Thứ Ba, 26 tháng 4, 2011

103. Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản từ 1973 đến những năm đầu thế kỷ XXI


Võ Minh Tập
Học viên Cao học, ĐHSP TP Hồ Chí Minh
Việt Nam và Nhật Bản là hai nước đều nằm trong vùng “ khí hậu gió mùa” có lịch sử phát triển hàng nghìn năm và cùng thuộc trong vùng nông nghiệp trồng lúa nước của châu Á, có nhiều điểm tương đồng về phong tục, tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, cùng chịu ảnh hưởng dòng văn hoá phương Đông, đặc biệt là văn hoá Trung Hoa. Đáng lưu ý, các tài liệu khảo cổ học và sử học đã cho thấy ngay từ sơ kỳ thời đại đồ đá mới ở miền Trung nước Nhật đã thể hiện những mối liên hệ với nền văn hoá Hoà Bình , Bắc Sơn ở Việt Nam .
Vào nửa cuối thế kỷ 13, cả hai dân tộc Việt - Nhật đều đã từng bị Đế quốc Mông Nguyên xâm lược và chúng đã bị đại bại 3 lần xâm lược Đại Việt vào các năm 1258, 1285, và 1286, bị đại bại 2 lần xâm lược Nhật Bản vào các năm 1274 và 1281. T đu thế k 15 đã có người Nht đến buôn bán Vit Nam và ca bin Hi An ca Qung Nam đã tr thành thương cng và ph Nht (Nihon Machi) ln nht ca Vit Nam, đóng vai trò trung tâm buôn bán ca Nht vi Đông Nam Á khi đó. Ph c Hi An ngày nay còn đ li nhiu du n đm nét v giao lưu kinh tế và văn hoá Vit-Nht. Do nhng nguyên nhân, điu kin lch s nht đnh, nên nước Nht k t năm 1635 vi vic thi hành chính sách “đóng ca”, “bế quan to cng” đã khiến cho giao lưu kinh tế, văn hoá hai nước Vit - Nht b gián đon t đó cho đến cui thế k 19. Sang đến thế k 20 quan h giao lưu Vit-Nht được tiếp ni tr li nhưng khi này đã mang đm sc màu chính tr. Đó là thi kỳ nước Nht đã tr thành cường quc TBCN…dy lên mt phong trào Đông du đ cao Nht, hc tp Nht đi vi người Vit Nam do các nhà ái quc Phan Bi Châu, Phan Chu Trinh khi xướng. Đó cũng chính là thi kỳ Phát xít Nht xâm lược Vit Namvà nhiu nước châu Á khác trong Thế chiến th hai. Đây là thi kỳ “đen ti ” nht trong quan h bang giao hai nước.
K t sau Thế chiến th hai cho đến trước khi hai nước Vit - Nht ký kết Hip đnh thiết lp chính thc quan h ngoi giao vào ngày 21/9/1973, quan h Vit - Nht tuy vn duy trì song s tiến trin còn rt chm chp. Nguyên nhân ch yếu là vì các lý do chính tr khi đó thế gii vn còn chiến tranh lnh gia hai h thng XHCN và TBCN, Nht Bn hoàn toàn ph thuc M đ chng li h thng XHCN do Liên Xô đng đu, trong đó có Bc Vit Nam (Vit Nam dân ch cng hoà), còn Nam Vit Nam(Vit Nam cng hoà) khi đó là liên minh ca M-Nht.

