(a) Thuận lợi
Ø Nâng
cao vị thế và tạo thế đứng vững chắc trên trường quốc tế, có tiếng nói
trong việc định hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới thông
qua những cuộc thương lượng và đàm phán, từ đó có điều kiện bảo vệ các
quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ theo hướng có lợi cho quốc gia.
Ø Có
điều kiện khai thác nhiều tiềm năng thông qua việc hợp tác đa dạng với
nhiều đối tác để mở rộng và ổn định thị trường, tiếp cận nguồn vốn quốc
tế, tạo môi trường hấp dẫn để đẩy nhanh tiến độ thu hút đầu tư nước
ngoài, tiếp cận nhanh sự chuyển giao khoa học – công nghệ trên diện rộng
và tham gia tích cực vào việc phân công lao động quốc tế.
Ø Có
điều kiện thúc đẩy tiến trình cải cách và cơ cấu lại nền kinh tế linh
hoạt và năng động hơn theo hướng nâng cao hiệu quả. Cụ thể là đẩy nhanh
quá trình cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước nâng cao tính cạnh
tranh của các doanh nghiệp, xoá bỏ cơ chế còn mang tính bao cấp trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư và xuất nhập khẩu phát huy hơn
nữa tiềm năng và thế mạnh của các thành phần kinh tế.
Ø Nâng
cao khả năng nắm bắt và vận dụng có hiệu quả các quy tắc ứng xử theo
chuẩn mực quốc tế, góp phần nhanh chóng đưa nền kinh tế của nước ta tiến
lên phát triển ngang tầm quốc tế.
Ø Có
điều kiện thực hiện tốt các quan hệ đối ngoại, góp phần tích cực trong
việc duy trì an ninh thế giới, giữ vững và ổn định an ninh quốc gia để
phát triển.
(b) Khó khăn
Ø Thách
thức lớn nhất là trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, của từng ngành và từng doanh
nghiệp nói riêng còn yếu.
Ø Việt Nam
đi sau rất nhiều nước trên đường phát triển. Cơ chế thị trường còn đang
trong quá trình hình thành, các khuôn khổ pháp lý còn chưa hoàn chỉnh,
chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Ø Còn
tồn tại nhiều bất hợp lý trong cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế, trong
việc phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế, trong việc vận dụng các
chính sách, quy định, trong việc quy hoạch chiến lược phát triển các
ngành kinh tế.
Ø Sự
hiểu biết về các tổ chức cần hội nhập còn rất hạn chế, đội ngũ cán bộ
còn thiếu lại bị hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ và kỹ năng hoạt động
đàm phán đa phương.
Ø Mở cửa kinh tế còn làm cho nền kinh tế trong nước dễ bị tác động bởi sự biến động không thuận lợi diễn ra từ các nước khác.
Ø Các
nước ASEAN có những lợi thế tương đồng giống Việt Nam do vậy việc hợp
tác thông qua sự phân công lao động sẽ trở nên khó khăn phức tạp và mang
tính cạnh tranh gay gắt hơn.
Ø Cơ
cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu là nông sản chưa qua
chế biến. Đây là những mặt hàng giảm thuế chậm, trong khi đó những mặt
hàng công nghiệp, xuất nguyên liệu là những mặt hàng giảm thuế nhanh lại
là sản phẩm xuất khẩu của các nước AFTA khác và là sản phẩm nhập khẩu
của Việt Nam.
Ø Cạnh
tranh gay gắt trong thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là trong điều kiện
hiện nay, khi mà nhiều nước trong khu vực đã vực dậy sau cơn khủng hoảng