Thứ Năm, 21 tháng 4, 2011

82. Triển vọng cho việc giải quyết và quản lý xung đột ở Biển Đông

Bài viết của PGS. Ralf Emmers, Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore nhìn nhận lại những nỗ lực được các bên đưa ra nhằm quản lý và giải quyết xung đột ở Biển Đông. Từ những đánh giá về hạn chế dẫn đến bế tắc trong vấn đề giải quyết tranh chấp, tác giả đã bác bỏ kịch bản xem trọng tài quốc tế như một giải pháp khả thi và thay vào đó tập trung tiến hành những kế hoạch thăm dò và khai thác chung kết hợp với gác lại yêu cầu lãnh thổ.
Bài viết được in trong Series đặc biệt của tạp chí Harvard Asia Quarterly của Trường Đại học Havard với chủ đề: "Tranh chấp biển- An ninh hàng hải tại Đông Á", (The Disputed Sea – Maritime Security in East Asia) tháng 12/2010.
 
LỜI TỰA

Trong mấy tháng gần đây, những căng thẳng trong tranh chấp Biển Đông đã leo thang, với việc vấn đề đã chi phối Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) tháng 7 năm 2010 tại Việt Nam. Các vấn đề phân định chủ quyền và biên giới chưa được giải quyết và tiếp tục là những nhân tố đang leo thang. Nguy cơ xung đột vẫn tồn tại, đặc biệt khi nhu cầu năng lượng của các quốc gia tăng lên và quá trình hiện đại hóa quân sự diễn ra. Trung Quốc tiếp tục hiện đại hóa hải quân và thường xuyên tuyên bố chủ quyền của quốc gia này ở Biển Đông là không thể tranh cãi. Các quốc gia Đông Nam Á cũng vậy, không muốn nhượng bộ những yêu sách lãnh thổ của họ. Ngoài ra, các quốc gia yêu sách ở Đông Nam Á vẫn hoài nghi về những ý định của Trung Quốc.[1] Kết quả là tình hình Biển Đông trở nên mong manh, biến động, và có khả năng bất ổn. Tình trạng bấp bênh hiện tại đã tác động trực tiếp đến cả các thành tựu và hạn chế của việc quản lý và giải quyết xung đột ở Biển Đông.
Bài viết này xem xét cách quản lý và những giải pháp khả thi cho những tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông. Trong bài, quản lý tranh chấp được kết hợp với nỗ lực ngoại giao để ngăn chặn một cuộc xung đột vũ trang công khai xảy ra, trong khi giải quyết xung đột hướng đến một giải pháp cho những thù địch về ngoại giao, kinh tế và quân sự. Một giải pháp ngoại giao cho những tranh chấp như vậy vẫn chưa được hình thành do tầm quan trọng chiến lược của các tranh chấp về lãnh thổ, những nguồn năng lượng tiềm năng, và nguy cơ của việc gia tăng và cạnh tranh sức mạnh.
Bài viết khẳng định rằng bước đầu tiên để tiến tới quản lý và giải quyết tranh chấp là đưa ra một công thức gác lại vấn đề chủ quyền cho đến khi việc thăm dò và khai thác tài nguyên chung có thể làm dịu bớt hay thậm chí vượt qua được những căn nguyên địa chính trị ban đầu dẫn đến tình thế an ninh tiến thoái lưỡng nan này. Nhiệm vụ này đòi hỏi ít nhất phải tạm thời tách rời triển vọng thăm dò và khai thác chung khỏi vấn đề yêu sách chủ quyền và lãnh thổ. Sự bế tắc của những yêu sách chủ quyền chồng lấn và việc sử dụng và lạm dụng luật quốc tế của các quốc gia tranh chấp được xem là những nhân tố chính kìm hãm việc tạo ra diễn tiến tích cực.