Tháng 1 năm 1973, sau những thất bại quân sự trên khắp các chiến trường Việt Nam, chính quyền Mỹ đã phải ký Hiệp định Paris và tuyên bố rút quân không điều kiện ra khỏi miền Nam Việt Nam. Nhận thấy tình hình chính trị quốc tế có thể diễn ra nhiều biến đổi lớn đồng thời hiểu rõ tiềm năng kinh tế cũng như vị trí địa lý, chính trị của Việt Nam ở khu vực Đông Nam Á, Nhật Bản đã có những chuẩn bị tích cực để tiến tới thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1971, đại diện của chính phủ Nhật Bản đã có cuộc họp không chính thức với đại diện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Paris. Sau nhiều vòng đàm phán, ngày 21 tháng 9 năm 1973, quan hệ ngoại giao giữa Nhật Bản và Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã được thiết lập. Đây là một sự kiện quan trọng mở đầu cho một giai đoạn phát triển mới trong quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai nước trên nhiều lĩnh vực.
Điều đặc biệt là, trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, mặc dù chính phủ Nhật Bản thi hành chính sách thân Mỹ, để Mỹ xây dựng các căn cứ quân sự phục vụ chiến tranh xâm lược Việt Nam trên lãnh thổ Nhật Bản nhưng phong trào ủng hộ Việt Nam do các lực lượng dân chủ tiến bộ làm nòng cốt đã diễn ra mạnh mẽ, liên tục và đạt nhiều kết quả thiết thực. Phong trào được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như biểu tình phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, quyên góp ủng hộ trẻ em và phụ nữ Việt Nam, biểu tình ngăn chặn không cho Mỹ chuyên chở các phương tiện chiến tranh sang Việt Nam….Trong các hoạt động phong phú đó, Hội hữu nghị Nhật- Việt đã có vai trò quan trọng trong việc tập hợp nhiều tầng lớp xã hội tiến bộ ở Nhật Bản ủng hộ cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Sau năm 1975, trong sự phối hợp với Hội hữu nghị Việt- Nhật, Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, Ủy ban đoàn kết Á- Phi của Việt Nam….phong trào ủng hộ và đoàn kết với nhân dân Việt Nam ở Nhật Bản vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển. Những hoạt động đó đã có ý nghĩa cổ vũ công cuộc khôi phục và xây dựng kinh tế của Việt Nam sau chiến tranh đồng thời tạo thêm những điều kiện thuận lợi cho Việt Nam sớm tham gia, hội nhập vào các hoạt động của nhiều tổ chức khu vực và quốc tế.
Về kinh tế, tuy quan hệ ngoại giao chính thức giữa Việt Nam và Nhật Bản đến năm 1973 mới được thiết lập nhưng từ giữa thập kỉ 50, thông qua Hội mậu dịch Nhật- Việt, Nhật Bản vẫn duy trì quan hệ thương mại ở mức độ nhất định với miền Bắc Việt Nam. Kim ngạch mậu dịch hai chiều đạt khoảng 10.000USD/năm. Sau khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, kim ngạch mậu dịch đã tăng lên và đạt 50.000 USD vào năm 1974.
Kể từ khi Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay, sau gần 30 năm mặc dù mối quan hệ giữa hai nước trải qua nhiều thời kì phát triển khác nhau nhưng cũng đã đạt được nhiều thành quả quan trọng.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Về đối ngoại, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển các mối quan hệ với các nước trong khu vực. Đối với Nhật Bản, việc ảnh hưởng của Mỹ bị suy giảm ở Đông Nam Á, tổ chức Hiệp ước SEATO và Hội nghị Hợp tác Châu Á- Thái Bình Dương giải thể đã tạo nên những thách thức và cơ hội mới cho Nhật Bản mở rộng ảnh hưởng sang các nước trong khu vực. Vì vậy, Nhật Bản vừa tăng cường viện trợ cho các nước ASEAN để giúp các nước này phát triển ổn định vừa mở rộng hơn nữa quan hệ với Việt Nam.
Thực hiện chủ trương hướng về các nước láng giềng khu vực và muốn đóng một vai trò tích cực hơn trong việc giải quyết các vấn đề châu Á, tháng 8 năm 1977 trong chuyến đi thăm các nước ASEAN, tại Manila, Thủ tướng Nhật Bản Fukuda đã đọc một bài diễn văn trình bày quan điểm căn bản của Nhật Bản đối với Đông Nam Á. Học thuyết Fukuda đã xác định chính sách ngoại giao Đông Nam Á mới của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh Việt Nam. Nội dung của học thuyết bao gồm ba điểm cơ bản sau:
