Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2011

21. Hội nhập kinh tế quốc tế của các nước ASEAN

TCCS - Với tổng thể nền kinh tế có quy mô lớn hơn Ấn Độ, Hàn Quốc; dân số hơn nửa tỷ người, ASEAN có nhiều tiềm năng trở thành một trung tâm kinh tế sánh ngang với Trung Quốc, Ấn Độ, Bra-xin và Nga. ASEAN đang tăng cường hội nhập để tối ưu hóa khả năng hiệp lực trong khu vực và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, cam kết thúc đẩy nhanh kế hoạch thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015 bất chấp những thách thức từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
I - Hình thức hội nhập kinh tế ASEAN
1 - Liên kết kinh tế nội khối
Nội dung hợp tác chủ yếu và đặc biệt quan trọng của ASEAN là thúc đẩy tự do hóa kinh tế - thương mại và liên kết kinh tế nội khối. Kim ngạch nội khối ASEAN tăng gấp 2 lần trong 5 năm qua, đạt 1.710 tỉ USD (năm 2008). Thương mại nội khối tăng đồng nghĩa với việc hậu cần nhập khẩu và hậu cần xuất khẩu tăng, các dịch vụ hậu cần và giao thông vận tải sẽ ngày càng sinh ra nhiều lợi nhuận hơn trước kia. Tất cả 10 nước ASEAN đều đạt mức tăng trưởng kinh tế cao so với các khu vực khác trên thế giới (với nhịp độ tăng trung bình hằng năm từ 5% - 10%).
Tuy nhiên, ASEAN nhận thức rằng, không thể liên kết kinh tế có hiệu quả nếu không thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên trong khu vực. Thu hẹp khoảng cách phát triển vừa là yêu cầu cấp bách, vừa là mục tiêu lâu dài, phục vụ cho sự phát triển đồng đều của khu vực, biến ASEAN trở thành khu vực kinh tế năng động. Vì vậy, ASEAN đã thực sự bắt tay vào tiến hành các chương trình hợp tác nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, điều này thể hiện rõ trong sáng kiến hội nhập ASEAN.
Năm 2008, ASEAN đã thu hút được 60 tỉ USD vốn FDI, trong khi đó, đầu tư nội khối cũng đạt con số tương đương. Các nhà đầu tư châu á coi In-đô-nê-xi-a và Việt Nam là những địa chỉ thay thế khi chi phí kinh doanh tại Trung Quốc ngày một tăng cao. Trên thực tế, xét về quy mô kinh tế, GDP của Trung Quốc lớn gấp 3 lần ASEAN, nhưng Trung Quốc chỉ thu hút được 108 tỉ USD vốn FDI (gấp 1,8 lần ASEAN).
Năm 2009, để hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), các nước thành viên ASEAN đã tập trung thực hiện 3 biện pháp chính sau: Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế pháp lý cho AEC; Thứ hai, tăng cường cơ chế giám sát, thực thi các thỏa thuận kinh tế đã đạt được thông qua Biểu đánh giá AEC (AEC Scorcard); Thứ ba, nâng cao nhận thức của cộng đồng về AEC thông qua chương trình truyền thông ASEAN.
Biện pháp thứ nhất đã được hoàn thiện bằng việc ký kết 3 thỏa thuận quan trọng, bao gồm: Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA); Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) và Gói cam kết thứ 7 về dịch vụ trong khuôn khổ Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN (AFAS). Biện pháp thứ hai về cơ bản đã phát huy hiệu quả thực chất, có 87/124 văn kiện pháp lý được ký kết liên quan tới AEC đã có hiệu lực (chiếm hơn 70%). Biện pháp thứ ba cũng đã được một số thành viên ASEAN áp dụng sáng tạo và có hiệu quả, cụ thể như phổ biến thông tin, kiến thức cập nhật về AEC, thiết lập thêm kênh trao đổi thường xuyên giữa các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp của ASEAN. Việt Nam đã nhất trí chủ trương xây dựng Chương trình truyền thông AEC có tham khảo cách làm của một số nước ASEAN.
Tóm lại, thúc đẩy hội nhập kinh tế nội khối sẽ giúp 10 thành viên ASEAN cạnh tranh với các nền kinh tế khổng lồ láng giềng, như Trung Quốc và ấn Độ. Sự hội nhập sâu hơn của ASEAN rất cần thiết để tối đa hóa sức mạnh hợp lực nội khối và giữ cho khu vực này gắn kết hơn với các nhà đầu tư và kinh tế quốc tế.
