I. Tình hình quản lý chất
lượng (QLCL) giáo dục phổ thông Việt nam hiện nay
Nền Giáo dục Việt Nam
trải qua nhiều giai đoạn đã góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong 2 cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm, nhiều thế hệ thanh niên, học sinh Việt Nam đã không tiếc tuổi
xuân, máu xương của mình để làm nên chiến thắng của dân tộc. Họ sống và chiến
đấu không chỉ có kiến thức và kỹ năng học được ở nhà trường mà họ sống và chiến
đấu bằng nhân cách và bản lĩnh Việt Nam, tiêu biểu như Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn
Thạc,...Những phẩm chất đó được hình thành từ quá trình lớn lên trong gia đình,
quê hương, nhà trường và thực tiễn cuộc sống. Trong hòa bình và xây đựng đất nước,
nền giáo dục Việt Nam đã tạo nên lớp người lao động mới, nhiều nhà khoa học,
nhân sĩ, trí thức đóng góp cho sự phát triển của đất nước và đưa Việt Nam hội
nhập quốc tế.
Về Quản lý CLGD, hiện
nay, Bộ GD&ĐT đã thành lập Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục.
Tất cả các Sở đã có phòng Khảo thí và Kiểm định CLGD. Bộ đã ban hành quy trình
và tiêu chuẩn, tiêu chí về Kiểm định chất lượng đối với cơ sở giáo dục phổ
thông. Tuy nhiên, công tác kiểm định chỉ mới là giai đoạn đầu, các trường triển
khai tự đánh giá (đánh giá trong). Ở cấp Phòng, cấp Sở, do đội ngũ cán bộ làm công tác Kiểm định còn
hạn chế về số lượng và trình độ chuyên môn nên việc triển khai đánh giá ngoài còn
chậm. Vì vậy, kết quả kiểm định chất lượng các trường chưa công bố cho cộng đồng
biết. Trong khi đó yêu cầu của nhà trường và xã hội thì mong muốn có kết quả
kiểm định chất lượng nhanh chóng, kịp thời để cải tiến công tác quản lý và nâng
cao CLGD.
Trong quá trình phát triển, nhiều đơn vị, địa
phương, trường học đã sáng tạo ra nhiều cách thức đánh giá và quản lý hiệu quả
để nâng cao CLGD. Từ năm 2006, Cục Công nghệ thông tin đã đưa ra Bảng xếp hạng
các trường THPT thông qua kết quả thi tuyển sinh đại học, cao đẳng, Sở
GD&ĐT Hà Nội, TP.HCM đã tiến hành kiểm định CLGD ở
các cấp học và có những bảng "xếp hạng" riêng của địa phương theo bộ tiêu
chuẩn của địa phương đặt ra nhằm đánh giá chất lượng cũng như xem xét thi đua hàng
năm.
Sở GD&ĐT Hà Nội đã xây dựng
một hệ thống các tiêu chí được lượng hóa với tổng điểm 1.000 được chia làm hai
phần: 600 điểm về các điều kiện cơ sở vật chất, tổ chức QL nhà trường, đội ngũ
cán bộ giáo viên, quan hệ nhà trường -
xã hội và 400 điểm đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh.
Trong giáo dục phổ
thông có 2 loại hình quản lý (QL): QL nhà nước và QL nhà trường. Trong đó, QL
nhà trường là hạt nhân cơ bản. Vì nhà trường là nơi diễn ra các hoạt động giáo
dục và đào tạo, là hạt nhân làm nên CLGD. Đây chính là nơi trực tiếp thực hiện
quá trình cung cấp kiến thức, kỹ năng và những nhân tố cơ bản của nhân cách con
người. Cùng với gia đình, môi trường xã hội, nhà trường là nơi để học sinh hoạt
động, rèn luyện hình thành nhân cách của mình. Trong giai đoạn vừa qua, với chủ
trương đổi mới công tác quản lý, tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm,
các trường phổ thông đã có nhiều tiến bộ trong quản lý dạy và học cũng như quản
lý chất lượng..
Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc quản lý và đánh giá CLGD hiện nay chưa đáp ứng
yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Thứ nhất, quan niệm về CLGD ở
ta chưa đầy đủ và đồng bộ. Có một cách hiểu khá phổ phổ biến cho rằng, CLGD
đồng nghĩa với kết quả thi. Một biểu hiện rất rõ: sự quan tâm chủ yếu của các
nhà quản lý giáo dục ở các cấp, tập trung cao nhất vào các kỳ thi để rồi lấy kết
quả thi làm thước đo quan trọng đối với chất lượng của học sinh, của nhà trường
và địa phương. Đã quan niệm như thế thì các yếu tố khác như đạo đức, sức khỏe,
nhân cách, kỹ năng sống bị coi nhẹ. Bởi vậy, trong thực tế, những nơi có nhiều
mặt yếu kém nhưng tỷ lệ thi đỗ cao vẫn được xem là có chất lượng tốt. Từ đây, một
số trường nảy sinh một hiện tượng phấn đấu và chạy theo tỷ lệ thi đỗ. Trước năm
2007, nhiều tỉnh thành có tỷ lệ tốt nghiệp THPT trên 95%. Năm 2007, 2008 và
2009, do ảnh hưởng của cuộc vận "Hai không", tỷ lệ tốt nghiệp THPT của các
trường thấp (năm 2007 có trường 0%). Chỉ đến khi học sinh vào đời hoặc thi vào
đại học, thì thực trạng yếu kém mới bộc lộ và hậu quả chất lượng thấp không chỉ
ảnh hưởng đến học sinh mà cả xã hội.
Thứ hai, về phương pháp tiếp
cận, QLCL chủ yếu nhằm vào mục tiêu mà coi nhẹ quá trình. Ai cũng biết trong mọi sự việc, quá trình diễn ra thế
nào thì kết quả nhận được thế ấy. Quy luật này càng đúng trong giáo dục nhân
cách. Bởi hình thành nhân cách là cả một quá trình với sự hội tụ của nhiều yếu
tố, biểu hiện của nhân cách ở mỗi con người thể hiện ở nhiều khía cạnh và cấp
độ khác nhau. Để có một Nhà khoa học lớn như Ngô Bảo Châu, thì nhân tài đó phải
trải qua cả một quá trình giáo dục và tự học ở những môi trường giáo dục tiên
tiến. Chúng ta phải xây dựng một hệ thống đánh giá chất lượng theo quá trình
một cách khoa học, đối với chất lượng học sinh cũng như chất lượng nhà trường.
Thứ ba, về chuẩn mực, ngành GD&ĐT đã ban
hành bộ các tiêu chí, quy trình và phương pháp kiểm định chất lượng đối với các
cơ sở giáo dục. Tuy nhiên, bộ tiêu chí trên rất rộng, liên quan đến nhiều vấn
đề như: cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, đội ngũ quản lý, công tác xã hội
hóa...Trong khi đó tiêu chí về chất lượng học sinh đưa ra rất ít, và tiêu chuẩn
về đạo đức, nhân cách, kỹ năng mềm của học sinh chưa xác định đầy đủ và rõ ràng.
Về đạo đức, kỹ năng sống của học sinh gần đây có một số biểu hiện đáng lo ngại
như: hiện tượng học sinh đánh nhau, bạo lực và những hành vi phạm tội ở lứa
tuổi phổ thông.v.v. Phát biểu tại hội nghị tổng kết năm học 2009 -
2010 của Bộ GD&ĐT, Phó Thủ tướng
Nguyễn Thiện Nhân bày tỏ những băn khoăn về giáo dục đạo đức cho học sinh trong
các trường phổ thông hiện nay. Một trong những nguyên nhân khiến
giáo dục đạo đức trong nhà trường thời gian qua chưa đạt hiệu quả là do ngành
giáo dục chưa định rõ chuẩn giá trị đạt được và kèm theo đó là công nghệ giáo
dục phù hợp. Phó Thủ tướng cho rằng, có bốn chuẩn giá trị mà ngành giáo dục cần
hướng tới trong giáo dục đạo đức: tình yêu quê hương đất nước và trân trọng
truyền thống văn hoá dân tộc, quý trọng gia đình, giáo dục kỹ năng sống và
khích lệ ý chí hội nhập quốc tế.