1.       Nhật Bản cam kết không trở thành một cường quốc quân sự và sẽ đóng góp vào việc gìn giữ hòa bình ở khu vực châu Á.
2.       Nhật Bản sẽ thiết lập mối quan hệ chân thành và tin cậy lẫn nhau với các nước Đông Nam Á trên cả tất cả các lĩnh vực: kinh tế và văn hóa, xã hội.
3.       Nhật Bản sẽ phối hợp tích cực với các quốc gia thành viên khối ASEAN nhằm tăng cường sự đoàn kết và tự cường trong các nước này đồng thời phát triển quan hệ với các nước Đông Dương trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau để đóng phần vào việc xây dựng một nền hòa bình và thịnh vượng ở khu vực.
Diễn văn của Fukuda ở Manila là tuyên bố đầu tiên của Nhật Bản thể hiện rõ chiến lược đối ngoại của nước này đối với khu vực Đông Nam Á. Nhật Bản một mặt muốn cải thiện quan hệ với ASEAN, mặt khác muốn giữ vai trò cầu nối trong quan hệ giữa hai khối ASEAN và Đông Dương. Trong vòng 6 năm ( 1973- 1978) quan hệ Nhật Bản- Việt Nam diễn ra hết sức thuận lợi. Từ việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao, quan hệ hợp tác giữa hai nước đã được mở rộng thêm trên một số lĩnh vực. Về kinh tế, chính phủ Nhật Bản quyết định tài trợ (ODA) cho Việt Nam. Chỉ trong 2 năm 1975 và 1976, Nhật Bản đã tài trợ không hoàn lại ccho Việt Nam là  13,5 tỷ yên. Năm 1978, Nhật Bản lại viện trợ cho Việt Nam 14 tỷ yên. Tháng 12 năm 1978, Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh sang năm Nhật Bản. Đây là chuyến thăm cấp cao đầu tiên kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Nhân dịp này, chính phủ Nhật Bản đã cam kết viện trợ cho Việt Nam 20 tỷ yên trong năm tài chính 1979. Trong thời gian này, kim ngạch buôn bán giữa hai nước cũng tăng lên đáng kể. Năm 1975 đạt 27,5 tỷ yên, 1976: 64,1 tỷ yên và năm 1977 đã đạt tới 65,9 tỷ yên. Các khoản viện trợ của chính phủ Nhật Bản cũng như những kết quả trong quan hệ thương mại Việt – Nhật đã có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần phục hồi nền kinh tế Việt Nam sau chiến tranh.
Tuy nhiên, đầu năm 1979 do xảy ra “ vấn đề Campuchia” Nhật Bản quyết định trì hoãn kế hoạch tài trợ cho Việt Nam và thực hiện những chính sách hết sức thận trọng đối với các vấn đề chính trị phức tạp trong khu vực. Quan hệ giữa Nhật Bản với Việt Nam thời gian này chịu tác động mạnh bởi những chính sách của Mỹ, Trung Quốc và ASEAN. Trong vòng 10 năm, quan hệ giữa hai nước chỉ được duy trì ở mức độ nhất định. Chủ trương của Nhật Bản đối với Việt Nam thời kỳ này là thực hiện biện pháp “ đông cứng” tài trợ kinh tế nhưng vẫn duy trì các cuộc tiếp xúc ngoại giao và viện trợ nhân đạo. Trong thời gian này, chính phủ Nhật Bản cũng đã viện trợ y tế, văn hóa và giáo dục ở quy mô nhỏ cho Việt Nam.
Đến cuối những năm 1980, trước những tác động của tình hình thế giới, ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương cũng diễn ra một quá trình bố trí, sắp xếp lại lực lượng. Tại Đông Nam Á, xu thế tăng cường sự hợp tác, đối thoại ngày càng giữ vai trò chủ đạo. Các nước đều mong muốn cùng nhau giải quyết những vấn đề tồn tại một cách hòa bình. Trong bối cảnh đó, việc Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, chủ trương đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế đã có ý nghĩa tích cực trong việc cải thiện quan hệ với nhiều nước trong đó có Nhật Bản.
Kể từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới (1986) đến nay, quan hệ Việt Nam-Nhật Bản đã phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn trên tất cả mọi lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong các lĩnh vực kinh tế và văn hoá.