2 - Mở rộng thêm nhiều hình thức liên kết
Bên cạnh việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế nội khối, ASEAN có khuynh hướng "mở" với các đối tác ngoài khối thông qua các hình thức liên kết kinh tế, thương mại. Hợp tác kinh tế của ASEAN với các đối tác bên ngoài được triển khai từ giữa những năm 90 của thế kỷ XX chủ yếu là với các đối tác lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Liên minh châu Âu (EU)... Hai nền kinh tế "đầu tàu' của khu vực - Nhật Bản và Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng - là những yếu tố thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế ASEAN. Hiệp định thương mại tự do song phương (FTA) được coi là một trong những con đường ngắn nhất để tăng cường hiệu quả hợp tác kinh tế giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài. ASEAN đã ký kết các hiệp định FTA với một số đối tác lớn như Trung Quốc (đã có hiệu lực từ ngày 1-1- 2010), Nhật Bản (có hiệu lực từ năm 2008), Hàn Quốc (có hiệu lực từ tháng 6-2007), Ấn Độ (từ tháng 8-2009), Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân (từ ngày 27-2-2009 và sẽ có hiệu lực sau năm 2010).
Ngoài ra, hợp tác kinh tế giữa ASEAN với nhiều đối tác lớn và quan trọng khác như Mỹ, Nga, Ca-na-đa.. đang ngày càng được tăng cường, góp phần tích cực vào sự phát triển thương mại giữa ASEAN với các đối tác. Nhiều hình thức liên kết kinh tế với các đối tác bên ngoài, trong tương lai, sẽ tạo nên mạng lưới đan kết có tâm là ASEAN.
3 - Thành lập quỹ hợp tác khu vực và quốc tế
Thành lập các quỹ hợp tác thể hiện rõ mong muốn nỗ lực hội nhập kinh tế khu vực của ASEAN để đối phó với cơn bão tài chính toàn cầu. Quỹ Dự phòng khẩn cấp với sự hỗ trợ 10 tỉ USD của Ngân hàng thế giới được sử dụng mua các tài sản xấu và hỗ trợ về vốn đối với các tổ chức tài chính cũng như các công ty tư nhân. Ngoài ra, ASEAN cùng với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc (ASEAN+3) thành lập Quỹ tài chính khu vực cứu trợ khẩn cấp với tổng trị giá 120 tỉ USD do các thành viên đóng góp nhằm hỗ trợ tài chính cho những quốc gia gặp khó khăn. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc thống nhất tỷ lệ đóng góp 2:2:1 cho Quỹ Tài chính khu vực. Theo đó, Trung Quốc và Nhật Bản mỗi nước đóng góp 38,4 tỉ USD, Hàn Quốc đóng góp 19,2 tỉ USD. Các khoản đóng góp của 3 nước đối tác chiếm 80% trị giá quỹ. Còn lại 20% giá trị quỹ do các nước thành viên ASEAN đóng góp. Cụ thể, 4 nước (In-đô- nê-xi-a, Thái Lan, Xin-ga-po và Ma-lai-xi-a) mỗi nước sẽ đóng góp 4,76 tỉ USD; Phi-lip-pin đóng góp 3,68 tỉ USD. Các nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Mi-an-ma và Bru-nây đóng góp tùy theo dự trữ ngoại tệ của mỗi nước. Bên cạnh đó, ASEAN còn thành lập Quỹ hợp tác đầu tư với Trung Quốc trị giá 10 tỉ USD để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và nhận sự hỗ trợ của Nhật Bản - nền kinh tế lớn nhất khu vực - hơn 6 nghìn tỉ yên (61,54 tỉ USD) để khắc phục suy thoái kinh tế.