Bài viết gồm hai phần lần lượt nhìn lại nỗ lực đưa ra các bước quản lý và giải quyết xung đột ở Biển Đông. Phần đầu nhấn mạnh tiến bộ đạt được đối với việc quản lý xung đột ở Biển Đông, điển hình là Tuyên bố về Cách ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002 được ký bởi Trung Quốc và các thành viên của Hiêp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Tuy nhiên, Điều đáng luy ý là những hạn chế của tuyên bố và sự thất bại trong việc tiến tới thực hiện nó. Trong việc giải quyết xung đột, bối cảnh lãnh thổ dẫn đến tranh chấp Biển Đông nhìn chung vẫn không thay đổi. Bài viết đã bác bỏ kịch bản xem trọng tài quốc tế như một giải pháp khả thi và thay vào đó tập trung tiến hành những kế hoạch thăm dò và khai thác chung kết hợp với gác lại yêu cầu lãnh thổ.
QUẢN LÝ XUNG ĐỘT Ở BIỂN ĐÔNG
Nhìn chung các tình huống liên quan đến tranh chấp Biển Đông thường phản ánh bầu không khí quan hệ khu vực. Sự ấm lên của các mối quan hệ Trung Quốc – Đông Nam Á vào đầu những năm 2000 đã tạo được tiến bộ trong vấn đề quản lý xung đột. Việc ký kết Tuyên bố về Cách ứng xử của các bên ở Biển Đông đã cho thấy mong muốn của các bên liên quan là theo đuổi yêu sách của họ bằng biện pháp hòa bình. Tuyên bố đã công khai lên án việc sử dụng vũ lực ở Biển Đông và đã góp phần làm giảm căng thẳng giữa các quốc gia yêu sách. Tuyên bố cũng được xem như một tín hiệu rằng Trung Quốc sẵn sàng tôn trọng các nguyên tắc và chuẩn mực của ASEAN trong Hiệp định Hợp tác Thân thiện (TAC) của khối này và cùng tồn tại hòa bình với các quốc gia láng giềng Đông Nam Á. Quan điểm hòa giải này được thể hiện rõ hơn khi Trung Quốc là quốc gia không phải thành viên ASEAN đầu tiên ký TAC vào năm 2003. Cuối cùng, tuyên bố 2002 được công nhận là một “diễn tiến quan trọng” bởi vì nó ràng buộc các bên ký kết thực hiện các hoạt động hợp tác và làm tăng khả năng đạt được các thỏa thuận về kế hoạch thăm dò và khai thác dầu khí chung.[2] Ví dụ, tổng thống Phi-lip-pin Gloria Arroyo tuyên bố rằng thỏa thuận do các tập đoàn dầu khí nhà nước của Trung Quốc, Việt Nam, Phi-lip-pin ký năm 2005 để tiến hành các cuộc thăm dò khảo sát ở Trường Sa là sự thi hành đầu tiên những điều khoản trong tuyên bố 2002.[3]
Tuy nhiên, tuyên bố chỉ là một bước nhỏ trong mục tiêu ban đầu để tiến tới một bộ quy tắc ứng xử chi tiết và mang tính ràng buộc cho Biển Đông.[4] Nhiều nhà phân tích vẫn hoài nghi về khả năng tuyên bố có thể tạo ra một khuôn khổ cho việc quản lý xung đột, nhất là xét việc thiếu các cơ chế ngăn chặn và giải quyết những nguyên nhân có thể gây xung đột của tuyên bố này[5] Là một tuyên bố chính trị hơn là một hiệp định và chỉ dựa vào sự đồng thuận và mẫu thức chung thấp nhất, thỏa thuận này vừa không chặt chẽ về mặt pháp lý vừa không mang tính ràng buộc. Hơn nữa tuyên bố tránh giải quyết vấn đề chủ quyền, vì tất cả các bên tranh chấp đều khư khư những yêu sách lãnh thổ của mình. Việc thông qua văn kiện cũng đòi hỏi những sự nhượng bộ lớn và giảm bớt nội dung của tuyên bố bao gồm việc không đề cập đến phạm vi địa lý cụ thể của tuyên bố.
