân thực và có vẻ không thể hàn gắn được.
Dù sao, qua suốt những năm tháng ấy, một cuộc đối thoại đã ra đời, một cuộc đối thoại đòi hỏi lòng dũng cảm ở cả hai bên. Chúng tôi biết danh tiếng Nguyên Ngọc, Tô Nhuận Vỹ, Trần Văn Thủy, những người sang Mỹ bằng học bổng Rockefeller. Và tất nhiên là cả hai nhân vật danh tiếng khác nữa, hai học giả đầu tiên sang với chúng tôi bằng học bổng Rockefeller: Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến - người đã vừa mới qua đời. Mặc những lời đe dọa chống đối, họ đã không lùi bước, đã sang với chúng tôi, và đã tạo lập được một cầu nối để nhiều người khác sau này tiếp bước họ.
Theo dòng thời gian, những tác phẩm dưới dạng sách, bài viết và thơ trên các tạp chí đã lần lượt được thế giới biết đến và tiếp nhận. Writing Between the Lines, Mountain River, Distant Road, Six Vietnamese Poets, Early Zen Poems from Vietnam, đã mở đường cho những tác phẩm mới nữa mà chúng tôi biết là sẽ xuất hiện.
Cuối cùng, cho phép tôi được nói một điều, rằng có lẽ tôi sẽ không thể có đủ lời để nói về chuyện toàn bộ những cuộc giao lưu ấy đã có ý nghĩa như thế nào đối với chính gia đình mình. Làm sao có thể quên được Đoàn nhạc Sông Hương của Võ Quê, đã diễn một đêm trên sông nước vằng vặc ánh trăng ở Huế, rồi lại diễn ở ngay sân sau nhà chúng tôi ở Doschester.
Hay cái đêm chúng tôi bị tấn công ở Thư viện Công cộng Boston. Rồi những lúc ngồi ở hiên nhà nghe ca khúc Trịnh Công Sơn với phần đệm guitar nhẹ nhàng, mà nhiều năm sau lại được ngồi với Duy trong một quán bar Sài Gòn, nghe chính Trịnh Công Sơn hát những ca khúc ấy. Lại còn Chu Lượng, Lương Tu Duc, Nguyễn Quang Thiều và Thuật con trai anh, đem niềm vui của nghệ thuật múa rối nước sang cho trẻ em ở Dedham và Boston, thậm chí cả diễn riêng cho buổi sinh nhật của con gái tôi. Hoặc ngồi trong vườn thơ ở Sông Bé với Thu Bồn, nghe hát ca kịch và giọng đọc của các nhà thơ vang vọng vào trời đêm trên những làn khói của lửa trại.
Hoặc ngồi ở Bắc Ninh, nhà Đỗ Chu, nghe các liền anh liền chị Quan Họ kể chuyện đời và cất tiếng hát. Hoặc cùng uống trà trên tầng áp mái của chúng tôi cùng với hàng chục nhà văn từ Việt Nam sang, mà Nguyễn Quyến và Paley thì mải mê trò chuyện đến tận khuya. Hoặc tất cả những buổi đọc văn đọc thơ ấy, khám phá những trang viết của những người sang làm khách ở nhà chúng tôi, mà lần lần tác phẩm của họ đã bắt đầu được dịch sang tiếng Anh; nghe những giọng văn độc đáo ấy - Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh, Lê Văn Thảo, Cao Tiến Lê, Ý Nhi, Nguyễn Đức
Ngay sau năm 1975, nền văn hóa của hai dân tộc đã gửi những sứ giả của mình đến với nhau. Những sứ giả đó chính là các nhà văn, nhà thơ và các nghệ sỹ của hai đất nước. Và lần đầu tiên một cách chính thức, hai dân tộc đã được chứng thực vẻ đẹp và chủ nghĩa nhân văn thông qua tác phẩm văn học nghệ thuật và những con người sứ giả đó. Đi qua mọi thách thức, mọi đe dọa, mọi ngờ vực, mọi nguy hiểm... những nhà văn, nhà thơ của hai dân tộc đã không ngưng nghỉ tạo dựng chân dung của dân tộc mình - một chân dung mà trong thời gian chiến tranh nó đã bị bộ máy tuyên truyền bóp méo.