 I.  Tăng cường các cuộc gặp gỡ song phương Việt – Nhật

Từ năm 1993, hai bên đã cùng phối hợp thực hiện các chuyến viếng thăm của các nhà lãnh đạo. Tháng 3 năm 1993, Thủ tướng Võ Văn Kiệt sang thăm Nhật Bản. Tháng 4 năm 1995, Tổng bí thư Đỗ Mười thăm Tokyo. Tháng 12 năm 1995, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh thăm Nhật Bản. Gần đây nhất là vào tháng 10 năm 1996, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thăm chính thức Nhật Bản, ra Tuyên bố chung Nhật- Việt nâng tầm quan hệ giữa hai nước lên thành đối tác chiến lược. Về phía Nhật Bản, đó là các chuyến viếng thăm của Thủ tướng Murayama vào tháng 8 năm 1994, Thủ tướng Hashimoto tháng 1 năm 1997, Thủ tướng Koizumi tháng 4 năm 2002, Thủ tướng Abe Shinzo tháng 11 năm 2006 nhân sự kiện Hội nghị APEC 14 được tổ chức tại Việt Nam và nhiều chuyến thăm của các quan chức ngoại giao, quân sự….cấp cao khác. Ngoài ra, ngày 3 tháng 11 năm 2006, Nhà nước Nhật Bản đã quyết định trao tặng nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải huân chương “ Grand Cordon of the Order of  the Rising Sun”, huân chương cao quý nhất mà Nhật Bản dành cho những ngài cựu Thủ tướng để ghi nhận những đóng góp quan trọng của nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải trong việc tăng cường mối quan hệ Nhật- Việt trên nhiều lĩnh vực.
Có thể khẳng định rằng, các chuyến viếng thăm của các nhà lãnh đạo cao cấp hai nước đã góp phần hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác đa dạng và phát triển tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Từ việc mở rộng quan hệ song phương trên các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế, văn hóa….hai nước đã từng bước tiến tới phối hợp chính sách và tăng cường đối thoại các vấn đề chính trị, an ninh mà cả hai bên cùng quan tâm. Những bước phát triển mới đó chứng tỏ mối quan hệ Việt Nam- Nhật Bản đã ngày càng phát triển đa dạng, toàn diện hơn.