II - Hạn chế và bài học kinh nghiệm
1 - Những hạn chế
Kết quả hợp tác kinh tế trong ASEAN tuy đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng chưa thực sự tạo ra bước phát triển đột biến trong quan hệ kinh tế thương mại. Thị phần thương mại nội khối mới chỉ chiếm khoảng 25% tổng giá trị thương mại của cả khối. Tỷ lệ hàng hóa ASEAN tham gia thị trường toàn cầu chỉ ở mức 6%, đây là mức thấp so với quy mô GDP của khối. Từng nền kinh tế ASEAN chưa thực sự là những nền kinh tế mạnh và đang ở trong những giai đoạn phát triển kinh tế rất xa nhau. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa tiến trình hội nhập kinh tế toàn khối trong vòng 3 - 5 năm tới để cạnh tranh với các đối tác đang trỗi dậy.
Hợp tác nội khối ASEAN đang đứng trước không ít khó khăn. Mặc dù thương mại nội khối ASEAN đã duy trì ở mức ổn định 25% tổng khối lượng thương mại toàn khu vực, song nếu so với trao đổi thương mại nội khối của EU (hơn 70%), thì rõ ràng mức hội nhập và liên kết nội khối của ASEAN chưa cao. Điều quan trọng nữa là mức chênh lệch phát triển giữa các quốc gia phát triển ASEAN 6 (Bru-nây, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin, Thái Lan và Xin-ga-po) với ASEAN 4 khá cao - được coi là yếu tố cản trở chính của sự liên kết kinh tế. Chênh lệch phát triển trong ASEAN chủ yếu tập trung ở 4 lĩnh vực chủ yếu (4I), gồm kết cấu hạ tầng (Infrastructure); thu nhập (Income); liên kết (Integration) và thể chế (Institutional). Mức chênh lệch đó được thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, sự chênh lệch lớn nhất là mức độ mở cửa thị trường. Thuế nhập khẩu trung bình của ASEAN ở mức 9,53%, dao động từ 0% (Xin-ga-po) đến 17,92% (Việt Nam). Để nhập khẩu bất kỳ loại hàng hóa nào trong ASEAN cần mất thời gian trung bình là 32 ngày. Mức dao động khác nhau từ 3 ngày (Xin-ga-po) tới 45 ngày (Cam-pu-chia) và 78 ngày (Lào). Thời gian trung bình để bắt đầu hoạt động kinh doanh ở ASEAN là 64 ngày, trong khi đó ở Xin-ga-po chỉ cần 6 ngày, còn ở In-đô-nê-xi-a là 97 ngày; Lào: 163 ngày.
Thứ hai, chênh lệch mức thu nhập bình quân đầu người. Mức thu nhập bình quân đầu người theo giá hiện hành của Xin-ga-po (25.207 USD) - nước có mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất trong khu vực - cao gấp 152 lần so với Mi-an-ma (166 USD) - nước nghèo nhất khu vực. Thu nhập bình quân đầu người của Bru-nây Ma-lai-xi-a cũng chỉ bằng 1/2 hoặc 1/5 của Xin-ga-po. Trong khi đó, thu nhập bình quân đầu người của Phi-lip-pin chỉ bằng 1/4 của Ma-lai-xi-a.
Thứ ba, chênh lệch về cơ cấu kinh tế. Không chỉ GDP đầu người giữa các nước thành viên chênh lệch mà trình độ phát triển của các nước thành viên cũng khác nhau nhiều. Trong khi Xin-ga-po được đánh giá là nền kinh tế có năng lực cạnh tranh cao thứ 6 trên thế giới (năm 2005), thì Việt Nam chỉ được xếp thứ 81/117, Cam-pu-chia xếp thứ 112/117. Tăng trưởng xuất khẩu chế tạo và mức đóng góp của ngành dịch vụ trong GDP của ASEAN 6 cũng chiếm khá cao (hơn 40%) so với mức 26% - 27% của các nước ASEAN 4 kể từ năm 2003 đến nay.
Thứ tư, chênh lệch trong xu hướng xuất khẩu. ASEAN 6 chiếm ưu thế trong đóng góp xuất khẩu vào GDP (85%) so với 31% của ASEAN 4 từ năm 2004, trong khi nhập khẩu đóng góp 21% GDP của ASEAN 4 so với 66% GDP của ASEAN 6. Xin-ga-po được coi là nền kinh tế tự do thứ 2 trên thế giới (năm 2006), trong khi Phi-lip-pin, In-đô-nê-xi-a và Việt Nam được xem là những nền kinh tế ít tự do (thứ tự xếp hạng tương ứng là 98, 134 và 142). Lào và Mi-an-ma là những nền kinh tế phi tự do nhất, đứng vị trí thứ 149 và 155. Sự khác nhau trong xu hướng thương mại dẫn đến sự chênh lệch thuế quan.