Chưa có tiến bộ đáng kể nào hướng đến quản lý xung đột được tiến hành kể từ năm 2002. Thất bại trong thực hiện tuyên bố và tiến tới phát triển thành một bộ quy tắc ứng xử là hệ quả của một vài nhân tố. Bắc Kinh dường như chỉ chuẩn bị ủng hộ một bộ quy tắc ứng đa phương không mang tính ràng buộc mà chỉ giới hạn liên quan đến Quần đảo Trường Sa (A: Spratlys Islands, TQ: Nansa/Nam Sa - nd) và tập trung vào đối thoại và duy trì sự ổn định khu vực hơn là vấn đề quyền tài phán. Các quốc gia yêu sách Đông Nam Á đều không muốn nhượng bộ những yêu sách lãnh thổ của họ. Sự thiếu đồng thuận giữa các quốc gia ASEAN trong vấn đề Biển Đông cũng có liên quan. Các thành viên có những mối quan hệ khác nhau với Trung Quốc và quan điểm trái ngược nhau về mối đe dọa tiềm tàng Trung Quốc. Thêm vào đó, một số thành viên có các yêu sách xung đột ở Trường Sa (A: Spratlys Islands, TQ: Nansa/Nam Sa - nd), trong khi các thành viên khác không liên quan đến vấn đề chủ quyền. Những nguyên nhân gây chia rẽ này đã khiến cho việc đạt đến một quan điểm tập thể trở lên phức tạp và làm ASEAN yếu đi trong đàm phán với Bắc Kinh.
Sự không cân đối về sức mạnh ngày càng tăng ở Biển Đông do sức mạnh hải quân ngày một phát triển của Trung Quốc đã gây thêm nghi ngờ về khả năng quản lý tranh chấp của ASEAN. Ngày càng có nhiều tranh luận về việc liệu cách tiếp cận của ASEAN đối với quản lý xung đột ở Biển Đông có thể giảm bớt sự phân bổ sức mạnh không đều này hay không. Sự phân bố sức mạnh đang thay đổi chưa được theo kịp bằng tiến triển hơn nữa trong việc thực hiện các cơ chế quản lý xung đột. Thay vào đó, từ năm 2006 tình hình ở đây đã leo thang cao hơn và Trung Quốc đã cương quyết hơn trong việc đẩy mạnh những yêu sách lãnh thổ.[6] Cần phải nhấn mạnh rằng không chỉ Bắc Kinh chịu trách nhiệm trong việc gia tăng căng thẳng ở Biển Đông. Những hành động của các bên yêu sách khác cũng đã gây bất lợi cho việc quản lý tình hình.
Ví dụ, vấn đề lãnh thổ đã leo thang nhiều hơn do các đệ trình yêu sách của Phi-lip-pin, Ma-lai-xi-a và Việt Nam lên Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc (United Nations Commission on the Limits of the Continential Shelf). Các quốc gia tham gia Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) trước năm 1999 đã phải đệ trình trước ngày 13 tháng 5 năm 2009 yêu sách bổ xung của mình về những quyền kinh tế khi thềm lục địa của họ kéo dài hơn 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trung Quốc đã phản ứng giận giữ và gọi đệ trình này là những yêu sách mới vi phạm quyền tài phán và quyền chủ quyền của nước này ở Biển Đông.[7] Trong khi phản ứng của Trung Quốc là có thể đoán trước vì những yêu sách mới chồng lấn với yêu sách của quốc gia này, cần phải nhấn mạnh rằng Bắc Kinh đã đưa bản đồ đường đứt đoạn chữ U vào trong công hàm phản đối của nước này, do đó khơi lại những mối ngờ vực trước đây tại Hà Nội, Kua la Lumpur và Manila.[8] Bắc Kinh cũng mới lập ra Vụ Các vấn đề Biên giới và Đại dương và tăng cường các khả năng tuần tra để cố gắng khẳng định chủ quyền của quốc gia này ở Biển Đông.