Chính vì chuẩn chất lượng của học sinh chưa
xác định rõ, nên việc đánh giá CLGD vẫn nặng về thanh tra, kiểm tra do cấp trên
hay do các đoàn từ bên ngoài nhà trường tiến hành là chính. Thiếu hẳn việc tự
kiểm tra, tự đánh giá, tự rút kinh nghiệm, tự điều chỉnh, cải tiến như một hoạt
động thường xuyên, có nề nếp và có tính chủ động để thực sự trở thành nhân tố
nội sinh thúc đẩy phát triển bền vững.
Thứ tư, về chủ thể thực hiện, cho đến nay QLCL hầu
như vẫn được coi là trách nhiệm của các cấp quản lý như: Bộ, Sở, Phòng, Ban giám hiệu nhà trường. Có
thể coi là sai lầm lớn khi xem nhẹ giáo viên, những người giữ vai trò then chốt
và trực tiếp tạo nên chất lượng. Để có CLGD
cao, đặc biệt trong giáo dục nhân cách, học sinh có vai trò cực kỳ quan trọng
bởi các em không phải là những sản phẩm thụ động của nhà trường. Việc hướng dẫn
học sinh về động cơ học tập, thái độ, phương pháp học tập, phương pháp làm
việc, điều rất được quan tâm ở nhiều quốc gia đang phát triển và ở nước ta
trước đây, hiện nay chưa thực sự coi trọng. Với việc tổ chức thi tuyển sinh đại
học, cao đẳng (ĐH,CĐ) hiện tại, chỉ những học sinh thực sự xuất sắc có thể tự
học, còn đa số học sinh cần phải học thêm mới thi đỗ. Theo GSVS Nguyễn Cảnh
Toàn thì "nạn" luyện thi, dạy thêm, học thêm tràn lan vẫn là một thách thức lớn
đối với nền giáo dục nước nhà. Cũng theo GSVS Nguyễn Cảnh Toàn từ lý giải việc
nhờ đâu mà học sinh thời xưa có hiệu suất học tập cao như vậy. Không phải nhờ
thầy giỏi (vì đa số thầy không đạt chuẩn), cũng không phải nhờ cơ sở vật chất
tốt, đó là nhờ "phát huy nội lực ở người học quyết định chất lượng học tập". Theo
nghiên cứu của John Hattie, trường đại học Auckland (Australia-2003), chất
lượng của học sinh được tạo nên bởi chính học sinh chiếm (50%), giáo viên (30%), gia đình (5-10%), nhà trường
(5-10%), bạn bè và xã hội (5-10%). Ông cũng cho rằng, muốn nâng cao chất lượng
cần tác động đến học sinh và giáo viên là 2 yếu tố quan trọng nhất.
Thứ năm, về cơ chế quản lý, nét nổi bật là
quản lý giáo dục phổ thông vẫn theo mô hình quản lý tập trung. Cơ quan quản lý
tuyến trên (Bộ, Sở, Phòng GD) vừa hoạch định mục tiêu chất lượng, ban hành hệ
thống quy chế và các văn bản chỉ đạo, ban hành nội dung, kế hoạch dạy học, vừa
tổ chức thanh tra, kiểm tra, thi cử, kiểm định, đánh giá chất lượng . Trong khi
đó, việc QLCL hoàn toàn có thể giao phần lớn cho từng nhà trường để nâng cao
tính tích cực, chủ động thực hiện quyền tự quản lý quá trình tạo ra chất lượng trong
điều kiện cụ thể của mình. Ở nhiều nước trên thế giới, nhờ các hệ thống đánh
giá chất lượng được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, không
chỉ các cấp quản lý giáo dục biết mà mọi giáo viên, học sinh đều biết. Một vấn đề
được nhiều trường phản ánh trong các hội thảo mới đây, đó là: Hiện nay nhà trường
phải triển khai nhiều nhiệm vụ, có khi chồng chéo, nhiều phong trào và cuộc vận
động khác nhau. Chẳng hạn, trường vừa lo chất lượng, vừa lo phổ cập "Một nhà trường
hai nhiệm vụ chính trị", nếu muốn nâng cao chất lượng thì phổ cập khó đạt, ngược
lại muốn phổ cập đạt thì chất lượng giảm. Một ví dụ điển hình nhất, tỉnh Tuyên
Quang là một tỉnh sớm đạt chuẩn phổ cập THCS, và nhiều tỉnh về học tập cách làm
của Tuyên Quang, nhưng kết quả tốt nghiệp THPT lần 1 năm 2007 của tỉnh này là 14,24%
(thấp nhất của cả nước). Phát biểu tại
Hội nghị giao ban 6 tỉnh Tây Bắc, trước tình hình học sinh THCS các tỉnh Tây
Bắc quá thấp, Thứ trưởng Bộ GG&ĐT Nguyễn Vinh Hiển nhấn mạnh "Chúng ta tiến tới phổ cập giáo dục nhưng
phải làm chắc và làm có chất lượng. Nếu vì số lượng học sinh đi học đông mà đưa
cả học sinh kém vào trung học phổ thông thì chất lượng rất đáng báo động".
