TCCS - Với tổng
thể nền kinh tế có quy mô lớn hơn Ấn Độ, Hàn Quốc; dân số hơn nửa tỷ
người, ASEAN có nhiều tiềm năng trở thành một trung tâm kinh tế sánh
ngang với Trung Quốc, Ấn Độ, Bra-xin và Nga. ASEAN đang tăng cường hội
nhập để tối ưu hóa khả năng hiệp lực trong khu vực và thu hút sự quan
tâm của các nhà đầu tư quốc tế, cam kết thúc đẩy nhanh kế hoạch thành
lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015 bất chấp những thách thức từ
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
I - Hình thức hội nhập kinh tế ASEAN
1 - Liên kết kinh tế nội khối
Nội dung hợp tác chủ yếu
và đặc biệt quan trọng của ASEAN là thúc đẩy tự do hóa kinh tế - thương
mại và liên kết kinh tế nội khối. Kim ngạch nội khối ASEAN tăng gấp 2
lần trong 5 năm qua, đạt 1.710 tỉ USD (năm 2008). Thương mại nội khối
tăng đồng nghĩa với việc hậu cần nhập khẩu và hậu cần xuất khẩu tăng,
các dịch vụ hậu cần và giao thông vận tải sẽ ngày càng sinh ra nhiều lợi
nhuận hơn trước kia. Tất cả 10 nước ASEAN đều đạt mức tăng trưởng kinh
tế cao so với các khu vực khác trên thế giới (với nhịp độ tăng trung
bình hằng năm từ 5% - 10%).
Tuy nhiên, ASEAN nhận
thức rằng, không thể liên kết kinh tế có hiệu quả nếu không thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên trong khu vực. Thu hẹp
khoảng cách phát triển vừa là yêu cầu cấp bách, vừa là mục tiêu lâu dài,
phục vụ cho sự phát triển đồng đều của khu vực, biến ASEAN trở thành
khu vực kinh tế năng động. Vì vậy, ASEAN đã thực sự bắt tay vào tiến
hành các chương trình hợp tác nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, điều
này thể hiện rõ trong sáng kiến hội nhập ASEAN.
Năm 2008, ASEAN đã thu
hút được 60 tỉ USD vốn FDI, trong khi đó, đầu tư nội khối cũng đạt con
số tương đương. Các nhà đầu tư châu á coi In-đô-nê-xi-a và Việt Nam là
những địa chỉ thay thế khi chi phí kinh doanh tại Trung Quốc ngày một
tăng cao. Trên thực tế, xét về quy mô kinh tế, GDP của Trung Quốc lớn
gấp 3 lần ASEAN, nhưng Trung Quốc chỉ thu hút được 108 tỉ USD vốn FDI
(gấp 1,8 lần ASEAN).
Năm 2009, để hướng tới
mục tiêu xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), các nước thành viên
ASEAN đã tập trung thực hiện 3 biện pháp chính sau: Thứ nhất, hoàn thiện
cơ chế pháp lý cho AEC; Thứ hai, tăng cường cơ chế giám sát, thực thi
các thỏa thuận kinh tế đã đạt được thông qua Biểu đánh giá AEC (AEC
Scorcard); Thứ ba, nâng cao nhận thức của cộng đồng về AEC thông qua
chương trình truyền thông ASEAN.
Biện pháp thứ nhất đã
được hoàn thiện bằng việc ký kết 3 thỏa thuận quan trọng, bao gồm: Hiệp
định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA); Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN
(ACIA) và Gói cam kết thứ 7 về dịch vụ trong khuôn khổ Hiệp định khung
về dịch vụ ASEAN (AFAS). Biện pháp thứ hai về cơ bản đã phát huy hiệu
quả thực chất, có 87/124 văn kiện pháp lý được ký kết liên quan tới AEC
đã có hiệu lực (chiếm hơn 70%). Biện pháp thứ ba cũng đã được một số
thành viên ASEAN áp dụng sáng tạo và có hiệu quả, cụ thể như phổ biến
thông tin, kiến thức cập nhật về AEC, thiết lập thêm kênh trao đổi
thường xuyên giữa các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp của ASEAN. Việt
Nam đã nhất trí chủ trương xây dựng Chương trình truyền thông AEC có
tham khảo cách làm của một số nước ASEAN.