Nhân dịp kỷ niệm 36 năm ngày chiến tranh chấm dứt, TuanVietNam xin trân trọng giới thiệu một số bài viết của một số nhà văn, nhà thơ Việt Nam và Mỹ để bạn đọc có thêm một cái nhìn về sứ mệnh lớn lao của văn hóa trong việc chấm dứt chiến tranh, hàn gắn vết thương và tạo dựng lên một thế giới của những vẻ đẹp và chủ nghĩa nhân văn. Và họ chính là những người đã phác thảo một cách chân thực và chính xác nhất chân dung dân tộc mình - chân dung của một nền văn hóa. Bởi khi các công dân của một dân tộc không dựng được chân dung văn hóa cho dân tộc mình thì dân tộc của họ mãi mãi là một dân tộc mang đến nỗi ngờ vực và sự sợ hãi cho các dân tộc khác.
Được nhận Giải thưởng Phan Châu Trinh là một vinh dự lớn. Hiếm có giải thưởng nào có ý nghĩa hoặc được trao bởi một nhóm học giả độc lập và xuất sắc như vậy. Với lòng khiêm cung, tôi xin nhận vinh hạnh này, biết rõ rằng nó không chỉ được trao cho bản thân mình, mà cho cả gia đình tôi, trung tâm và trường đại học của tôi, cùng nhiều bằng hữu, văn sỹ, nghệ sỹ, học giả và cựu chiến binh, ở cả hai phíaViệt Nam và Hoa Kỳ, cùng các nơi khác trên thế giới, những người đã và đang là một phần không thể thiếu của những cuộc giao lưu đã gần hai mươi lăm năm nay của chúng ta.
Thế mà đã gần hai mươi lăm năm, vào cái đêm sau Giáng Sinh ấy, khi lần đầu tiên tôi trở lại Việt Nam kể từ sau cuộc chiến, trên một chuyến bay cất cánh từ New York. Phim Trung Đội vừa mới công chiếu ngày hôm đó. Tâm khảm tôi vẫn còn hằn rõ hình ảnh của chuyến trực thăng cuối cùng đưa tôi trở lại căn cứ để mãn hạn về nhà, bên dưới chỉ thấy những cảnh như trên mặt trăng, vùng thôn quê Tây Ninh, hoang tàn vì bom đạn và chất diệt cỏ. Ngay cả khi rời Việt Nam lúc ấy, tôi đã mơ đến một ngày trở lại trong hòa bình, nhưng đó là năm 1969, tôi đã không thể mường tượng được hòa bình sẽ như thế nào, sẽ đến ra làm sao.
Ảnh minh họa: hoinhavanvietnam |
Các viên tướng trong chiến tranh gọi việc gia tăng quân số là "putting boots on the ground - cho ủng dẫm xuống đất", nhưng với tôi, một thường dân trở lại trong hòa bình, việc đặt chân xuống đất ở đây đã có ý nghĩa như thể lần đầu tiên tôi đứng trên đất thực sự, với cảm thức sâu thẳm rằng cả lịch sử, tinh thần và thi ca của xứ sở xung quanh đang thẩm thấu qua da thịt mình. Tôi cũng thấy một sự cởi mở tuyệt vời, một ước muốn được nói, nghe và tìm kiếm sự tương đồng.
Tôi đã thực sự kinh ngạc. Ở những giai đoạn ấy, mức độ tin cậy và hiểu biết giữa hai nước chúng ta còn thấp. Quan niệm về Việt Nam ở Mỹ và về Mỹ ở Việt Nam đều u ám bởi nhiều thập niên tuyên tuyền và xuyên tạc. Việc cắt hầu hết ngân sách cho các chương trình dạy ngôn ngữ, lịch sử và văn hóa Việt Nam ở Mỹ và những cắt giảm tương tự đối với các chương trình dạy tiếng Anh và nghiên cứu về Mỹ ở Việt Nam đồng nghĩa với tình trạng bất khả của những giao lưu trực tiếp và thực sự trong sáng.