 II.           Quan hệ Việt-Nhật trên các lĩnh vực

Kể từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới (1986) đến nay, quan hệ Việt Nam-Nhật Bản đã phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn trên tất cả mọi lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong các lĩnh vực kinh tế và văn hoá

I.1. Hổ trợ chính thức (ODA) của Nhật

Nhật Bản bắt đầu nối lại viện trợ ODA dành cho Việt Nam từ năm 1991 và Nhật Bản cũng là nước đã tích cực hỗ trợ phát triển tài chính để góp phần khai thông mối quan hệ của Việt Nam với các tổ chức tài chính quốc tế chủ chốt vào cuối năm 1992.
Trong các năm tài khóa từ 1991 đến 2002, tổng số ODA mà chính phủ Nhật Bản dành cho Việt Nam đã đạt 927,8 tỷ yên, riêng khoản viện trợ không hoàn lại là 72,2 tỷ yên, cho vay tín dụng ưu đãi 805,6 tỷ yên, hợp tác kỹ thuật 50 tỷ yên. Viện trợ của chính phủ Nhật Bản chiếm 30% trong tổng số viện trợ của các nước dành cho Việt Nam năm 2002. Các khoản tài trợ đó được tập trung đầu tư cho 5 lĩnh vực:
1. Phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế;
2. Xây dựng và cải tạo hệ thống giao thông, điện lực;
3. Phát triển nông nghiệp và xây dựng hạ tầng cơ sở ở nông thôn;
4. Phát triển giáo dục, y tế;
5. Bảo vệ môi trường.
Trong những năm gần đây, Việt Nam tiếp tục nhận được một khối lượng lớn tài trợ ODA của Nhật Bản và hiện nay, Nhật Bản trở thành quốc gia có mức viện trợ lớn nhất cho Việt Nam.
Vấn đề quan trọng đặt ra cho Việt Nam hiện nay là cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng ODA, trong đó có việc giải ngân nguồn vốn này đang là quan tâm chung của cả hai phía, mà trách nhiệm trước hết là phía Việt Nam cần phấn đấu thực hiện nghiêm chỉnh, đúng tiến độ thời gian và có kết quả cao.

I.2. Hoạt động thương mại

Song song với viện trợ ODA, hoạt động mậu dịch song phương cũng đã không ngừng tăng lên Khoảng hơn thập niên gần đây, Nhật Bản luôn là bạn hàng, thị trường lớn nhất của Việt Nam. KHXNK giữa hai nước mấy năm qua luôn ở mức 4,7-4,9 tỷ USD, chiếm tỷ trọng khoảng 14-16% tổng KNXNK của Việt Nam.
 Năm 1976, Nhật Bản là bạn hàng lớn thứ hai của Việt Nam sau Liên Xô. Việt Nam đã xuất sang Nhật khối lượng hàng hóa trị giá 44,5 triệu USD. Trong các năm từ 1976 đến 1978, quan hệ mậu dịch tiếp tục phát triển với tổng kim ngạch hàng năm tương ứng là 159 triệu, 247 triệu và 268 triệu USD. Bước sang năm 1979, do những biên đổi chính trị trong khu vực, quan hệ mậu dịch song phương có sự giảm sút, tổng kim ngạch buôn bán hai chiều giảm xuống còn 50 triệu USD, nhiều hợp đồng đầu tư, buôn bán tạm thời bị trì hoãn. Nhưng từ những năm 1990 trở đi quan hệ kinh tế giữa hai nước lại có chiều hướng phát triển. Năm 1990, tổng kim ngạch buôn bán hai chiều trị giá 809 triệu USD. Các năm tiếp theo đều tăng liên tục: 1991: 874 triệu, 1992: 1.321 triệu, 1993: 1.707,7 triệu, 1994: gần 2 tỷ, 1995: 2,6 tỷ, tăng 35% và năm 1996 đã đạt 3 tỷ USD, tăng 135% so với năm 1995; năm 1997 đạt 3,481 tỷ USD, tăng 10,2% so với năm 1996 trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản 2,198 tỷ USD và nhập khẩu 1,283 tỷ USD. Từ năm 1998, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản bắt đầu tăng lên. Nguyên nhân quan trọng là: Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô và Nhật Bản trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam.
Về cơ cấu hàng hóa, Việt Nam chủ yếu xuất nguyên liệu thô, than, lương thực, hải sản…Ngược lại, Nhật Bản xuất sang Việt Nam ô tô, xe máy, máy dệt, nguyên liệu dệt và máy dựng (chiếm tới trên 54% KNNK từ Nhật Bản năm 2002 vừa qua). Điều đáng chú ý là từ năm 1989 trở lại đây, Việt Nam vẫn đang là nước xuất siêu sang Nhật. Với mức thặng dư mậu dịch khá cao, quan hệ kinh tế với Nhật Bản đã góp phần tích cực vào quá trình cân đối cán cân ngoại thương của Việt Nam với thế giới. Hơn nữa, thông qua quan hệ hợp tác kinh tế, vai trò của thị trường Nhật Bản ngày càng được khẳng định trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Các hoạt động XNK đã đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của cả hai nước, đặc biệt là với Việt Nam. Tuy nhiên, so với nhu cầu và tiềm năng phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn chưa được khai thác triệt để. Trong tổng KNNK của Nhật Bản, hàng hoá Việt Nam chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ bé khoảng 0,6%, trong khi đó tỷ trọng của Trung Quốc là 12,4%, Thái Lan 2,6%, Malaisia 2,7%... Trong quan hệ song phương hai nước đã dành cho nhau ưu đãi MFN về thuế, song khó khăn lớn nhất hiện nay đối với Việt Nam là phía Nhật Bản vẫn chưa đồng ý ký kết Hiệp định Thương mại tự do hoặc Hiệp định hợp tác kinh tế toàn diện với Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay vấn đề này đang được cả hai bên cùng quan tâm sẽ thực thi trong thời gian tới.