Chủ trương của Bộ xem xét lộ trình phổ cập trung học phổ thông và có hướng phân
luồng hợp lý hơn trong thời gian tới.
II.
Bảng Xếp hạng các
trường THPT của Cục công nghệ thông tin
Từ năm 2006, Cục CNTT - Bộ Giáo
dục và Đào tạo bắt đầu công bố nhiều số liệu thống kê về kết quả kì
thi ĐH,
CĐ và kì thi Tốt nghiệp Trung học phổ thông của học sinh Việt Nam. Dựa vào những số liệu này, báo chí Việt Nam
bắt đầu lập ra danh sách xếp hạng các trường trung học phổ thông
của Việt Nam theo nhiều tiêu chí khác nhau, đây là bảng số liệu có giá trị tham
khảo đối với xã hội. Đối với một số nước phát triển, việc xếp hạng các trường
Trung học đã có truyền thống từ lâu. Bảng
xếp hạng này đã được các cấp quản lý giáo dục, các trường học tham khảo, so
sánh, đối chiếu thứ hạng hàng năm để biết chất lượng học sinh lớp 12 thi tốt
nghiệp và tuyển sinh đại học như thế nào? Tuy nhiên, theo ý kiến của Cục Công
nghệ thông tin, thì bảng kết quả này chỉ là số liệu tham khảo, đây chỉ là kết
quả của một kỳ thi, chưa phản ánh đầy đủ CLGD vì còn liên quan đến nhiều tiêu
chí khác.
2.1 Tại sao không lấy kết quả tốt nghiệp THPT để đánh giá
CL các trường
Kỳ thi tốt nghiệp
THPT là một kỳ thi quốc gia, nhằm kiểm tra đánh giá học sinh lớp 12 phổ thông
và bổ túc, cấp bằng tốt nghiệp THPT cho những học sinh đủ điều kiện tốt nghiệp
theo quy chế của Bộ GD&ĐT. Đề thi
tốt nghiệp của Bộ GD&ĐT sát với chương trình lớp 12, mức độ vừa phải đảm
bảo cho mọi học sinh học lực trung bình có thể tốt nghiệp. Kỳ thi được tổ chức
trên phạm vi toàn quốc, có sự thanh tra, giám sát của thanh tra Bộ và thanh tra
Sở. Kết quả kỳ thi phản ánh được sự nỗ lực cố gắng của học sinh, giảng dạy của
giáo viên và công tác chỉ đạo của các cấp quản lý. Đa số các trường học coi đây
là thước đo để phấn đấu. Tuy nhiên, dựa
vào tỷ lệ tốt nghiệp mà đánh giá CLGD, xếp hạng các trường THPT cũng như đánh
giá CLGD phổ thông của từng tỉnh thì không thể chính xác, do những nguyên nhân
sau:
Thứ nhất, kết quả của kỳ thi của một trường
không chỉ phụ thuộc vào năng lực của học sinh mà còn phụ thuộc vào một số yếu
tố khác, đặc biệt là khâu coi thi. Chính vì vậy mà có trường miền núi, vùng
sâu, điều kiện học tập khó khăn nhưng tỷ tốt nghiệp cao hơn các trường đồng
bằng, thuận lợi. Có khi một trường miền núi, học sinh dân tộc có kết quả tốt
nghiệp cao và có điểm bình quân của một số môn cao hơn trường chuyên của tỉnh.
