Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2011

19. Việt Nam - ASEAN: chặng đường đã qua và tương lai phía trước

TCCS - Ngày 28-7-1995, tại thủ đô Vương quốc Hồi giáo Bru-nây Đa-rut-sa-lam, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á đã chính thức kết nạp Việt Nam làm thành viên thứ bảy của tổ chức ASEAN. Vừa tròn 15 năm Việt Nam cùng ASEAN vượt qua một chặng đường đầy thử thách và gặt hái nhiều thành công, đến nay cùng sát cánh hướng tới một Cộng đồng ASEAN bền vững và phát triển.
Việt Nam - ASEAN: 15 năm một chặng đường
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN đánh dấu một bước ngoặt quan trọng ở Đông Nam Á. Với đường lối đổi mới của Đảng năm 1986, Việt Nam đã nhanh chóng cải thiện quan hệ quốc tế của mình sau một thời gian bị bao vây, cô lập. Cùng với việc chấm dứt Chiến tranh lạnh trên phạm vi thế giới, vào nửa đầu những năm 90 thế kỷ XX, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mở ra quan hệ với Liên minh châu Âu (EU), thiết lập quan hệ với Hoa Kỳ... Đặc biệt, Việt Nam nhanh chóng cải thiện quan hệ với các nước Đông Nam Á, tham gia Hiệp ước Ba-li và bốn năm sau trở thành thành viên chính thức của tổ chức ASEAN. Sự kiện này đã chấm dứt thời kỳ căng thẳng, không ổn định và đầy nghi ngại giữa các nước trong khu vực, tạo nên khung cảnh hòa bình, an ninh và ổn định, mở ra thời kỳ phát triển mới của Đông Nam Á. Đó chính là kết quả cơ bản và bền vững của quá trình hội nhập khu vực, một bước đi ban đầu tiến tới hội nhập quốc tế.
Với tư cách thành viên chính thức, Việt Nam tích cực thúc đẩy việc mở rộng ASEAN, lần lượt kết nạp các nước Lào, Mi-an-ma và Cam-pu-chia để trở thành một tổ chức toàn khu vực gồm 10 nước. Kết quả đó tạo điều kiện xóa bỏ những ranh giới đã từng phân hóa sâu sắc giữa các nước Đông Nam Á, mở ra thời kỳ hợp tác cùng phát triển. Không tránh khỏi có những quan điểm khác nhau trong từng vấn đề cụ thể, song các nước ASEAN dựa trên nguyên tắc đồng thuận và không can thiệp công việc nội bộ của nhau đã vượt qua nhiều trở ngại, cảm thông và thuyết phục lẫn nhau để bảo đảm sự nhất trí trong những vấn đề trọng yếu của khu vực.
Cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam Á năm 1997 có thể coi như một thách thức lớn đầu tiên đối với Việt Nam sau khi tham gia Hiệp hội. Chưa hội nhập sâu vào mạng lưới kinh tế tài chính khu vực và quốc tế, Việt Nam chưa chịu tác động trực tiếp và tức thời, song tình hình rối loạn kinh tế cùng sự không ổn định về chính trị của một vài nước láng giềng không thể không gây ảnh hưởng tiêu cực. Nhất là ngay sau đó, Việt Nam phải đảm nhiệm việc tổ chức Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ sáu trong bầu không khí không thuận lợi. Nhưng đạt được sự đồng thuận giữa các nhà lãnh đạo cấp cao ASEAN, Bản Tuyên bố Hà Nội năm 1998 và Chương trình Hành động của Hội nghị đã đưa ra cách đánh giá đúng đắn về tình hình và triển vọng ở Đông Nam Á, khẳng định vai trò của ASEAN và đề ra những biện pháp khắc phục. Với nỗ lực của từng quốc gia cùng cơ chế ASEAN + 3 (gồm Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc) và ASEAN + 1 (với từng nước trên), Đông Nam Á dần dần ra khỏi khủng hoảng, phục hồi và tiếp tục phát triển khi bước vào ngưỡng cửa của thế kỷ mới.