I.3. Về hợp tác đầu tư (FDI)

Tuy nhiên, so với các lĩnh vực viện trợ, buôn bán…đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam có phần chậm hơn so với các nước trong khu vực. Nhưng từ năm 1990, các thành tựu của công cuộc đổi mới và quyết tâm chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đã tạo thêm niềm tin và môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, sự chuyển hướng trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản với chiến lược hướng về châu Á, coi trọng khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, địa bàn cung cấp nguyên, nhiên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm và nơi tiếp nhận chuyển giao công nghệ của Nhật Bản…là những động lực chính yếu thu hút các nguồn đầu tư của Nhật Bản. Do vậy, từ năm 1992, tổng đầu tư của Nhật vào Việt Nam đã tăng khá mạnh, đạt 310 triệu USD, đứng vị trí thứ 4; năm 1993 đạt 423 triệu, đứng thứ 6; năm 1994 đạt 791 triệu, đứng vị trí thứ 5. Đến tháng 6 năm 1998, Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam 262 dự án với tổng số vốn là 3,438 tỷ USD, vươn lên giữ vị trí thứ ba trong số các quốc gia đầu tư lớn nhất vào Việt Nam sau Singapore và Đài Loan. Các dự án đầu tư ngày càng tập trung chủ yếu nhằm vào lĩnh vực: công nghiệp, giao thông vận tải, thép, điện dân dụng, hóa chất…
Cùng với hợp tác liên doanh, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư Nhật Bản ngày càng quan tâm. Với hình thức này, các nhà đầu tư Nhật Bản có quyền độc lập, tự quyết định các hoạt động kinh doanh của mình cho phù hợp với tình hình thực tế. Nhìn chung, việc thực hiện các dự án đầu tư của Nhật Bản ở Việt Nam đã đem lại nhiều kết quả thiết thực. Một số dự án có hiệu quả cao, đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam như các dự án phát triển hệ thống giao thông, hiện đại hóa một số ngành công nghiệp của Việt Nam: dầu khí, ô tô, điện tử, xe máy…Về lao động xã hội, việc hình thành các khu công nghiệp mới và thực hiện các dự án đầu tư với Nhật Bản cũng đã thu hút một lực lượng lao động tới trên 20.000 người.
Tính đến tháng 9/2002, Nhật Bản đã là nước đứng thứ ba có dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng số 407 dự án được cấp phép, vốn đăng ký đạt 3,8 tỷ USD. Cần lưu ý, tuy Nhật Bản đứng thứ 3 về vốn đầu tư đăng ký tại Việt Nam, nhưng lại đứng đầu về vốn thực hiện (với tổng số dự án còn hiệu lực là 369, đạt 3,07 tỷ USD). Vì vậy, xét thực chất đầu tư của Nhật Bản là ở vị trí số 1 tại Việt Nam và do đó đã có nhiều đóng góp trực tiếp cho sự phát triển kinh tế-xã hội của cả hai nước, đặc biệt là với Việt Nam.
Điều cần nhấn mạnh là, việc Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ ODA vào năm 1991 và tăng cường quan hệ với Việt Nam không chỉ tạo nên môi trường thuận lợi trong quá trình đầu tư, phát triển kinh tế mà nó còn tạo tiền đề cho việc mở rộng quan hệ trên các lĩnh vực văn hóa, khoa học và giáo dục, thật sự đánh dấu một giai đoạn phát triển mới trong quan hệ giữa hai nước. Chính phủ Nhật Bản ngày càng quan tâm đến mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giúp đỡ Việt Nam trong công cuộc phát triển kinh tế- xã hội và khẳng định: “ Với những lý do sau, Chính phủ Nhật Bản coi Việt Nam là đối tác hết sức quan trọng…:
1. Việt Nam là nước đông dân thứ hai sau Indonesia trong các nước ASEAN và đóng vai trò quan trọng cho hòa bình và ổn định trong khu vực, đồng thời có vị trí địa lý quan trọng trong khu vực;
2. Việt Nam là nước xúc tiến tích cực cuộc cải cách kinh tế, xã hội trong đó có sự chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường và trong những năm gần đây đang chiếm dần những vị trí quan trọng trong ASEAN;
3. Để nâng cao vị trí của ASEAN trên trường quốc tế thì việc xóa bỏ sự chênh lệch giữa các nước trong khu vực là điều cần thiết;
4. Sự vững mạnh về kinh tế và ổn định chính trị của các nước ASEAN là quan trọng với Nhật Bản. Với những lý do nêu trên…, từ năm 1995 Nhật Bản đã và đang là nước viện trợ lớn nhất đối với Việt Nam”.
Trên cương vị Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản, ông Obuchi keizo nhấn mạnh: “ Chính sách đối ngoại của Nhật Bản là coi trọng khu vực châu Á- Thái Bình Dương, đặc biệt là khối ASEAN…và đặt nhiều hy vọng vào sự đóng góp của Việt Nam cho sự phát triển và ổn định” của chung khu vực.
Tính đến năm 1997, tổng số ODA mà chính phủ Nhật Bản cam kết cho Việt Nam vay đã đạt 4,011 tỷ USD. Năm 1998- 1999, mặc dù gặp nhiều khó khăn về kinh tế nhưng Nhật Bản vẫn quyết định tăng viện trợ ODA cho Việt Nam. Trong khuôn khổ kế hoạch Miyazawa, Việt Nam sẽ tiếp tục được vay 500 triệu USD.
Trong năm 2002, nhiều dự án với số vốn vay khá lớn của Nhật Bản đã được triển khai và thực hiện tại Việt Nam như: Dự án mua thiết bị xây dựng đường Hồ Chí Minh trị giá 1.454 tỷ yên, Dự án chương trình thủy lợi các tỉnh phía Bắc 8.677 tỷ yên, Dự án phát triển nguồn nhân lực 4,63 tỷ yên, Dự án cấp nước và quản lý nước ở Hà Nội 8,98 tỷ yên….Đây là những dự án có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc cải thiện môi trường sống, phát triển mạng lưới giao thông và sản xuất ở Việt Nam. Việc Việt Nam và Nhật Bản ký Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư năm 2003 đã tạo cơ sở để các doanh nghiệp Nhật Bản vững ttin đầu tư vào Việt Nam. Các quan chức cao cấp và nhiều tập đoàn kinh tế Nhật Bản đang thể hiện quyết tâm tạo ra một làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam. Trong những năm qua, dòng vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam có xu thế tăng nhanh. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản năm 2005 đạt khoảng 4,5 tỷ USD, chiếm 14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 18% so với năm 2004. Với tốc độ tăng trưởng đó, kim ngạch buôn bán hai chiều năm 2006- 2007 có thể tăng lên 10 tỷ USD/năm. Năm 2005, Nhật Bản có 97 dự án đầu tư tại Việt Nam với số vốn 500 triệu USD. Tính chung từ năm 1988 đến 2004, Nhật Bản đã có 511 dự án với tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam lên tới hơn 6,2 tỷ USD. Nhật Bản hiện là thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn thứ hai của Việt Nam sau Mỹ, với các sản phẩm thế mạnh của Việt Nam như may mặc, hải sản, đồ gỗ nội thất…Việc ký kết Hiệp định thương mại tự do (FTA)hai nước tháng 2 năm 2006 được các chuyên gia kinh tế giữa hai nước và nhiều quốc gia có thể coi đó như là mẫu hình để thúc đẩy lợi ích của họ ở Việt Nam. Hai chính phủ tin rằng việc ký kết hiệp định FTA không chỉ sẽ góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng GDP của Nhật Bản, qua đó mở rộng ảnh hưởng của Nhật Bản với vực mà còn tạo những điều kiện cần thiết để  Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao trên 8%/ năm.