Thứ hai, tỷ lệ tốt nghiệp của tỉnh hay cả nước phụ thuộc vào đề thi của Bộ, năm
2010, cả nước đỗ cao (93%), theo dư luận là bộ đề thi năm nay có phần dễ hơn năm
trước.
Chúng tôi xin nêu bảng tỷ lệ tốt nghiệp của một số
trường THPT ở Quảng Trị như sau:
Qua số
liệu của bảng trên cho thấy, những trường chất lượng thấp thì tỷ lệ tốt nghiệp
phụ thuộc rất nhiều vào mức độ coi thi "chặt" hay "nới" của hội đồng coi thi.
2.2 Lấy
kết quả thi ĐH, CĐ là thước đo chất lượng của các trường được không?
Kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ là kỳ thi hàng năm
nhằm mục đích tuyển chọn những học sinh đủ năng lực (kiến thức, kỹ năng) vào học
các trường ĐH, CĐ. Theo dư luận xã hội
thì đề thi trong những năm gần đây được cải tiến tốt hơn, theo hướng không đánh
đố học sinh và đòi hỏi tư duy cao. Với đề thi đại học, học sinh đạt tổng điểm 3
môn 21 điểm trở lên được coi là giỏi.
Kỳ thi đã được tổ chức một cách nghiêm túc. Một
số hiện tượng tiêu cực, gian lận trong thi cử đã giảm nhiều. Kết quả kỳ thi phản
ánh được thực chất năng lực của học sinh và nhiều trường THPT khẳng định đây là
thước đo của chất lượng. Bảng xếp hạng
do Cục CNTT-Bộ GD&ĐT đưa ra là chính xác và được dư luận xã hội đánh giá
cao.
Nhìn về toàn cục, đối với trường chuyên và những
trường quy mô lớn, tỷ lệ học sinh dự thi đại học cao thì kết quả phản ánh chính
xác. Tuy nhiên, khi xem xét trên phạm vi một tỉnh, thì thứ hạng trong tỉnh có khi không được hợp
lý, bảng xếp hạng này chỉ dựa vào tổng điểm bình quân 3 môn của những học sinh
dự thi. Vì vậy, có trường tỷ lệ tốt nghiệp thấp, tỷ lệ học sinh dự thi ĐH, CĐ
thấp, nhưng điểm bình quân thi cao (do ít học sinh dự thi và chỉ có những học
sinh khá, giỏi mới dám đi thi).
Vì vậy, không thể lấy kết quả của kỳ thi tuyển
sinh ĐH, CĐ để đánh giá chất lượng một trường THPT, mà cần có giải pháp để xếp hạng phù hợp, đánh
giá toàn diện về chất lượng học tập và các kỹ năng của học sinh.
2.3 Giải
pháp do một số Sở GD&ĐT đưa ra
Với mong muốn có một cách đánh giá, xếp hạng
các trường học một cách toàn diện hơn, một số sở GD&ĐT đã đưa ra một số
cách xếp hạng khác nhau. Ví dụ, Sở GD&ĐT Quảng Trị đánh giá xếp hạng của
các trường dựa vào kết quả của 4 kỳ thi: Thi học sinh giỏi, thi tốt nghiệp,
tuyển sinh, thi thể dục thể thao, văn nghệ. Các bảng xếp hạng này là những con
số tham khảo có giá trị cho việc đánh giá CLGD và thi đua hàng năm. Việc đánh
giá, xếp hạng các trường dựa vào nhiều kỳ thi đã phản ánh một cách khá chính
xác CLGD của nhà trường, tuy nhiên vẫn chưa đầy đủ và toàn diện.