Cũng trong thời gian qua, vị thế quốc tế của ASEAN ngày càng nâng cao. Do vị trí địa chiến lược và tiềm năng kinh tế, ASEAN được nhiều nước bên ngoài khu vực quan tâm. Việc duy trì hòa bình, an ninh và ổn định ở Đông Nam Á không chỉ là việc riêng của các nước trong khu vực mà có liên quan đến lợi ích của nhiều nước khác. Năm 1994, sáng kiến thành lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) đã thu hút sự tham gia ban đầu của 18 nước mà Việt Nam là một thành viên, đến nay lên tới 34 nước gồm các nước Đông Nam Á, các nước lớn, các nước Đông Á, Nam Á và Thái Bình Dương. Ngoại trưởng các nước ASEAN ra Thông báo chung chỉ rõ: “ARF có thể trở thành diễn đàn tham khảo ý kiến có hiệu quả ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương để thúc đẩy đối thoại mở về hợp tác an ninh và chính trị trong khu vực”(1). Sự tham gia của đông đảo các nước cho thấy vai trò chủ đạo của ASEAN được thừa nhận trong hoạt động của Diễn đàn mà các thành viên đều tìm thấy lợi ích của mình. Cho đến nay, ARF vẫn hoạt động đều đặn và có hiệu quả, phát huy vai trò của một diễn đàn xây dựng lòng tin giữa các quốc gia.
Cũng từ sáng kiến của ASEAN, năm 1996 Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) đã khai mạc tại Băng-cốc (Thái Lan). Đây là sự hợp tác liên châu lục giữa các nước Đông Á với châu Âu, mở ra một bình diện hợp tác mới, tồn tại đồng thời với Diễn đàn hợp tác châu Á - Thái Bình Dương (APEC) ra đời từ năm 1989. Như vậy, ASEAN đã xác lập được vị trí của mình trong hai tổ chức liên châu lục lớn là ASEM và APEC, có vị thế được xác định trong quan hệ với châu Âu và châu Mỹ.
Sau hơn 35 năm tồn tại và phát triển, các nước thành viên đều thấy rằng đã đến lúc cần phải củng cố và nâng cao năng lực hoạt động của ASEAN thành một Cộng đồng ASEAN. Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ chín (năm 2003) ra Tuyên bố Hòa hợp Ba-li 2, quyết định tiến tới Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột về chính trị - an ninh, về kinh tế, về văn hóa - xã hội và tiến hành khởi thảo Hiến chương ASEAN. Hiến chương lần lượt được các quốc gia thành viên phê chuẩn, đến ngày 15-12-2008 bắt đầu có hiệu lực. Quyết định đó đánh dấu một bước phát triển mới của ASEAN trước những biến động của tình hình quốc tế và những đòi hỏi của sự phát triển khu vực vào những năm đầu thế kỷ XXI. ASEAN trở thành một thực thể pháp lý mang tính ràng buộc giữa các thành viên trong việc tuân thủ những nguyên tắc của Hiến chương và việc thi hành những quyết nghị của ASEAN. Việt Nam với sự đóng góp tích cực của mình trong tiến trình 15 năm qua sẽ tiếp tục phát huy vai trò một cách chủ động và có trách nhiệm trên bước đường tiến tới của ASEAN.
Việt Nam - ASEAN: hướng về phía trước
Năm 2010, kỷ niệm 15 năm Việt Nam gia nhập ASEAN cũng đúng là năm Việt Nam đảm nhận nhiệm vụ Chủ tịch ASEAN. Trên tinh thần trách nhiệm cao của một thành viên tích cực, Việt Nam đề xuất chủ đề Hướng tới Cộng đồng ASEAN - từ Tầm nhìn đến Hành động nhằm đưa những ý tưởng và nghị quyết của ASEAN đi vào cuộc sống với nhịp độ khẩn trương và quyết liệt, đem lại hiệu quả to lớn và thiết thực. Việt Nam đã và sẽ không ngừng đóng góp sức mình vào việc sớm hiện thực hóa tinh thần Hiến chương ASEAN trên mọi phương diện, thực hiện Lộ trình hướng tới Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với việc xây dựng ba trụ cột: Cộng đồng Chính trị - an ninh, Cộng đồng Kinh tế, Cộng đồng Văn hóa - xã hội.