Nhưng đó là buổi ban đầu. Là giám đốc Trung tâm Joiner, tôi may mắn có cương vị được trở lại Việt Nam, lần này qua lần khác. Năm 1988 tôi quay lại cùng một nhóm nhỏ cùng trung tâm, có David Hunt, Ralph Timperi, Gene Michaud và vợ tôi - Leslie. Lúc ấy chúng tôi muốn thu thập tài liệu về những tác động cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam và những hậu quả dai dẳng của cuộc chiến. Đó là những ngày gian khổ ở Việt Nam. Thiếu điện, thiếu thuốc men, khan hiếm thực phẩm, hiếm cả khách sạn hoặc xe gắn máy hoạt động theo đúng nghĩa của chúng. Năm ấy chúng tôi đi từ Hà Nội vào Tây Ninh, qua Huế, Cam Lộ, Hội An, Đà Nẵng, Hóc Môn. Leslie chụp ảnh các nghĩa trang, trại trẻ mồ côi, bệnh viện, nhà máy, các trung tâm người tàn phế, với ý đồ giúp người Mỹ hiểu về Việt Nam.
Lúc ấy chúng tôi là một phần của những hoạt động giao lưu đầu tiên, gửi thuốc men và thiết bị y tế, tổ chức trao đổi bác sỹ, các chương trình tiếng Anh và tiếng Anh cho người nước ngoài, giáo viên, nghệ sỹ và nhà văn. Như nhiều bạn đã biết, chúng tôi vẫn là một tổ chức bất thường.
Trung tâm chúng tôi không lấy tên một chính khách hoặc tướng lãnh nổi tiếng nào; nó không có trụ sở ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn; và nó cũng chả có nhiều tiền. Trung tâm chúng tôi lấy tên một người lính bình thường, một cựu binh Mỹ gốc Phi đã làm việc để trợ giúp các cựu binh khác và đã chết vì căn bệnh ung thư có liên quan đến việc tiếp xúc với chất độc màu da cam. Những người làm ở trung tâm chúng tôi lúc nào cũng vẫn chủ yếu là cựu chiến binh.
Như đã nói, chúng tôi chưa bao giờ có nhiều tiền, nhưng cũng như hầu hết cựu chiến binh, chúng tôi biết cách xoay xở, và điều đó thường có nghĩa là khi tiếp đãi khách từ Việt Nam sang, chúng tôi không để mọi người ở khách sạn, chúng tôi đưa họ về nhà mình.
Có lẽ tôi sẽ chả bao giờ có thể đủ lời hay ý đẹp để nhắc lại buổi ban đầu ấy một cách xứng đáng. Những vị khách đầu tiên của chúng tôi chỉ sang có ít ngày. Lê Cao Đài và Bùi Tụng sang dự hội nghị y tế công cộng Mỹ. Những người khác sang dài ngày hơn và trở nên gắn bó lạ kì. Lê Lựu và Ngụy Ngữ là những sứ giả văn chương đầu tiên. Lê Lựu đã thành bạn của nhiều người suốt từ Boston đến Washington nhờ những mẩu chuyện đời của chính mình trong và sau chiến tranh.
Biết nói gì đây khi nhớ lại cảnh ngay dưới mái hiên sau nhà mình, Nguyễn Quang Thiều, Hữu Thỉnh và Lê Minh Khuê thay nhau bế ẵm và hát ru Lily, đứa con gái mới 2 tháng tuổi của chúng tôi. Rồi cảnh Thiều, Phạm Tiến Duật và Tô Nhuận Vỹ cùng đá bóng với Myles - con trai chúng tôi, chạy quanh khắp sân sau; hoặc cảnh nổi tiếng nhất là Nguyễn Quang Sáng ném bóng rổ ở ngay gần đó.
Những chuyện ấy đều như có phép lạ. Có lẽ một phần là vì cái lạ lùng thật sự của chúng: cứ nghĩ mà xem, những kẻ cựu thù, gặp gỡ nhau như thế, nấu nướng, mua sắm, ăn uống, kể chuyện cho nhau nghe như thế, và sống với nhau như một gia đình trong ngôi nhà ấy ở Dorchester. Mà tất cả những cái lạ lùng ấy lại còn phong phú sâu sắc hơn lên nữa nhờ những bài ca điệu nhảy cùng nhau, những bài thơ cùng đọc cùng nghe, và một niềm vui giản dị khi hình như tất cả đã cùng tìm thấy một con đường thoát ra khỏi cuộc chiến, khỏi câu chuyện bao trùm xưa cũ của quá khứ.