Thứ năm, chênh lệch về chỉ số phát triển nguồn nhân lực (HDI). Dựa trên các thông số về tuổi thọ, mức chi tiêu cho giáo dục, sức khỏe, tỷ lệ người biết chữ... ASEAN được chia thành 4 nhóm về HDI: nhóm 1 "phát triển nguồn nhân lực cao" gồm Xin-ga-po và Bru-nây; nhóm 2 "phát triển nguồn nhân lực trung bình cao" gồm Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin và Thái Lan; nhóm 3 "phát triển nguồn nhân lực trung bình" gồm In-đô-nê-xi-a và Việt Nam; cuối cùng là nhóm "phát triển nguồn nhân lực trung bình thấp" gồm 3 nước còn lại là Cam-pu-chia, Lào và Mi-an-ma.
Thứ sáu, chênh lệch mức giàu nghèo. Theo tiêu chí đánh giá mức nghèo của quốc tế (dưới USD 1/ngày), Lào và Cam-pu-chia có số dân sống dưới ngưỡng nghèo cao nhất, trong khi đó Xin-ga-po (0%); Ma-lai-xi-a (0,2%); Phi-lip-pin (15,5%).
Thứ bảy, chênh lệch kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và năng lượng. Mức chênh lệch giữa ASEAN 6 và các nước ASEAN 4 thể hiện rõ ở mạng lưới đường cao tốc, đường sắt, hệ thống dây dẫn và đường ống dẫn ga.... Nhóm ASEAN 4 cũng thiếu kết cấu hạ tầng "mềm" (công nghệ thông tin, viễn thông và hệ thống ITC) - điều kiện tối cần thiết cho các giai đoạn phát triển tiếp theo. Rõ ràng, những chênh lệch về kinh tế - xã hội, sự khác nhau về năng lực tổ chức giữa các nhóm nước ASEAN đã kìm hãm tiến độ liên kết và hội nhập khu vực.
Chênh lệch phát triển giữa các nước thành viên ASEAN còn được thể hiện ở chênh lệch về sự phát triển của thị trường tài chính, năng lực tài chính... Trong đó, việc thiếu tài trợ tài chính trong khu vực được xem là khó khăn nhất. Chênh lệch về trình độ phát triển làm cho ASEAN khó khăn hơn trong các nỗ lực tập thể, tính khả thi của các chính sách chung bị hạn chế.
2 - Bài học kinh nghiệm
Để thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập, ASEAN cần tiếp tục đẩy nhanh liên kết kinh tế nội khối, tích cực đàm phán với các đối tác bên ngoài để hình thành các khu vực mậu dịch tự do rộng lớn hơn. Nhưng để liên kết kinh tế nội khối và việc đàm phán xây dựng các FTA với các nước ngoài khu vực được tiến triển nhanh, ASEAN cần giải quyết 3 vấn đề rất trọng yếu sau:
Một là, ASEAN cần nỗ lực thực hiện đầy đủ các cam kết đã có và tiếp tục đề ra các sáng kiến mới nhằm đẩy nhanh tiến trình liên kết kinh tế nội khối, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên, tiến tới hình thành AEC đúng tiến độ.
Hai là, xây dựng các FTA với các đối tác cần phải được tiến hành theo một lộ trình phù hợp, cùng có lợi, cùng phát triển.
Ba là, sự tham gia của các doanh nghiệp cần được thúc đẩy ở cả hai phía. Một mặt, các chính phủ cần xuất phát từ lợi ích của doanh nghiệp để xây dựng các khu vực mậu dịch tự do; mặt khác, chính doanh nghiệp cũng cần chủ động khai thác triệt để những cơ hội mà các FTA mang lại.