Về xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh (APSC), trên cơ sở các văn bản đã được công bố từ Tuyên bố về khu vực hòa bình, tự do và trung lập (ZOPFAN), Hiệp ước Thân hữu và hợp tác (TAC) đến Khu vực không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ) và Tuyên bố của các bên về ứng xử ở Biển Đông (DOC), ASEAN đã phát huy vai trò của một tổ chức khu vực trong việc bảo đảm an ninh toàn diện, kể cả an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống ở Đông Nam Á.
Vấn đề an ninh không chỉ liên quan đến các nước có lãnh thổ liền kề mà nó tác động đến sự ổn định về chính trị quốc tế trên phạm vi rộng lớn, đến tình hình thế giới và quan hệ giữa các quốc gia. Các cuộc đối thoại của ASEAN với các đối tác như các tổ chức quốc tế, các nước lớn và nhiều nước khác thể hiện sự quan tâm của thế giới đối với tình hình Đông Nam Á, tạo cơ hội trao đổi quan điểm và gia tăng lòng tin. ARF trở thành diễn đàn có uy tín đã từng tồn tại trong nhiều năm và vẫn tiếp tục phát huy vai trò của nó. Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN mở rộng với sự tham gia của một số nước đối tác (ADMM +) diễn ra ở Việt Nam trong năm nay sẽ tạo điều kiện thu hút, trao đổi nguồn lực và kinh nghiệm góp phần giải quyết các vấn đề an ninh nội khối, nhất là những vấn đề an ninh phi truyền thống, đồng thời tăng cường sự hiện diện và vai trò của quốc phòng ASEAN trong khu vực và trên thế giới.
Cuộc đấu tranh chống khủng bố, ly khai, buôn lậu, buôn người qua biên giới... đòi hỏi sự liên kết phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách các nước nhằm bảo vệ an ninh, ổn định trong từng nước và trong toàn khu vực.
Đông Nam Á vốn là một khu vực nhạy cảm do tầm quan trọng của vị trí chiến lược đường biển nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, lại nhiều tiềm năng hải sản, dầu lửa và khí đốt nên là nơi dễ xảy ra đụng độ lợi ích giữa nhiều quốc gia. Sự căng thẳng, thậm chí xung đột trên vùng biển này sẽ gây ra tình trạng bất ổn trong khu vực, đồng thời làm phức tạp mối quan hệ quốc tế. Các nước ASEAN và Trung Quốc đã thỏa thuận về những giải pháp chung trong “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (năm 2002) song điều đó cần được thực thi một cách nghiêm chỉnh để tránh mọi vụ xung đột có thể bùng phát. Sự đoàn kết nhất trí của các nước ASEAN cũng như tiếng nói công lý của dư luận thế giới có ý nghĩa quan trọng đối với việc gìn giữ hòa bình, an ninh và ổn định ở Đông Nam Á và thế giới.
Trong khi tăng cường đoàn kết nội khối, ASEAN không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại, phát huy hiệu quả của các cơ chế ASEAN+3, ASEAN+1, tăng cường quan hệ với các đối tác, đẩy mạnh hợp tác của Cấp cao Đông Á (EAS)... ASEAN với những sáng kiến và uy tín của mình, luôn đóng vai trò chủ thể trong các hoạt động đa phương liên quan đến lợi ích của các bên. Các nhà lãnh đạo cấp cao ASEAN đã “nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác ASEAN với các đối tác bên ngoài trong việc duy trì hòa bình và ổn định của khu vực, nâng cao liên kết nội khối ASEAN, thu hẹp khoảng cách phát triển, tăng cường kết nối trong ASEAN và mở rộng kết nối ASEAN ra cả khu vực”(2).
Nhằm tiến tới Cộng đồng Kinh tế, ASEAN đã đạt được nhiều thành tựu trong việc thực hiện AFTA, từ đầu năm nay 95,5% các dòng thuế trong chương trình cắt giảm CEPT - AFTA đã giảm xuống mức 0% - 5%. Và khi cả 10 thành viên ASEAN gia nhập CEPT - AFTA thì thương mại nội khối tăng gần gấp ba lần, đạt 458,1 tỉ USD năm 2008 so với năm 2000(3). Cũng từ đầu năm nay bắt đầu có hiệu lực các hiệp định thương mại tự do với bên ngoài (Trung Quốc, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, ấn Độ...). Vấn đề ký kết FTA với Nhật Bản đang được xúc tiến. Hội nghị Cấp cao ASEAN 16 tại Hà Nội (tháng 4-2010) ghi nhận các sáng kiến nhằm tiến tới sự liên kết khu vực rộng hơn, xem xét các khuyến nghị về Hiệp định Thương mại tự do Đông Á (EAFTA) và Quan hệ đối tác kinh tế toàn diện Đông Á (CEPEA).