Tóm lại, thúc đẩy hội
nhập kinh tế nội khối sẽ giúp 10 thành viên ASEAN cạnh tranh với các nền
kinh tế khổng lồ láng giềng, như Trung Quốc và ấn Độ. Sự hội nhập sâu
hơn của ASEAN rất cần thiết để tối đa hóa sức mạnh hợp lực nội khối và
giữ cho khu vực này gắn kết hơn với các nhà đầu tư và kinh tế quốc tế.
2 - Mở rộng thêm nhiều hình thức liên kết
Bên cạnh việc đẩy mạnh
hội nhập kinh tế nội khối, ASEAN có khuynh hướng "mở" với các đối tác
ngoài khối thông qua các hình thức liên kết kinh tế, thương mại. Hợp tác
kinh tế của ASEAN với các đối tác bên ngoài được triển khai từ giữa
những năm 90 của thế kỷ XX chủ yếu là với các đối tác lớn như Mỹ, Nhật
Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Liên minh châu Âu (EU)... Hai nền kinh tế "đầu
tàu' của khu vực - Nhật Bản và Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng - là
những yếu tố thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế ASEAN. Hiệp định thương
mại tự do song phương (FTA) được coi là một trong những con đường ngắn
nhất để tăng cường hiệu quả hợp tác kinh tế giữa ASEAN với các đối tác
bên ngoài. ASEAN đã ký kết các hiệp định FTA với một số đối tác lớn như
Trung Quốc (đã có hiệu lực từ ngày 1-1- 2010), Nhật Bản (có hiệu lực từ
năm 2008), Hàn Quốc (có hiệu lực từ tháng 6-2007), Ấn Độ (từ tháng
8-2009), Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân (từ ngày 27-2-2009 và sẽ có hiệu lực
sau năm 2010).
Ngoài ra, hợp tác kinh tế
giữa ASEAN với nhiều đối tác lớn và quan trọng khác như Mỹ, Nga,
Ca-na-đa.. đang ngày càng được tăng cường, góp phần tích cực vào sự phát
triển thương mại giữa ASEAN với các đối tác. Nhiều hình thức liên kết
kinh tế với các đối tác bên ngoài, trong tương lai, sẽ tạo nên mạng lưới
đan kết có tâm là ASEAN.
3 - Thành lập quỹ hợp tác khu vực và quốc tế
Thành lập các quỹ hợp tác
thể hiện rõ mong muốn nỗ lực hội nhập kinh tế khu vực của ASEAN để đối
phó với cơn bão tài chính toàn cầu. Quỹ Dự phòng khẩn cấp với sự hỗ trợ
10 tỉ USD của Ngân hàng thế giới được sử dụng mua các tài sản xấu và hỗ
trợ về vốn đối với các tổ chức tài chính cũng như các công ty tư nhân.
Ngoài ra, ASEAN cùng với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc (ASEAN+3)
thành lập Quỹ tài chính khu vực cứu trợ khẩn cấp với tổng trị giá 120 tỉ
USD do các thành viên đóng góp nhằm hỗ trợ tài chính cho những quốc gia
gặp khó khăn. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc thống nhất tỷ lệ đóng
góp 2:2:1 cho Quỹ Tài chính khu vực. Theo đó, Trung Quốc và Nhật Bản mỗi
nước đóng góp 38,4 tỉ USD, Hàn Quốc đóng góp 19,2 tỉ USD. Các khoản
đóng góp của 3 nước đối tác chiếm 80% trị giá quỹ. Còn lại 20% giá trị
quỹ do các nước thành viên ASEAN đóng góp. Cụ thể, 4 nước (In-đô-
nê-xi-a, Thái Lan, Xin-ga-po và Ma-lai-xi-a) mỗi nước sẽ đóng góp 4,76
tỉ USD; Phi-lip-pin đóng góp 3,68 tỉ USD. Các nước Việt Nam, Lào,
Cam-pu-chia, Mi-an-ma và Bru-nây đóng góp tùy theo dự trữ ngoại tệ của
mỗi nước. Bên cạnh đó, ASEAN còn thành lập Quỹ hợp tác đầu tư với Trung
Quốc trị giá 10 tỉ USD để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu và nhận sự hỗ trợ của Nhật Bản - nền kinh tế lớn nhất khu vực - hơn 6
nghìn tỉ yên (61,54 tỉ USD) để khắc phục suy thoái kinh tế.