Kế hoạch tổng thể cho tiến trình hợp tác kinh tế và hội nhập của ASEAN cho tới năm 2015 là thành lập AEC. AEC sẽ hội tụ những biện pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa tự do hóa thương mại, cải thiện hạ tầng kinh doanh, giảm chi phí giao dịch thương mại, tăng tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư của ASEAN, củng cố hệ thống giải quyết tranh chấp nội bộ khối. Khi AEC trở thành hiện thực, sẽ tồn tại một khu vực kinh tế ASEAN cạnh tranh, thịnh vượng và ổn định, ở đó có sự dịch chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, dịch chuyển tự do hơn cho các dòng vốn, phát triển kinh tế công bằng và giảm đói nghèo cũng như bất bình đẳng kinh tế - xã hội. Hiến chương ASEAN sẽ giúp khu vực Đông Nam á trở thành một tổ chức có cơ cấu chặt chẽ hơn nhằm đáp ứng tốt hơn những thách thức đặt ra trong quá trình hội nhập khu vực, sự mở rộng các mối quan hệ đối ngoại và toàn cầu hoá nhanh chóng. Trong khi thực hiện điều này, ASEAN phải duy trì một sân chơi hiệu quả trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực. Hiến chương ASEAN sẽ thiết lập một khuôn khổ và nền tảng pháp lý cho ASEAN tái cơ cấu cơ chế hiện hành của nó, cải tiến quá trình ra quyết định nhằm củng cố hiệu lực và bảo đảm việc thực hiện đúng tiến độ các hiệp định, quyết định của ASEAN. Liên kết kinh tế ASEAN được coi là trụ cột chính, là yêu cầu cấp bách để phát triển kinh tế khu vực. Tuy nhiên, để đẩy nhanh quá trình này, ASEAN rất cần có sự tham khảo tiến trình liên kết của các tổ chức khu vực, nhất là mô hình liên kết EU. Tuy hai mô hình liên kết này có những khác biệt, nhưng từ kinh nghiệm EU và thực tiễn ASEAN cần sáng tạo đưa ra hướng đi hợp lý cho AEC. Để đạt được mục tiêu liên kết kinh tế ASEAN (AEC) thành công vào năm 2015, ASEAN cần tính kỹ đến những điểm sau:
Thứ nhất, cần có những cam kết rõ ràng về chính trị theo từng giai đoạn. Nghĩa là tính đến những khó khăn và mức phát triển kinh tế khác nhau để quyết định thời điểm liên kết cho từng nhóm nước và đối với từng lĩnh vực. Điều quan trọng hơn cả của quá trình liên kết là ý chí chính trị bền vững và sự quyết tâm thực hiện của các nhà lãnh đạo ASEAN.
Thứ hai, cần có tầm nhìn và lộ trình liên kết rõ ràng. Mặc dù ASEAN đã đưa ra lộ trình liên kết cho từng lĩnh vực trong ngành hậu cần, song cần phải xác định mục tiêu cụ thể của từng lĩnh vực trong mỗi giai đoạn.
Thứ ba, cần có những nguyên tắc và tính tổ chức rõ ràng. Tham khảo thêm kinh nghiệm của EU, nhưng không coi đó là mô hình bắt chước bởi các thành viên ASEAN không dễ dàng gì giao phó chủ quyền kinh tế của mình cho một chủ thể ngoại biên (superanational body) như EU đã từng làm. Liên kết thị trường ASEAN sẽ được tiếp tục tiến hành trên tinh thần đàm phán và cùng hành động giữa các quốc gia, chứ không theo sự chỉ đạo của cường quốc bên ngoài.
Thứ tư, ASEAN cần kiên quyết khắc phục, xóa bỏ dần chênh lệch phát triển giữa các nước thành viên trong khu vực như EU đã từng làm. Đây là cách duy nhất hướng tớicộng đồng ASEAN bền vững trong tương lai.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của ASEAN trở nên lỗi thời. Tuy nhiên, qua đó ASEAN cần rút ra bài học không chỉ chạy theo xuất khẩu để bị phụ thuộc vào thị trường phương Tây, mà phải biết "lấy tiêu thụ nội địa làm trụ cột phát triển" như kinh nghiệm Trung Quốc đã làm. Hội nhập kinh tế nội khối ASEAN càng trở nên có ý nghĩa sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, trong tương lai, ASEAN vẫn phải chú ý và tiếp tục duy trì xu hướng xuất khẩu bởi lẽ 60% hàng hóa sản xuất trong khu vực là sang Mỹ, EU, Nhật Bản và các nước phương Tây khác./.
Phạm Thị Thanh Bình - Lê Tố Hoa
TS, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới - TS, Trường Đại học Kinh tế quốc dân
TCCS: 12 (204) năm 2010