Việc phục hồi và phát triển kinh tế bền vững trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu là thách thức lớn đối với các nước Đông Nam Á. Các nhà lãnh đạo ASEAN "tin tưởng rằng với sự năng động sẵn có, khu vực ASEAN sẽ đạt được sự phục hồi bền vững cũng như mức tăng trưởng kinh tế cao hơn"(4). Quyết tâm xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thể hiện trong tiến trình xây dựng ASEAN thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất vào năm 2015.
Việc mở rộng tổ chức ASEAN để lộ ra một khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước thành viên: nhóm 6 thành viên cũ có mức độ kinh tế cao hơn 4 nước thành viên mới là Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma và Việt Nam (CLMV). Cho nên, thu hẹp sự chênh lệch giữa hai nhóm nước là yêu cầu khách quan nhằm tạo điều kiện để 4 nước hội nhập đầy đủ vào khu vực, thúc đẩy ASEAN phát triển đồng đều và bền vững. Sáng kiến Hội nhập khu vực
(IAI - Việt Nam 2001) qua 2 giai đoạn: 2002 - 2008 và 2009 - 2015 với 4 lĩnh vực ưu tiên là phát triển kết cấu hạ tầng (giao thông và năng lượng); phát triển nguồn nhân lực (tăng cường năng lực lao động, việc làm và giáo dục đại học, cao đẳng); nâng cao trình độ công nghệ thông tin và thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực (thương mại, dịch vụ, hải quan, các tiêu chuẩn và dự án đầu tư). Đến nay, giai đoạn thứ nhất đã qua với những kết quả khả quan và bước sang giai đoạn thứ hai còn phải vượt qua nhiều trở ngại với hy vọng đạt được mục tiêu năm 2015, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế đang tác động xấu đến toàn thế giới.
Việc phát triển kết cấu hạ tầng và thúc đẩy sự liên kết khu vực có vai trò then chốt trong sự phục hồi kinh tế toàn cầu thông qua các hoạt động thương mại, đầu tư, du lịch, công nghệ thông tin, năng lượng, giao thông vận tải đường bộ, đường biển và đường hàng không ở các tiểu vùng thuộc Đông Nam Á. Sáng kiến Kết nối ASEAN (Thái Lan - 2009) nhằm tập trung nguồn lực và làm sâu sắc hơn sự liên kết của các tiểu vùng trong ASEAN như Khu vực tăng trưởng Đông ASEAN Bru-nây - In-đô-nê-xi-a - Ma-lai-xi-a - Phi-lip-pin (BIMP - EAGA), Tam giác tăng trưởng In-đô-nê-xi-a - Ma-lai-xi-a - Thái Lan (IMT-GT), Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), Tam giác phát triển Cam-pu-chia - Lào - Việt Nam (CLV), Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawa - Chao Phraya - Mekong (ACMECS) là những cơ chế hữu hiệu thúc đẩy sự thực thi các sáng kiến kết nối khu vực. Sự kết nối có thể mở rộng ra cả vùng Đông Á và xa hơn nữa trong tương lai sẽ đem lại hiệu quả to lớn đối với Đông Nam Á và cả Đông Á.
Các nước ASEAN với sự nỗ lực của mình cùng sự liên kết trong và ngoài khu vực quyết tâm "giải quyết dứt điểm vấn đề nghèo đói và khoảng cách kinh tế - xã hội vốn dai dẳng trong các nước thành viên ASEAN"(5). Khắc phục nạn nghèo đói là nhiệm vụ vừa mang tính khẩn cấp, vừa có ý nghĩa lâu dài, phù hợp với Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) của Liên hợp quốc mà Việt Nam là một trong những nước được đánh giá cao về thành tựu trong lĩnh vực này.