Trên quan điểm QLCL theo quá trình, được một số Sở GD&ĐT và Cục CNTT của Bộ cung cấp dữ liệu, bao gồm:
dữ liệu tốt nghiệp THCS năm 2007, tốt nghiệp THPT và tuyển ĐH, CĐ năm 2010,
trong đó có Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, TP Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu. Viện
nghiên cứu Giáo dục trường ĐHSP Tp Hồ Chí Minh đã xây dựng phần mềm kết nối dữ
liệu, để biết được một học sinh học THCS, THPT ở trường nào, dự thi vào trường ĐH,
CĐ nào, đạt bao nhiêu điểm. Chúng tôi đã tổng hợp và thống kê số liệu cho nhiều
tỉnh, ở đây xin nêu số liệu của tỉnh Quảng Trị. Là một tỉnh có thu nhập GDP thấp,
nhưng CLGD phổ thông trên mức trên trung bình của các nước. Năm 2010 Quảng Trị
được Cục CNTT xếp hạng tuyển sinh ĐH, CĐ là 27/63 tỉnh, thành phố.
III. Quản
lý và đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông ở một số nước
Ngoài công tác Kiểm định CLGD (tổ chức kiểm định có thể là Nhà nước hoặc
tư nhân), nhiều nước đã xây dựng các hệ thống kiểm tra, đánh giá các kỹ năng
của học sinh, sinh viên các trường phổ thông như Hoa Kỳ, các nước châu Âu và Australia,
tiêu biểu là các hệ thống như:
+ Cuộc
thi quốc tế và đánh giá trường học (International Competitions and Assessments for Schools
-ICAS) được triển khai bởi UNSW Global Pty Limited. UNSW Global
là một tổ chức phi lợi nhuận, cung cấp dịch vụ giáo dục, đào tạo và dịch vụ tư
vấn, đồng thời là một doanh nghiệp thuộc trường Đại học New South Wales. Được sử dụng hơn 60 quốc gia trên thế giới. Cung cấp
các bài kiểm tra đánh giá hàng năm cho các môn Toán, Khoa học, Tiếng Anh, Viết
và kỹ năng máy tính.Cung cấp thông tin chi tiết về mỗi học sinh/lớp học/trường
tham gia chương trình. Thông tin này giúp cho giáo viên lẫn cán bộ QL biết được
sự tiến bộ của học sinh, so sánh với các trường trong địa phương và cả nước.
+ Chương trình đánh giá
đối với học sinh quốc tế (PISA) là một hệ thống đánh giá quốc tế tập trung vào
khả năng đọc, kỹ năng Toán và khoa học của học sinh. PISA chú trọng các kỹ năng của học sinh ở lứa tuổi 15. PISA được
thực hiện bởi Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD). Bắt đầu vào năm
2000, PISA được thực hiện đánh giá 3 năm một lần. Mỗi
đợt bao gồm các đánh giá của cả ba phần, nhưng chỉ có một phần được đánh giá
sâu. PISA đã dược Bộ GD&ĐT quyết
định chọn tham gia đánh giá quốc tế cho học sinh phổ thông (năm 2012).
IV. Xây dựng giải pháp đánh giá, xếp hạng CL đầu
ra của học sinh phổ thông
Đề xuất các tiêu chí theo mục tiêu của GDVN,
theo Luật Giáo dục năm 2005, "Mục tiêu
của Giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức,
tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp. Trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc"
Như vậy mục tiêu của giáo dục là tạo ra sản
phẩm con người có đầy đủ phẩm chất và năng lực, chúng tôi tạm chia ra các tiêu
chí sau:
4.1 Mô
hình giải pháp
4.2. Đặc
điểm của hệ thống quản lý, đánh giá CLGD phổ thông
1) Hệ thống được xây
dựng theo quan điểm Đánh giá hướng đến quá
trình học tập, rèn luyện của học sinh và lượng hóa các tiêu chí.
2) Hệ thống quản lý CLGD
Phổ thông thu nhận dữ liệu từ phiếu điều tra, phiếu và lấy dữ liệu từ các hệ thống
khác như QL học sinh, thi tuyển sinh, tốt nghiệp, học sinh giỏi.
3) Hệ thống quản lý
chất lượng có thể dùng cho nhiều cấp quản lý (trường, Phòng, Sở) và Tiểu học,
THCS, THPT và công khai chất lượng các trường cho cộng đồng...
4) Hệ thống QL CLGD
là một một hệ thống mở có thể điều chỉnh, bổ sung dễ dàng.