Những hội thảo văn chương của chúng tôi hồi ấy thu hút mọi người từ khắp nơi đến chỉ cốt để gặp gỡ các nhà văn Việt Nam. Năm 1999 là thời điểm bước ngoặt của chúng tôi. Dự án Full Circle - Vòng tròn trọn vẹn - của chúng tôi đã đưa được hai nhóm cựu binh Mỹ trở lại thăm những chiến trường xưa ở Việt Nam và gặp gỡ những con người mà họ đã từng ngắm bắn.
Hội Nhà văn chủ trì cuộc hội nghị đầu tiên của các nhà văn cựu chiến binh Việt Nam và Mỹ. Tôi nhớ cả "Đêm thơ trữ tình" ở Hà Nội, ngồi trong gian phòng đặc khói thuốc lá, lắng nghe các tác giả Mỹ và Việt thay nhau đọc tác phẩm của mình, lần đầu tiên nhận ra những tiết tấu không thể quên được của những dòng chữ mà nhiều năm sau này một số chúng tôi đã may mắn dịch được sang tiếng Anh, hoặc chí ít thì cũng đã cố làm công việc ấy.
Và tôi cũng nhớ cái giây phút lúc đến thăm Hội Nhà văn, đang ngồi đó thì Vũ Tú Nam và Chính Hữu đến trao cho chúng tôi những trang giấy pơ-luya đánh máy của bản thảo sau này sẽ thành tác phẩm Mountain River. Đó chính là lịch sử, một lịch sử độc đáo, vì tôi không thấy có một giây phút nào khác sau chiến tranh mà những người lính làm thơ của nước này trao bản thảo tác phẩm của mình cho những người lính làm thơ của nước kia.
Năm 1992, tôi có dịp trở lại Việt Nam để phỏng vấn các nhà văn ở khắp mọi miền đất nước. Với tôi, đó là một trải nghiệm khải huyền. Tôi đã nghe Vũ Tú Nam kể lại những ngày tranh cãi về giải thưởng trao cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, về những lá thư mà vợ chồng anh ấy viết cho nhau suốt những năm tháng xa cách trong chiến tranh.
Tôi đã nghe Nguyên Ngọc kể về thời thơ ấu của anh ấy, chuyện vợ anh ấy bị bắt, cuộc đoàn tụ kì lạ khi tù binh được trao trả năm 1973. Tôi đã gặp Lý Lan, người đã hỗ trợ công việc dịch thuật của tôi lần đầu tiên ở Sài Gòn. Tôi vẫn giữ những cuốn băng ghi âm ấy, âm thanh nền là tiếng gà gáy, tiếng xe đạp và xe máy thảng hoặc chạy qua chứ chưa thấy tiếng xe hơi rồ máy bóp còi.
Tôi nhớ một hôm ở Hà Nội, đang đánh vật với việc dịch ở báo Văn Nghệ Quân Đội thì có ai đó cúi xuống bên cạnh hỏi cái gì đó rồi rành rẽ nói mấy từ "La Colline des vaches machine" - đồi xay thịt bò, khiến tôi bỗng nhớ lại "Hamburger Hill", nơi diễn ra một trong những trận đánh khốc liệt nhất trong năm 1969.
Vào cái ngày có tin bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam, tôi mới chợt nhận ra một sự thật là chúng ta đã là một phần của lịch sử, một phần của quá trình tiến lại gần nhau của hai đất nước chúng ta. Hôm đó, Nguyễn Duy đang ở chỗ chúng tôi và vừa rời nhà đi tham quan thủ đô Washington.
Kevin
Bowen là nhà thơ, dịch giả, giám đốc Trung tâm William Joiner - Nghiên
cứu về Chiến tranh và Hậu quả xã hội, thuộc Đại học Massachusetts,
Boston.
Ông nhận bằng
Cử nhân từ Đại học Massachusetts, Boston, bằng Tiến sĩ tại SUNY Buffalo
và sau đó tiếp tục nghiên cứu tại Đại học New College, Oxford.