Cuối cùng, cạnh tranh Trung - Mỹ gia tăng trên biển đã làm phức tạp thêm việc quản lý một cách hòa bình những tranh chấp ở Biển Đông. Vụ việc hải quân Trung Quốc và các tàu tuần tra dân sự ở phía nam đảo Hải Nam sách nhiễu tàu do thám Mỹ USNS Impecable, vào tháng 3 năm 2009 đã gây thêm lo ngại cho một số quốc gia Đông Nam Á. Trong khi Bắc Kinh tuyên bố rằng tàu Impecable đã liên quan đến các ‘hoạt động trái phép’ trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia này, vụ việc cũng đã được xem như một ví dụ về sự cương quyết của Trung Quốc ở Biển Đông. Ngoại trưởng Mỹ, Hillary Clinton, đã phản đối Trung Quốc về vấn đề Biển Đông và tuyên bố vùng biển này có lợi ích quốc gia của Mỹ tại cuộc họp ARF vào tháng 7 tại Hà Nội,, động thái được xem là nguyên nhân khiến Bắc Kinh quan ngại. Ở Đông Nam Á, người ta lo ngại rằng cạnh tranh Trung – Mỹ ngày càng tăng có thể dẫn đến chính sách ngoại giao và hoạt động hải quân cứng rắn của Trung Quốc ở Biển Đông.[9] Do đó không không ngạc nhiên khi các lãnh đạo ASEAN đã yêu cầu không đưa vấn đề Biển Đông vào thông cáo cuối cùng trong buổi bế mạc hội nghị cấp cao (ASEAN - Mỹ) lần thứ hai với tổng thống Mỹ Barrack Obama vào tháng 9 năm 2010.

[1] Xem Mark J. Valencia, “In Respones to Robert Beckman,” RSIS Commentaries 53, June 4, 2007.
[2] Zou Keyuan, “Joint Development in the South China Sea: a New Approach,” The International Journal of Maritime and Coastal Law 21 – 1 (2006): 101.
[3] Luz Baguioro, “ Three Nations Sign Pact for Joint Spratlys Survey,” The Straits Time, March 15, 2005.
[4] Ralf Emmer, “Keeping Waters Calm in the South China Sea,” The Straits Times, Singapore, November 21, 2002.
[5] Xem Jorn, “ Managing Security in ASEAN – China Relations: Liberal Peace of Hegemonic Stability,” Asian Perspective 31-1 (2007): 221; Clive Schofield and Ian Storey, “Enery Security and South East Asia: The Im pact on Maritime Boundary and Territorial Disputes,” Harvard Asia Quarterly 9-4 (2005).
[6] Michael Richardson, “China’s Land and Sea Claims: Balancing Stability and Desire for Expansion,” The Straist Times, Steptember 7, 2009.
[7] Ian storey, “ China-Vietnam’s Year of Friendship Turns Fractious,” The Straist Times, Singapore, May 26, 2009.
[8] Giáo sư Robert Beckman đưa ra quan điểm này tại cuộc thảo luận chung tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Thượng Hải, Singapore, tháng 11, 2009.