II - Hạn chế và bài học kinh nghiệm
1 - Những hạn chế
Kết quả hợp tác kinh tế
trong ASEAN tuy đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng chưa thực sự
tạo ra bước phát triển đột biến trong quan hệ kinh tế thương mại. Thị
phần thương mại nội khối mới chỉ chiếm khoảng 25% tổng giá trị thương
mại của cả khối. Tỷ lệ hàng hóa ASEAN tham gia thị trường toàn cầu chỉ ở
mức 6%, đây là mức thấp so với quy mô GDP của khối. Từng nền kinh tế
ASEAN chưa thực sự là những nền kinh tế mạnh và đang ở trong những giai
đoạn phát triển kinh tế rất xa nhau. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa tiến
trình hội nhập kinh tế toàn khối trong vòng 3 - 5 năm tới để cạnh tranh
với các đối tác đang trỗi dậy.
Hợp tác nội khối ASEAN
đang đứng trước không ít khó khăn. Mặc dù thương mại nội khối ASEAN đã
duy trì ở mức ổn định 25% tổng khối lượng thương mại toàn khu vực, song
nếu so với trao đổi thương mại nội khối của EU (hơn 70%), thì rõ ràng
mức hội nhập và liên kết nội khối của ASEAN chưa cao. Điều quan trọng
nữa là mức chênh lệch phát triển giữa các quốc gia phát triển ASEAN 6
(Bru-nây, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin, Thái Lan và
Xin-ga-po) với ASEAN 4 khá cao - được coi là yếu tố cản trở chính của sự
liên kết kinh tế. Chênh lệch phát triển trong ASEAN chủ yếu tập trung ở
4 lĩnh vực chủ yếu (4I), gồm kết cấu hạ tầng (Infrastructure); thu nhập
(Income); liên kết (Integration) và thể chế (Institutional). Mức chênh
lệch đó được thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, sự
chênh lệch lớn nhất là mức độ mở cửa thị trường. Thuế nhập khẩu trung
bình của ASEAN ở mức 9,53%, dao động từ 0% (Xin-ga-po) đến 17,92% (Việt
Nam). Để nhập khẩu bất kỳ loại hàng hóa nào trong ASEAN cần mất thời
gian trung bình là 32 ngày. Mức dao động khác nhau từ 3 ngày (Xin-ga-po)
tới 45 ngày (Cam-pu-chia) và 78 ngày (Lào). Thời gian trung bình để bắt
đầu hoạt động kinh doanh ở ASEAN là 64 ngày, trong khi đó ở Xin-ga-po
chỉ cần 6 ngày, còn ở In-đô-nê-xi-a là 97 ngày; Lào: 163 ngày.
Thứ hai,
chênh lệch mức thu nhập bình quân đầu người. Mức thu nhập bình quân đầu
người theo giá hiện hành của Xin-ga-po (25.207 USD) - nước có mức thu
nhập bình quân đầu người cao nhất trong khu vực - cao gấp 152 lần so với
Mi-an-ma (166 USD) - nước nghèo nhất khu vực. Thu nhập bình quân đầu
người của Bru-nây Ma-lai-xi-a cũng chỉ bằng 1/2 hoặc 1/5 của Xin-ga-po.
Trong khi đó, thu nhập bình quân đầu người của Phi-lip-pin chỉ bằng 1/4
của Ma-lai-xi-a.
Thứ ba,
chênh lệch về cơ cấu kinh tế. Không chỉ GDP đầu người giữa các nước
thành viên chênh lệch mà trình độ phát triển của các nước thành viên
cũng khác nhau nhiều. Trong khi Xin-ga-po được đánh giá là nền kinh tế
có năng lực cạnh tranh cao thứ 6 trên thế giới (năm 2005), thì Việt Nam
chỉ được xếp thứ 81/117, Cam-pu-chia xếp thứ 112/117. Tăng trưởng xuất
khẩu chế tạo và mức đóng góp của ngành dịch vụ trong GDP của ASEAN 6
cũng chiếm khá cao (hơn 40%) so với mức 26% - 27% của các nước ASEAN 4
kể từ năm 2003 đến nay.
Thứ tư,
chênh lệch trong xu hướng xuất khẩu. ASEAN 6 chiếm ưu thế trong đóng góp
xuất khẩu vào GDP (85%) so với 31% của ASEAN 4 từ năm 2004, trong khi
nhập khẩu đóng góp 21% GDP của ASEAN 4 so với 66% GDP của ASEAN 6.