Ông
đã nhận Giải Pushcart, nghiên cứu về Thơ và Hư cấu từ Hội đồng Văn hóa
Massachusetts và học bổng nghiên cứu thơ từ Quỹ Nghệ thuật Quốc gia Hoa
Kỳ. Năm 2011, ông và vợ con đã đến Việt Nam để nhận Giải thưởng Phan
Châu Trinh cho những đóng góp của ông trong việc truyền bá văn học, văn
hóa Việt Nam tới công chúng Mỹ.
|
Thời điểm ấy đánh dấu một bước tiến quan trọng, tôi nghĩ vậy. Nó báo hiệu rằng công việc giao lưu và dịch thuật mà chúng tôi đã khởi sự như một mạo hiểm chung với các cộng sự Việt Nam đã trở thành một sự nghiệp với sức sống riêng của nó, rằng nền văn học Việt Nam cũng như các tác gia của nó nay đã được công chúng Mỹ đón nhận.
Một sự kiện xuất bản khác hồi đó cũng báo hiệu bước chuyển biến ấy là việc bài "To Return to the Urges of the Beginning" của Phạm Tiến Duật được chọn vào tuyển tập những bài thơ được yêu thích nhất tại Mỹ - một công trình lớn có ý nghĩa lịch sử của Robert Pinsky, thi khôi của nước Mỹ lúc bấy giờ. Một nhà giáo, nữ thi sỹ trẻ người Mỹ và một người bạn Việt Nam là học sinh của chị đã đề cử bài thơ này cho tuyển tập.
Công việc đã không phải lúc nào cũng dễ dàng. Visa phải xin và lấy ở Bangkok. Lê Lựu, Nguyễn Quang Sáng, Ngụy Ngữ và Nguyễn Khải đã bị một đám đông tấn công sau một sự kiện tổ chức ở thư viện công cộng Boston. Một nhóm cựu binh Mỹ đã phải làm rào cản để bảo vệ họ. Một trong số đó, nhiều các bạn đã biết, là nhân vật chủ ngân hàng Bob Glassman.
Dịch thuật lúc nào cũng là một thách thức. Những người cùng dịch cuốn Thời xa vắng - có David Hunt, tôi, Ngô Vĩnh Hải và Nguyễn Bá Chung, hai Việt hai Mỹ - chúng tôi đã học được rất nhiều khi cùng nhau đánh vật với từng dòng của cuốn sách đó, cố truyền đạt trung thực nhất những gì Lê Lựu đã mô tả, từ trời, đất, cuộc sống thành phố, nông thôn, rồi cuộc chiến, và cả những lối chơi chữ, tính hóm hỉnh và chất nồng ấm trong giọng văn của anh ấy. Được trở lại Việt Nam là quan trọng nhất, được về tận làng quê của Lê Lựu, thấy dân làng oằn mình ngoài đồng ruộng, bước dọc bờ sông vào ngày hội Tiên Dung, nhìn cờ phướn tung bay trong gió, những đội nhạc hỉ hội hè, tất cả thật không thể thiếu được.
Có một nhà phê bình vĩ đại đã từng nói mục đích của nghệ thuật là khiến ta nhìn thấy. Các nhà văn Việt Nam đã làm việc với chúng tôi từng bước một để giúp cho cái phần dịch giả trong con người chúng tôi nhìn ra được những gì cần phải thấy. Chuyện này thật nhiều ý nghĩa. Với tôi chẳng hạn, cái có ý nghĩa nhất là những trải nghiệm tuyệt vời trong chuyến viếng thăm làng quê của Nguyễn Quang Thiều, thấy con đê anh ấy từng nằm ngủ trên đó hồi còn bé, những con chuồn chuồn chao lượn trên mặt ao, nằm ngủ trên chiếc giường của bà nội anh ấy.
Như tôi đã nói, những chuyện ấy, cả cái quá trình ấy, không phải lúc nào cũng dễ dàng. Và khó nhất là với người Việt Nam ở hải ngoại. Có những người đã chống lại tiến trình giao lưu ấy cả trên báo chí và trên đường phố, với những cuộc biểu tình mỗi khi chúng tôi có khách từ Việt Nam sang. Đã có cả những lời dọa giết và đánh bom. Với nhiều người, nỗi đau ấy là chân thực và có vẻ không thể hàn gắn được.