I.4. Về giao lưu hợp tác phát triển văn hóa

Quan hệ giao lưu văn hoá Việt Nam-Nhật Bản tuy đã có từ lâu đời, song mối quan hệ này đã diễn ra không sôi động như trong các lĩnh vực kinh tế. Chỉ từ cuối thập niên 1980 đến nay, quan hệ giao lưu, hợp tác phát triển văn hoá giữa hai nước mới thực sự được chú trọng phát triển
Hỗ trợ tài chính của phía Nhật Bản dành cho Việt Nam để xây dựng các cơ sở hạ tầng và mua sắm trang thiết bị văn hoá thông tin. Đó là các dự án như: 24 triệu yên cho Bộ Văn hoá năm 1987; 10 triệu yên cho việc bảo dưỡng và tôn tạo phố cổ Hội An thông qua Tổ chức UNESCO năm 1989; 23 triệu yên cho mua sắm trang thiết bị in ấn các chương trình văn hoá giáo dục cho Đài Truyền hình Việt Nam năm 1990; 18 triệu yên cho việc xây dựng và mua sắm các trang thiết bị của nhà hữu nghị, Hội Hữu Nghị Việt-Nhật năm 1991-1992. Năm 1992, dự án hỗ trợ tài chính cho Tổng cục Thể dục Thể Thao; năm 1993, dự án trang thiết bị cho việc làm phim hoạt hình Việt Nam. Năm 1995, dự án 54,1 triệu yên cho việc mua sắm trang thiết bị giảng dạy tiếng Nhật ở Đại học Ngoại ngữ Hà Nội. Cũng năm 1995, Nhật đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 10,5 tỷ yên , trong đó đã dành ra một khoản lớn cho các hoạt động văn hoá-giáo dục. Năm 1996, Nhật Bản giúp Việt Nam hai sự án lớn về lĩnh vực âm nhạc, 500 triệu yên cho Nhạc Viện Hà Nội và 450 triệu yên cho Nhạc Viện Thành phố Hồ Chí Minh...
Nhật Bản hỗ trợ tài chính cho việc tổ chức các hoạt động giao lưu, trao đổi văn hoá giữa hai nước Việt-Nhật. Ngoài các dự án kinh tế, chính phủ Nhật Bản đã và đang dành cho Việt Nam một khoản viện trợ không hoàn lại thích đáng về văn hóa. Giao lưu văn hóa, khoa học- kỹ thuật và giáo dục cũng được quan tâm và xúc tiến mạnh mẽ. Từ năm 1993, hàng năm chính phủ Nhật Bản đã tài trợ cho các dự án trao đổi văn hóa như tài trợ cho việc trao đổi các đoàn nghệ thuật, ca múa nhạc dân tộc, đào tạo sinh viên, trao đổi học giả, giúp đỡ và phối hợp tổ chức các hội thảo khoa học, các chương trình nghiên cứu. Phía Nhật Bản còn giúp đỡ về tài chính để trùng tu các di sản văn hóa Việt Nam như phố cổ Hội An, cố đô Huế, khu di tích Mỹ Sơn, Hoàng thành Thăng Long, làng cổ Đường Lâm và nhiều công trình lịch sử, kiến trúc truyền thống khác. Thông qua sự hợp tác với các cơ quan khoa học của Việt Nam, nhiều trường đại học, viện nghiên cứu Nhật Bản đã và đang thực hiện một số dự án hợp tác khoa học rất có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa Việt Nam.
Dựa trên những thành tựu nghiên cứu đó, các nhà lãnh đạo Việt Nam có thể đưa ra những chính sách phát triển phù hợp đồng thời phía Nhật Bản cũng có thêm những cơ sở khoa học cần thiết để đề ra những dự án đầu tư và hợp tác hiệu quả hơn nữa với Việt Nam. Sự hỗ trợ kinh phí của chính phủ và một số tổ chức Nhật Bản cũng như sự tham gia tích cực của đội ngũ các nhà khoa học Nhật Bản đã tạo nên thành công cho các hội thảo về Đô thị cộ Hội An; Phố Hiến; Hội thảo quốc tế về Việt Nam học lần thứ nhất; Hội thảo Quan hệ Nhật Bản- Việt Nam tiến tới thế kỉ XXI; Quan hệ Việt Nam- Nhật Bản qua giao lưu gốm sứ thế kỷ XV- XVII; Hội thảo về bảo vệ di sản văn hóa; Hướng tới xây dựng một cộng đồng Đông Á- Cơ hội và thách thức; Quan hệ văn hóa, giáo dục Việt Nam- Nhật Bản và 100 năm Phong trào Đông Du và nhiều hội thảo về bảo tồn khu phố cổ Hà Nội và Hoàng thành Thăng Long, về kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam, về làng cổ Đường Lâm, về Dự án nghiên cứu, trùng tu, tôn tạo Thành nhà Hồ….
Xuất phát từ nhận thức “ Hiền tài là nguyên khí của đất nước”, đào tạo nhân tài là trọng tâm phát triển của quốc gia, sau khi quan hệ hai nước được thiết lập, chính phủ Nhật Bản đã quan tâm giúp đỡ Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục. Từ năm 1995 đến nay, thông qua sự tài trợ chính thức và sự vận động quyên góp của các tổ chức phi chính phủ, các hội hữu nghị, Nhật Bản đã giúp xây dựng 256 trường tiểu học ở 17 tỉnh vùng bão và 4 tỉnh miền núi phía Bắc với tổng số vốn viện trợ là 10.933 triệu yên. Nhiều trường đại học, viện nghiên cứu, cơ quan lưu trữ, thư viện cũng đã nhận được nhiều tài liệu khoa học, thiết bị bảo quản, nghiên cứu của Nhật Bản. Mặt khác, phía Nhật Bản còn trực tiếp đón nhận nhiều nhà khoa học, nghiên cứu sinh, thực tập sinh, sinh viên….sang Nhật Bản để trao đổi khoa học và học tập. Từ năm 1992 đến 1998, 341 học bổng các loại đã được dành cho Việt Nam. Những năm gần đây, số lượng học bổng dành cho Việt Nam ngày càng nhiều nhờ đó mà số lưu học sinh sang Nhật học tập đã không ngừng tăng lên. Năm 1999 là 558 người’ 2000: 717; 2001: 938; 2002: 1.115; 2003: 1.336; 2004: 1.570 người trong đó có khoảng 500 người theo diện học bổng chính phủ Nhật Bản. Nhiều người được đào tạo ở Nhật Bản hiện đang giữ những trọng trách trong các cơ sở kinh tế, trường đại học và trung tâm nghiên cứu khoa học.
Phong trào học tiếng Nhật ở Việt Nam đã ngày càng phát triển mạnh trong những năm gần đây. Tính đến cuối năm 2002, ở Hà Nội có 12 cơ sở đào tạo tiếng Nhật (có 6 trường Đại học quốc lập và 6 cơ sở tư nhân) với số học viên khoảng 3000 người. Thành phố Hồ Chí Minh có 26 cơ sở (6 trường Đại học quốc lập và 20 cơ sở tư nhân) với số học viên khoảng 7000 người. Tổng số học viên học tiếng Nhật ở Việt Nam hiện đã lên tới hơn 10000 nghìn người. Đáng lưu ý kể từ năm 1994 đến nay, đã có nhiều giáo viên của Nhật Bản tình nguyện sang Việt Nam giảng dạy tiếng Nhật, góp phần tích cực thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị và giao lưu văn hoá giữa nhân dân hai nước
Đội ngũ nghiên cứu khoa học. Chính sách đối ngoại rộng mở và những thành tựu của công cuộc đổi mới không chỉ thu hút được sự quan tâm của các tập đoàn tư bản, doanh nghiệp Nhật Bản mà còn có sức hấp dẫn thực sự đối với đội ngũ những người nghiên cứu khoa học cũng như những người có cảm tình muốn tìm hiểu về Việt Nam. Hội nghiên cứu Việt Nam ở Nhật Bản hiện nay tập hợp khoảng 100 người trong đó có nhiều chuyên gia Việt Nam học nổi tiếng. Khuynh hướng nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản về Việt Nam ngày càng đa dạng hóa. Trước đây, giới học giả Nhật Bản chủ yếu chỉ tập trung vào các lĩnh vực sử học, văn học, chính trị nhưng những năm gần đây nhiều người còn quan tâm đến các vấn đề như: Khảo cổ học, kiến trúc cổ Việt Nam, cấu trúc xã hội nông thôn và thiết chế chính trị truyền thống Việt Nam, vấn đề sở hữu ruộng đất, vị trí người phụ nữ trong xã hội, văn hóa dân gian, tín ngưỡng, âm nhạc Việt Nam….