Xin-ga-po được coi là nền kinh tế tự do thứ 2 trên thế giới (năm 2006),
trong khi Phi-lip-pin, In-đô-nê-xi-a và Việt Nam được xem là những nền
kinh tế ít tự do (thứ tự xếp hạng tương ứng là 98, 134 và 142). Lào và
Mi-an-ma là những nền kinh tế phi tự do nhất, đứng vị trí thứ 149 và
155. Sự khác nhau trong xu hướng thương mại dẫn đến sự chênh lệch thuế
quan.
Thứ năm,
chênh lệch về chỉ số phát triển nguồn nhân lực (HDI). Dựa trên các thông
số về tuổi thọ, mức chi tiêu cho giáo dục, sức khỏe, tỷ lệ người biết
chữ... ASEAN được chia thành 4 nhóm về HDI: nhóm 1 "phát triển nguồn
nhân lực cao" gồm Xin-ga-po và Bru-nây; nhóm 2 "phát triển nguồn nhân
lực trung bình cao" gồm Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin và Thái Lan; nhóm 3
"phát triển nguồn nhân lực trung bình" gồm In-đô-nê-xi-a và Việt Nam;
cuối cùng là nhóm "phát triển nguồn nhân lực trung bình thấp" gồm 3 nước
còn lại là Cam-pu-chia, Lào và Mi-an-ma.
Thứ sáu,
chênh lệch mức giàu nghèo. Theo tiêu chí đánh giá mức nghèo của quốc tế
(dưới USD 1/ngày), Lào và Cam-pu-chia có số dân sống dưới ngưỡng nghèo
cao nhất, trong khi đó Xin-ga-po (0%); Ma-lai-xi-a (0,2%); Phi-lip-pin
(15,5%).
Thứ bảy,
chênh lệch kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và năng lượng. Mức chênh
lệch giữa ASEAN 6 và các nước ASEAN 4 thể hiện rõ ở mạng lưới đường cao
tốc, đường sắt, hệ thống dây dẫn và đường ống dẫn ga.... Nhóm ASEAN 4
cũng thiếu kết cấu hạ tầng "mềm" (công nghệ thông tin, viễn thông và hệ
thống ITC) - điều kiện tối cần thiết cho các giai đoạn phát triển tiếp
theo. Rõ ràng, những chênh lệch về kinh tế - xã hội, sự khác nhau về
năng lực tổ chức giữa các nhóm nước ASEAN đã kìm hãm tiến độ liên kết và
hội nhập khu vực.
Chênh lệch phát triển
giữa các nước thành viên ASEAN còn được thể hiện ở chênh lệch về sự phát
triển của thị trường tài chính, năng lực tài chính... Trong đó, việc
thiếu tài trợ tài chính trong khu vực được xem là khó khăn nhất. Chênh
lệch về trình độ phát triển làm cho ASEAN khó khăn hơn trong các nỗ lực
tập thể, tính khả thi của các chính sách chung bị hạn chế.
2 - Bài học kinh nghiệm
Để thúc đẩy nhanh tiến
trình hội nhập, ASEAN cần tiếp tục đẩy nhanh liên kết kinh tế nội khối,
tích cực đàm phán với các đối tác bên ngoài để hình thành các khu vực
mậu dịch tự do rộng lớn hơn. Nhưng để liên kết kinh tế nội khối và việc
đàm phán xây dựng các FTA với các nước ngoài khu vực được tiến triển
nhanh, ASEAN cần giải quyết 3 vấn đề rất trọng yếu sau:
Một là,
ASEAN cần nỗ lực thực hiện đầy đủ các cam kết đã có và tiếp tục đề ra
các sáng kiến mới nhằm đẩy nhanh tiến trình liên kết kinh tế nội khối,
nhanh chóng thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên,
tiến tới hình thành AEC đúng tiến độ.
Hai là, xây dựng các FTA với các đối tác cần phải được tiến hành theo một lộ trình phù hợp, cùng có lợi, cùng phát triển.
Ba là, sự
tham gia của các doanh nghiệp cần được thúc đẩy ở cả hai phía. Một mặt,
các chính phủ cần xuất phát từ lợi ích của doanh nghiệp để xây dựng các
khu vực mậu dịch tự do; mặt khác, chính doanh nghiệp cũng cần chủ động
khai thác triệt để những cơ hội mà các FTA mang lại.