Dù sao, qua suốt những năm tháng ấy, một cuộc đối thoại đã ra đời, một cuộc đối thoại đòi hỏi lòng dũng cảm ở cả hai bên. Chúng tôi biết danh tiếng Nguyên Ngọc, Tô Nhuận Vỹ, Trần Văn Thủy, những người sang Mỹ bằng học bổng Rockefeller. Và tất nhiên là cả hai nhân vật danh tiếng khác nữa, hai học giả đầu tiên sang với chúng tôi bằng học bổng Rockefeller: Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến - người đã vừa mới qua đời. Mặc những lời đe dọa chống đối, họ đã không lùi bước, đã sang với chúng tôi, và đã tạo lập được một cầu nối để nhiều người khác sau này tiếp bước họ.
Theo dòng thời gian, những tác phẩm dưới dạng sách, bài viết và thơ trên các tạp chí đã lần lượt được thế giới biết đến và tiếp nhận. Writing Between the Lines, Mountain River, Distant Road, Six Vietnamese Poets, Early Zen Poems from Vietnam, đã mở đường cho những tác phẩm mới nữa mà chúng tôi biết là sẽ xuất hiện.
Cuối cùng, cho phép tôi được nói một điều, rằng có lẽ tôi sẽ không thể có đủ lời để nói về chuyện toàn bộ những cuộc giao lưu ấy đã có ý nghĩa như thế nào đối với chính gia đình mình. Làm sao có thể quên được Đoàn nhạc Sông Hương của Võ Quê, đã diễn một đêm trên sông nước vằng vặc ánh trăng ở Huế, rồi lại diễn ở ngay sân sau nhà chúng tôi ở Doschester.
Hay cái đêm chúng tôi bị tấn công ở Thư viện Công cộng Boston. Rồi những lúc ngồi ở hiên nhà nghe ca khúc Trịnh Công Sơn với phần đệm guitar nhẹ nhàng, mà nhiều năm sau lại được ngồi với Duy trong một quán bar Sài Gòn, nghe chính Trịnh Công Sơn hát những ca khúc ấy. Lại còn Chu Lượng, Lương Tu Duc, Nguyễn Quang Thiều và Thuật con trai anh, đem niềm vui của nghệ thuật múa rối nước sang cho trẻ em ở Dedham và Boston, thậm chí cả diễn riêng cho buổi sinh nhật của con gái tôi. Hoặc ngồi trong vườn thơ ở Sông Bé với Thu Bồn, nghe hát ca kịch và giọng đọc của các nhà thơ vang vọng vào trời đêm trên những làn khói của lửa trại.
Hoặc ngồi ở Bắc Ninh, nhà Đỗ Chu, nghe các liền anh liền chị Quan Họ kể chuyện đời và cất tiếng hát. Hoặc cùng uống trà trên tầng áp mái của chúng tôi cùng với hàng chục nhà văn từ Việt Nam sang, mà Nguyễn Quyến và Paley thì mải mê trò chuyện đến tận khuya. Hoặc tất cả những buổi đọc văn đọc thơ ấy, khám phá những trang viết của những người sang làm khách ở nhà chúng tôi, mà lần lần tác phẩm của họ đã bắt đầu được dịch sang tiếng Anh; nghe những giọng văn độc đáo ấy - Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh, Lê Văn Thảo, Cao Tiến Lê, Ý Nhi, Nguyễn Đức
Mậu, Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn
Khải, Nguyễn Trí Huân, Ma Văn Kháng, Trần Đăng Khoa, Đỗ Chu, Văn Lê, Bảo
Ninh, Chu Lai, Nam Hà, Trung Trung Đỉnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Thị Như
Trang, Ngân Vịnh, Bùi Ngọc Tấn, Dương Thuấn, và còn bao nhiêu người
khác.
Với một hạnh ngộ lớn lao như thế này, tôi chỉ còn biết cứ thật lòng nói lời cảm ơn, cảm ơn, cảm ơn.
Trịnh Lữ dịch
Với một hạnh ngộ lớn lao như thế này, tôi chỉ còn biết cứ thật lòng nói lời cảm ơn, cảm ơn, cảm ơn.
Trịnh Lữ dịch