[9] Barru Waom, “South China Sea: ASEAN Caught in a Tight Spot,” The Straist Times, 16 tháng 9, 2010


PHẦN 2
Những kịch bản giải quyết tranh chấp Biển Đông hiện nay sẽ rất khó khăn vì các bên liên quan và các yêu sách lãnh thổ chồng lấn đã lên đến đỉnh điểm, thêm vào đó tất cả các bên đều không có ý định nhượng bộ trong những yêu sách của mình. Trong bối cảnh đó, theo tác giả thì biện pháp khả thi để giải quyết vấn đề là chủ yếu tập trung vào thăm dò và khai thác chung kết hợp với gác lại vấn đề chủ quyền


NHỮNG KỊCH BẢN GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT


Nhìn lại nỗ lực quản lý các tranh chấp Biển Đông, giờ chúng sẽ tập trung vào các kịch bản giải quyết khác nhau. Vấn đề Biển Đông khó giải quyết vì nhiều bên liên quan và các yêu sách lãnh thổ chồng lấn đã lên đến đỉnh điểm. Trọng tài quốc tế không thể đưa ra một một kịch bản có khả năng giải quyết các tranh chấp. Tất cả các bên yêu sách đều lặp lại tuyên bố chủ quyền của mình và họ không hề muốn nhượng bộ trong những yêu sách lãnh thổ. Các quốc gia đã từ chối thảo luận vấn đề quyền tài phán trên các đảo và đưa các yêu sách chồng lấn của mình lên Tòa án Pháp lý Quốc tế (ICJ) hay Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS). Điều này có thể trái ngược hẳn với những tranh chấp lãnh thổ khác ở Đông Nam Á. Ví dụ, tháng 11 năm 2007, Xin-ga-po và Ma-lai-xi-a đã đệ trình những yêu sách lãnh thổ của họ đối với đảo Petra Branca/Pulau Batu Puteh lên ICJ nhờ trọng tài quốc tế phân xử. Kết thúc 28 năm tranh chấp lãnh thổ, tòa xử vào tháng 5 năm 2008 đã ủng hộ Xin-ga-po nhưng quyết định trao hai bãi nhỏ hơn, gọi là Middle Rocks, cho Ma-lai-xi-a.
Không có cách giải quyết pháp lý rõ ràng nào cho những yêu sách xung đột nhau ở Biển Đông. Leni Stenseth nhận thấy rằng “dường như không bên yêu sách nào có cơ sở pháp lý rõ ràng và vai trò của luật quốc tế trong giải quyết tranh chấp có vẻ còn hạn chế.”[1] Trung Quốc và Đài Loan có những yêu sách lịch sử rộng nhất ở Biển Đông. Tuy nhiên, trong khi nguyên tắc lịch sử và sự phát hiện đầu tiên có thể tạo cơ sở cho lập trường của một bên tranh chấp, luật quốc tế đã cho thấy những nguyên tắc đó chưa đủ để xác định chủ quyền. Thay vào đó, danh nghĩa ban đầu do nguyên tắc phát hiện xác lập phải được bổ xung bằng việc liên tục sử dụng và chiếm giữ một vùng lãnh thổ. Thậm chí danh nghĩa có được do chiếm giữ có thể thay thế những yêu sách lịch sử.[2] Thêm vào đó những yêu sách của Trung Quốc là khó chứng minh, bởi vì truyền thống Nho giáo cho rằng lãnh thổ được thể hiện bằng những vùng ảnh hưởng hơn là  đường biên giới rõ ràng.[3]
Bản thân UNCLOS không thể được áp dụng để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ đang tồn tại.  Trong những trường hợp như vậy, UNCLOS quy định “các quốc gia có những yêu sách chồng lấn phải giải quyết những yêu sách của họ bằng đàm phán một cách có thiện chí”[4] tuy nhiên không có những ranh giới trên biển rõ ràng ở hầu hết các vùng ở Biển Đông và một số bên yêu sách thậm chí đã không xác định được những yêu sách chính xác của mình. Vì vấn đề dầu mỏ đang trở nên cấp thiết, không một chính quyền nào dám mạo hiểm từ bỏ các lợi ích quốc gia trong khu vực. Thay vì làm đơn giản hóa vấn đề,  UNCLOS đã có tác động làm phức tạp và căng thẳng thêm các tranh chấp này.