I.5. Về hợp tác du lịch

Hơn thập niên qua, lượng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam ngày càng tăng rất nhanh. Vào năm 1990, lượng khách Nhật du lịch Việt Nam mới có 1390 người, nhưng đến năm 2002 đã là 279.769 người. Liên tục trong 3 năm gần đây (2000-2002) tốc độ tăng trưởng đạt mức cao 35% hàng năm, đặc biệt trong 2 tháng đầu năm 2003 đã đạt rất cao 49,5%. Nhật Bản đã trở thành thị trường khách nước ngoài hàng đầu của Du lịch Việt Nam về hiệu quả kinh tế và chỉ đứng sau Trung Quốc về lượng khách.
Tiềm năng và triển vọng của thị trường khách Nhật Bản du lịch vào Việt Nam còn rất lớn. Do đó để tăng cường các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam tại thị trường Nhật, Văn phòng Xúc tiến du lịch Việt Nam sắp tới sẽ sớm được thiết lập tại Nhật Bản. Hy vọng rằng mục tiêu đón 500.000 khách Nhật trong một vài năm tới và đón 1 triệu khách Nhật vào năm 2010 sẽ trở thành hiện thực.


Như vậy là, quan hệ hữu nghị Việt Nam- Nhật Bản đã từng tồn tại và phát triển từ rất xa xưa trong lịch sử hai nước. Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, trong những điều kiện quốc tế mới có nhiều thuận lợi, quan hệ Việt Nam- Nhật Bản hiện nay đang đứng trước những triển vọng phát triển tốt đẹp. Quan hệ hữu nghị hợp tác đó đã và đang mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai nước. Sự hợp tác và quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Nhật Bản sẽ góp phần vào sự phát triển ổn định, bảo đảm an ninh ở khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Ngày 12/9/2008 tại Hà Nội, Bộ Ngoại giao, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản đã phối hợp tổ chức kỷ niệm 35 năm ngày Việt Nam - Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao (21/9/1973 - 21/9/2008). Phát biểu tại lễ kỷ niệm, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Gia Khiêm nhấn mạnh trong 35 năm qua, quan hệ Việt - Nhật không ngừng phát triển và đã có bước tiến vượt bậc trên nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế - thương mại, khoa học kỹ thuật, giáo dục, văn hóa. Việt Nam khẳng định luôn coi Nhật Bản là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu về đầu tư, thương mại và viện trợ phát triển chính thức (ODA). Tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới, hướng tới quan hệ đối tác chiến lược. Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Mitsuo Sakaba cũng khẳng định quan hệ Nhật - Việt đang có bước phát triển vượt bậc và đã được nâng lên tầm '"đối tác chiến lược," thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa hai nước trên nhiều phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa.





1.      Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á các số từ năm 2000 đến 2007.
2.      Tạp chí nghiên cứu Nhật bản năm 2000- 2005.
3.      Tạp chí nghiên cứu lịch sử năm 1999, 2002, 2005, 2007.
4.      Tạp chí nghiên cứu kinh tế năm 2007, 2008.
5.      Thông tấn xã Việt Nam.
6.      Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương: www.kinhtechaua-tbd.com.vn
7.      Viện nghiên cứu kinh tế và phát triển: www.idr.edu.vn
8.      Bộ ngoại giao Việt Nam: http://www.mofa.gov.vn
9.      Nguyễn Quốc Hùng (cb): Lịch sử Nhật Bản, Nxb Thế giới.
10.  Vĩnh Sính: Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hóa, Nxb Văn Nghệ TP.HCM, 2001.
11. Nguyễn Văn Kim: Nhật Bản với châu Á- Những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế-xã hội, Nxb.Thế giới, H, 2003.