5) Về kỹ thuật: Hệ thống
được xây dựng theo mô hình Client/Server, CSDL tập trung SQL Server. Thực hiện
thu thập và xử lý dữ liệu thông qua môi trường Internet.
6) Ai là người tổ chức
phát triển và duy trì: Hệ thống này phải do một trường ĐH duy trì và phát triển,
trường đại học này phải có đội ngũ cán bộ, giảng viên, chuyên gia am hiểu về chương trình và kiểm định CLGD phổ
thông. Trong điều kiện hiện nay thì trường ĐHSP Tp Hồ Chí Minh hoặc ĐHSP Hà Nội
có khả năng triển khai được giải pháp này.
4.3.Hiệu quả mang lại của Hệ thống
- Đổi mới công tác Quản lý và Đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông hiện nay
- Góp phần công khai chất lượng giáo dục cho cộng đồng
- Tiết kiệm được ngân sách và cũng như công sức rất lớn (nhờ việc thu nhận dữ liệu từ các trường, không phải mất công nhập liệu, phát huy hiệu quả của các kỳ thi)
- Cải tiến và nâng cao CLGD
- Khi đã có công cụ quản lý tốt, ta có thể định hướng các trường đi theo mục tiêu giáo dục mà Luật Giáo dục Việt Nam đã đặt ra và phù hợp với từng giai đoạn.
Nâng cao CLGD, đặc biệt là nhân cách, phẩm
chất của học sinh đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Đã đến lúc cần kiên quyết và
khẩn trương khắc phục các bất cập nói trên trong QLCL giáo dục. Để làm được
điều đó, ngoài nỗ lực của cả hệ thống giáo dục, chúng ta cần nghiên cứu, chọn
lọc, tham khảo, vận dụng một cách sáng tạo các thành tựu của khoa học quản lý
thế giới, trong đó có thành tựu ứng dụng
CNTT trong QLCLGD.
Cũng như nhiều nước trên thế giới, song song
với việc kiểm định CLGD theo tiêu chuẩn, quy trình và phương pháp của Nhà nước
quy định, cần xây dựng các hệ thống đánh giá độc lập (tương tự như PISA, ICAS...),
phù hợp với mục tiêu đào tạo, chương trình và điều kiện của giáo dục Việt Nam. Chỉ
như vậy mới có thể thật sự và nhanh chóng minh bạch chất lượng của các cơ sở
giáo dục cho xã hội, đưa nền giáo dục nước nhà ngang tầm với khu vực và thế
giới.
Tài
liệu tham khảo
[1] Luật Giáo dục (2005), Luật số:
23/2005/QH11.
[2] Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân (2010), Bài
phát biểu tại Hội nghị tổng kết năm học 2009-2010 của Bộ GD&ĐT. Hà Nội -
8/2010.
[3] Ths Phạm Quang Huân (2003), Tình hình
quản lý chất lượng giáo dục phổ thông Việt Nam, Tạp chí Phát triển Giáo dục, Hà
Nội.
[4] GSVS Nguyễn Cảnh Toàn, Tuyển sinh Đại học
như thế nào là tối ưu, tạp chí Trí Tuệ số 55 - 9/2010 và 10/2010.
[5] Ths Hồ Sỹ Anh (2010), Nhìn lại 5 năm xét
tốt nghiệp và tuyển sinh THPT tỉnh Quảng Trị, Website Viện NCGD - Trường ĐHSP
TP Hồ Chí Minh.
[6] Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng Giáo dục (2008), Năm 2008 tỷ lệ tốt nghiệp THPT lần 1 tăng 9% so với năm 2007, số liệu công bố kết quả Tốt nghiệp THPT tháng 6/2008.
[7] Báo động chất lượng giáo dục phổ thông hiện nay, Thời báo Kinh tế đô thị, số ra ngày 01/4/2010.
ThS. Hồ Sỹ Anh
Viện Nghiên cứu Giáo
dục - Trường ĐHSP Tp. Hồ Chí
Minh
(Bài viết đã được
đăng kỷ yếu Hội thảo quốc gia về Khoa học giáo dục ngày 24/2/2011, tại Tp Hải
Phòng)