Kế hoạch tổng thể cho
tiến trình hợp tác kinh tế và hội nhập của ASEAN cho tới năm 2015 là
thành lập AEC. AEC sẽ hội tụ những biện pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa tự do
hóa thương mại, cải thiện hạ tầng kinh doanh, giảm chi phí giao dịch
thương mại, tăng tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư của ASEAN, củng cố
hệ thống giải quyết tranh chấp nội bộ khối. Khi AEC trở thành hiện thực,
sẽ tồn tại một khu vực kinh tế ASEAN cạnh tranh, thịnh vượng và ổn
định, ở đó có sự dịch chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, dịch
chuyển tự do hơn cho các dòng vốn, phát triển kinh tế công bằng và giảm
đói nghèo cũng như bất bình đẳng kinh tế - xã hội. Hiến chương ASEAN sẽ
giúp khu vực Đông Nam á trở thành một tổ chức có cơ cấu chặt chẽ hơn
nhằm đáp ứng tốt hơn những thách thức đặt ra trong quá trình hội nhập
khu vực, sự mở rộng các mối quan hệ đối ngoại và toàn cầu hoá nhanh
chóng. Trong khi thực hiện điều này, ASEAN phải duy trì một sân chơi
hiệu quả trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực. Hiến chương ASEAN
sẽ thiết lập một khuôn khổ và nền tảng pháp lý cho ASEAN tái cơ cấu cơ
chế hiện hành của nó, cải tiến quá trình ra quyết định nhằm củng cố hiệu
lực và bảo đảm việc thực hiện đúng tiến độ các hiệp định, quyết định
của ASEAN. Liên kết kinh tế ASEAN được coi là trụ cột chính, là yêu cầu
cấp bách để phát triển kinh tế khu vực. Tuy nhiên, để đẩy nhanh quá
trình này, ASEAN rất cần có sự tham khảo tiến trình liên kết của các tổ
chức khu vực, nhất là mô hình liên kết EU. Tuy hai mô hình liên kết này
có những khác biệt, nhưng từ kinh nghiệm EU và thực tiễn ASEAN cần sáng
tạo đưa ra hướng đi hợp lý cho AEC. Để đạt được mục tiêu liên kết kinh
tế ASEAN (AEC) thành công vào năm 2015, ASEAN cần tính kỹ đến những điểm
sau:
Thứ nhất,
cần có những cam kết rõ ràng về chính trị theo từng giai đoạn. Nghĩa là
tính đến những khó khăn và mức phát triển kinh tế khác nhau để quyết
định thời điểm liên kết cho từng nhóm nước và đối với từng lĩnh vực.
Điều quan trọng hơn cả của quá trình liên kết là ý chí chính trị bền
vững và sự quyết tâm thực hiện của các nhà lãnh đạo ASEAN.
Thứ hai, cần
có tầm nhìn và lộ trình liên kết rõ ràng. Mặc dù ASEAN đã đưa ra lộ
trình liên kết cho từng lĩnh vực trong ngành hậu cần, song cần phải xác
định mục tiêu cụ thể của từng lĩnh vực trong mỗi giai đoạn.
Thứ ba, cần
có những nguyên tắc và tính tổ chức rõ ràng. Tham khảo thêm kinh nghiệm
của EU, nhưng không coi đó là mô hình bắt chước bởi các thành viên ASEAN
không dễ dàng gì giao phó chủ quyền kinh tế của mình cho một chủ thể
ngoại biên (superanational body) như EU đã từng làm. Liên kết thị trường
ASEAN sẽ được tiếp tục tiến hành trên tinh thần đàm phán và cùng hành
động giữa các quốc gia, chứ không theo sự chỉ đạo của cường quốc bên
ngoài.
Thứ tư,
ASEAN cần kiên quyết khắc phục, xóa bỏ dần chênh lệch phát triển giữa
các nước thành viên trong khu vực như EU đã từng làm. Đây là cách duy
nhất hướng tớicộng đồng ASEAN bền vững trong tương lai.
Cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu khiến mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của ASEAN trở
nên lỗi thời. Tuy nhiên, qua đó ASEAN cần rút ra bài học không chỉ chạy
theo xuất khẩu để bị phụ thuộc vào thị trường phương Tây, mà phải biết
"lấy tiêu thụ nội địa làm trụ cột phát triển" như kinh nghiệm Trung Quốc
đã làm. Hội nhập kinh tế nội khối ASEAN càng trở nên có ý nghĩa sau
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, trong tương lai, ASEAN
vẫn phải chú ý và tiếp tục duy trì xu hướng xuất khẩu bởi lẽ 60% hàng
hóa sản xuất trong khu vực là sang Mỹ, EU, Nhật Bản và các nước phương
Tây khác./.
TCCS: 12 (204) năm 2010