Mục tiêu bao trùm của việc xây dựng Cộng đồng Văn hóa - xã hội là phục vụ nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. ASEAN sẽ tập trung đẩy mạnh hợp tác để giải quyết các vấn đề liên quan đến bình đẳng và công bằng xã hội, phát huy bản sắc văn hóa, tạo dựng ý thức cộng đồng, đối phó có hiệu quả với những thách thức toàn cầu như thiên tai, biến đổi khí hậu và dịch bệnh...
Sự biến đổi khí hậu, trái đất nóng lên, nước biển dâng cao, dòng sông cạn kiệt... đe dọa an ninh lương thực và an sinh xã hội không còn là nguy cơ xa vời mà đã tác động xấu đến đời sống hằng ngày của người dân, trong đó Việt Nam là một trong những nơi chịu hậu quả nặng nề. Từ Hà Nội, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua Tuyên bố về ứng phó chung đối với biến đổi khí hậu, “tái khẳng định mạnh mẽ cam kết tăng cường các nỗ lực ứng phó ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu với biến đổi khí hậu và các thách thức xuyên quốc gia khác”(6), tin tưởng rằng Sáng kiến ASEAN về Biến đổi khí hậu (ACCI) sẽ góp phần tăng cường sự hợp tác phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, quản lý nguồn nước. Đề xuất của Việt Nam về việc tổ chức vào tháng 10-2010 cuộc “Đối thoại quan hệ đối tác phát triển tiểu vùng Mê Công” sẽ là cơ hội tốt cho sự chia sẻ thông tin hướng tới sự hài hòa trong triển khai các dự án và sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có.
Theo sáng kiến của Việt Nam, một trọng tâm hoạt động của Cộng đồng Văn hóa - xã hội năm 2010 là hướng vào việc bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em. ủy ban Thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em ASEAN (ACWC) ra đời là sự kiện quan trọng góp phần tăng cường hợp tác khu vực và hỗ trợ nỗ lực của các quốc gia để thúc đẩy sự thịnh vượng và phát triển, trao quyền và khả năng tham dự của phụ nữ và trẻ em trong tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN.
Để cung cấp nguồn nhân lực có kỹ thuật, đồng thời đáp ứng nhu cầu về an sinh xã hội, vấn đề đào tạo nghề được đặt đúng tầm quan trọng của nó. Các nước ASEAN coi trọng việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề, nhất là về kỹ năng nghề. Theo đề nghị của Việt Nam, những người lao động trong một nước ASEAN khi đã đạt được trình độ tay nghề đúng tiêu chuẩn chung thì cũng sẽ được công nhận ở nước khác trong Cộng đồng. Điều đó mở rộng khả năng dịch chuyển lao động giữa các nước trong khu vực, giải quyết tích cực công ăn việc làm, giảm nguy cơ thất nghiệp, góp phần xóa đói, giảm nghèo.
Với việc Việt Nam đảm lãnh cương vị Chủ tịch ASEAN năm 2010, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trịnh trọng tuyên bố: “Việt Nam sẽ luôn là thành viên tích cực, chủ động và có trách nhiệm, góp phần xây dựng một ASEAN ngày càng liên kết chặt chẽ và vững mạnh”(7). Trên tinh thần đó, Việt Nam luôn cùng các thành viên ASEAN không ngừng nâng cao tầm hoạt động của ASEAN hướng về người dân, lấy người dân làm trung tâm, làm cho mỗi người dân Đông Nam Á đều ý thức là công dân ASEAN, để cùng hợp lực xây dựng một Cộng đồng ASEAN đứng vững trên ba chân kiềng - ba Cộng đồng trụ cột theo đúng Lộ trình ASEAN - 2015./.
____________________________________________
(1) Thông cáo chung của Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN năm 1994. Xem http:/www.aseansec.org
(2) Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 16 ngày 8 - 9-4-2010 tại Hà Nội
(3) Tuyên bố của Chủ tịch... đã dẫn, tr 4
(4) Tuyên bố của các nhà lãnh đạo ASEAN về phục hồi và phát triển bền vững
Xem http://www. mofa.gov.vn/vi/ctc-quocte, ngày
31-5-2010, tr 1
(5) Tuyên bố của các nhà lãnh đạo ASEAN... đã dẫn
(6) Tuyên bố của Chủ tịch... đã dẫn
(7) Báo Nhân dân ngày 26-10-2009
Vũ Dương Ninh
GS, Đại học Quốc gia Hà Nội
Số 15 (207) năm 2010