Điều nghịch lý là việc giải thích chặt chẽ UNCLOS có thể ngăn cản hầu hết các điểm đảo có được một vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), vì thế hạn chế những vùng có thể có các tuyên bố chồng lấn. Khoản 121, đọan 3 nói rằng, “Các đảo đá mà không thể duy trì nơi cư trú hay đời sống kinh tế cho con người sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa”;[5] thay vào đó các đảo đá này chỉ được phép có lãnh hải 12 hải lý. Tuy nhiên không có những chỉ dẫn cụ thể để phân biệt giữa đá và đảo. Những hạn chế đó đã mở đường cho các bên yêu sách tranh chấp và khai thác. Ngoài sự bàn cãi xung quanh cái gì cấu thành một hòn đảo, việc dùng thềm lục địa để yêu sách lãnh thổ cũng gặp rắc rối tương tự. Dù nhiều bên yêu sách đã lấy lý do thềm lục địa kéo dài để biện minh cho quan điểm của mình, điều này vẫn “không đủ cơ sở pháp lý để yêu sách các hòn đảo”[6]. Những vùng biển được xác định theo UNCLOS có thể mang lại quyền khai thác tài nguyên, nhưng không mang lại chủ quyền cho bản thân các hòn đảo trong đó. Cuối cùng, không có điểm nào ở cả Quần đảo Trường Sa (A: Spratlys Islands, TQ: Nansa/Nam Sa – nd hay ) hay Quần đảo Hoàng Sa (A: Pracels Islands,  QT: Xisha/Tây Xa - nd) cách nhau 200 hải lý. Điều này có nghĩa là vùng đặc quyền kinh tế mà các bên tranh chấp yêu sách chắc chắn chồng lấn lên yêu sách của một vài bên khác, làm tăng nguy cơ xung đột.
MỘT BIỆN PHÁP KHẢ THI TRONG TƯƠNG LAI


Căn cứ vào sự phức tạp của những yêu sách, các đề xuất dự định để giải quyết tranh chấp Biển Đông chủ yếu tập trung vào thăm dò và khai thác chung kết hợp với gác lại vấn đề chủ quyền. Cách tiếp cận này thường được xem là lựa chọn khả thi nhất để tăng cường hợp tác và ổn định khu vực. Hiệp ước Timor Gap giữa Úc và In-đo-nê-xi-a, Hiệp định Vịnh Bắc Bộ (Tonkin Gap Treaty) giữa Trung Quốc và Việt Nam và các hiệp định song phương đang tồn tại trong phân định ranh giới biển được xem như những hình mẫu để đưa ra một kế hoạch cùng thăm dò và khai thác cho Biển Đông.
Các tập đoàn dầu khí nhà nước của Trung Quốc, Việt Nam, Phi-líp-pin đã ký Thỏa thuận thăm dò địa chấn chung (JMSU) như một hiệp định thương mại để tiến hành một số cuộc khảo sát trước khi thăm dò trong một số vùng ở Trường Sa (A: Spratlys, QT: Nansha/Nam Sha - nd). Ban đầu, thỏa thuận chỉ bao gồm Trung Quốc và Phi-lip-pin trước khi Việt Nam quyết định tham gia vào năm 2005. Việc ký kết thỏa thuận đảm bảo cho Ma-ni-la và Hà Nội ít nhất có mặt trong quá trình thăm dò tại khu vực mà họ có những yêu sách chủ quyền chồng lấn với Bắc Kinh. Thỏa thuận được ký giữa các tập đoàn dầu khí hơn là giữa các chính phủ, điều này đã làm đơn giản hóa quy trình. Tuy nhiên sau khi nó được ký kết năm 2005, các phe đối lập ở Phi-lip-pin đã chỉ trích cam kết như một dấu hiệu rằng chính phủ muốn giảm đi những yêu sách của quốc gia này trong các vùng lãnh thổ tranh chấp. JMSU (Thỏa thuận thăm dò địa chấn chung) cuối cùng hết hiệu lực vào ngày 30 tháng 8 năm 2008. Việc gia hạn thỏa thuận đã bị chỉ trích nhiều hơn do những cáo buộc tham nhũng liên quan đến các khoản cho vay của Trung Quốc để ký kết hiệp định ban đầu.[7] Thậm chí nếu một kế hoạch thăm dò và khai thác chung cho Biển Đông được đàm phán thành công, sự chênh lệch quá rõ về sức mạnh và việc thiếu một thỏa thuận tổng thể về các vấn đề chủ quyền của các quốc gia ven bờ có thể vẫn đẩy các bên yếu hơn vào tình trạng bấp bênh trong trường hợp những điều kiện kinh tế thay đổi hay phát sinh những tình huống chiến lược. Kết quả là một kế hoạch phát triển chung như vây chỉ có thể thành công nếu được đặt trong và bổ sung cho một cơ chế quản lý hợp tác rộng hơn. Trong điều kiện chưa chuẩn bị kỹ lưỡng, sự chênh lệch quá mức về sức mạnh này có thể vẫn đặt các bên yếu hơn trong tình trạng bấp bênh. Nếu không có một cấu trúc pháp lý và những cơ chế rộng hơn thì kế hoạch khai thác chung sẽ chỉ tái khẳng định những yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc do sự phân bố sức mạnh không đều ở Biển Đông. Các bên yêu sách Đông Nam Á chỉ có mặt trong quá trình thăm dò ở những khu vực mà họ có những yêu sách lãnh thổ chồng lấn với Bắc Kinh. Trong phạm vi JMSU, Valencia khẳng định rằng việc khảo sát chung có hại cho Phi-lip-pin, vì nó bao gồm khu vực thềm lục địa hợp pháp của Phi-lip-pin mà Trung Quốc và Việt Nam không yêu sách. Hơn nữa thỏa thuận đã tạo ra tính chính danh để Trung Quốc yêu sách một cách không hợp pháp khu vực đó ở Biển Đông.”[8]
Tóm lại, việc ký kết một kế hoạch thăm dò và khai thác chung sẽ cần phải được tiến hành trước bằng việc đàm phán một khuôn khổ để gác lại những yêu sách lãnh thổ hiện tại, thiết lập một quy tắc ứng xử chặt chẽ, điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia khu vực và quản lý các tranh chấp hiện tại và tiềm tàng. Việc thiết lập một khuôn khổ như vậy có vẻ không giống với một hiệp định thông thường. Thật vậy, sự bế tắc của những yêu sách lãnh thổ đan xen với chính trị dân tộc chủ nghĩa vẫn là một chướng ngại lớn trong việc quản lý và giải quyết xung đột ở Biển Đông.
PGS. Ralf Emmers, Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore
Người dịch: Nguyễn Văn Bình
Hiệu đính: Đỗ Thị Thủy




[1] Leni Stenseth, Nationalism and Foreign Policy – The Case of China’s Nansha Rhetoric (Disertation submitted to the Department of Polictical Sience, University of Oslo, 1998), 10.
[2] Bob Catley và Makmur Keliat, Spratlys: The Dispute in the South China Sea (Aldershot, UK: Ashgate Publishing, 1997), 35.
[3] Joshua P. Rowan, “The U.S.-Japan Security Alliance, ASEAN, and the South China Sea Dispute,” Asia Survey 45-3 (2005): 426.
[4] Erik Kreil, “Energy Issues in the South China Sea Region,” in Cooperation Monitoring in the South China Sea, ed. John C. Baker and David G. Wiencek (Westport, CT: Praeger, 2002), 38.
[5] Xem Khoản 121 (3) phần phụ lục và phụ đề Công ước về luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982.
[6] Leszek Buzynski và Iskandar Sazlan, “Maritime Claims and Energy Cooperation,” Comtemporary Southeast Asia 29-1 (2007):147.
[7] Ian Storey, “Trouble and strife in the South China Sea Part II: the Philipines and China,” China Brieaf [The Jame Town Foundation] 12-9, ngày 28 tháng 4 năm 2008, 6.
[8] Xem Valencia, “In Response to Robert Backman”.