Học viên Cao học, ĐHSP TP Hồ Chí Minh
Việt Nam và Nhật Bản là hai nước đều nằm trong
vùng “ khí hậu gió mùa” có lịch sử phát triển hàng nghìn năm và cùng thuộc
trong vùng nông nghiệp trồng lúa nước của châu Á, có nhiều điểm tương đồng về
phong tục, tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, cùng chịu ảnh hưởng dòng văn hoá
phương Đông, đặc biệt là văn hoá Trung Hoa. Đáng lưu ý, các tài liệu khảo cổ
học và sử học đã cho thấy ngay từ sơ kỳ thời đại đồ đá mới ở miền Trung nước
Nhật đã thể hiện những mối liên hệ với nền văn hoá Hoà Bình , Bắc Sơn ở Việt
Nam .
Vào nửa cuối thế kỷ 13, cả hai dân tộc Việt -
Nhật đều đã từng bị Đế quốc Mông Nguyên xâm lược và chúng đã bị đại bại 3 lần
xâm lược Đại Việt vào các năm 1258, 1285, và 1286, bị đại bại 2 lần xâm lược
Nhật Bản vào các năm 1274 và 1281. Từ đầu thế kỷ 15 đã có người Nhật đến buôn bán ở Việt Nam và cửa biển Hội An của Quảng Nam đã trở thành thương cảng và phố Nhật (Nihon Machi) lớn nhất của Việt Nam, đóng vai trò
trung tâm buôn bán của Nhật với Đông Nam Á khi đó.
Phố cổ Hội An ngày nay còn để lại nhiều dấu ấn đậm nét về giao lưu kinh tế và văn hoá Việt-Nhật. Do những nguyên nhân, điều kiện lịch sử nhất định, nên nước Nhật kể từ năm 1635 với việc thi hành chính sách “đóng cửa”, “bế quan toả cảng” đã khiến cho giao lưu kinh tế, văn hoá hai nước Việt - Nhật bị gián đoạn từ đó cho đến cuối thế kỷ 19. Sang đến thế kỷ 20 quan hệ giao lưu Việt-Nhật được tiếp nối trở lại nhưng khi này đã mang đậm sắc màu chính trị. Đó là thời kỳ nước Nhật đã trở thành cường quốc TBCN…dấy lên một phong trào Đông du đề cao Nhật, học tập Nhật đối với người Việt Nam do các nhà
ái quốc Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh
khởi xướng. Đó cũng chính là
thời kỳ Phát xít Nhật xâm lược Việt Namvà nhiều nước châu Á khác trong Thế chiến thứ hai. Đây là thời kỳ “đen tối ” nhất trong quan hệ bang giao hai nước.
Kể từ sau Thế chiến thứ hai cho đến trước khi hai nước Việt - Nhật ký kết Hiệp định thiết lập chính thức quan hệ ngoại giao vào ngày 21/9/1973, quan hệ Việt - Nhật tuy vẫn duy trì song sự tiến triển còn rất chậm chạp. Nguyên nhân chủ yếu là vì các lý do chính trị khi đó thế giới vẫn còn chiến tranh lạnh giữa hai hệ thống XHCN và TBCN, Nhật Bản hoàn toàn phụ thuộc Mỹ để chống lại hệ thống XHCN do Liên Xô đứng đầu, trong đó có Bắc Việt Nam (Việt Nam dân chủ cộng hoà), còn Nam Việt Nam(Việt Nam cộng hoà) khi đó là liên
minh của Mỹ-Nhật.
Tháng 1 năm 1973, sau những thất bại quân sự trên khắp các chiến trường
Việt Nam, chính quyền Mỹ đã
phải ký Hiệp định Paris và tuyên bố rút quân
không điều kiện ra khỏi miền Nam Việt Nam. Nhận thấy tình hình chính trị
quốc tế có thể diễn ra nhiều biến đổi lớn đồng thời hiểu rõ tiềm năng kinh tế
cũng như vị trí địa lý, chính trị của Việt Nam ở khu vực Đông Nam Á, Nhật Bản
đã có những chuẩn bị tích cực để tiến tới thiết lập quan hệ ngoại giao chính
thức với chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1971, đại diện của chính
phủ Nhật Bản đã có cuộc họp không chính thức với đại diện của Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tại Paris.
Sau nhiều vòng đàm phán, ngày 21 tháng 9 năm 1973, quan hệ ngoại giao giữa Nhật
Bản và Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã được thiết lập. Đây là một sự kiện quan
trọng mở đầu cho một giai đoạn phát triển mới trong quan hệ hữu nghị, hợp tác
giữa hai nước trên nhiều lĩnh vực.
Điều đặc biệt là, trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, mặc dù chính phủ
Nhật Bản thi hành chính sách thân Mỹ, để Mỹ xây dựng các căn cứ quân sự phục vụ
chiến tranh xâm lược Việt Nam trên lãnh thổ Nhật Bản nhưng phong trào ủng hộ
Việt Nam do các lực lượng dân chủ tiến bộ làm nòng cốt đã diễn ra mạnh mẽ, liên
tục và đạt nhiều kết quả thiết thực. Phong trào được tổ chức dưới nhiều hình
thức khác nhau như biểu tình phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam,
quyên góp ủng hộ trẻ em và phụ nữ Việt Nam, biểu tình ngăn chặn không cho Mỹ
chuyên chở các phương tiện chiến tranh sang Việt Nam….Trong các hoạt động phong
phú đó, Hội hữu nghị Nhật- Việt đã có vai trò quan trọng trong việc tập hợp
nhiều tầng lớp xã hội tiến bộ ở Nhật Bản ủng hộ cuộc chiến tranh chính nghĩa
của nhân dân Việt Nam. Sau năm 1975, trong sự phối hợp với Hội hữu nghị Việt-
Nhật, Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam,
Ủy ban đoàn kết Á- Phi của Việt Nam….phong
trào ủng hộ và đoàn kết với nhân dân Việt Nam ở Nhật Bản vẫn tiếp tục được
duy trì và phát triển. Những hoạt động đó đã có ý nghĩa cổ vũ công cuộc khôi
phục và xây dựng kinh tế của Việt Nam
sau chiến tranh đồng thời tạo thêm những điều kiện thuận lợi cho Việt Nam sớm tham
gia, hội nhập vào các hoạt động của nhiều tổ chức khu vực và quốc tế.
Về kinh tế, tuy quan hệ ngoại giao chính thức giữa Việt Nam và Nhật Bản
đến năm 1973 mới được thiết lập nhưng từ giữa thập kỉ 50, thông qua Hội mậu
dịch Nhật- Việt, Nhật Bản vẫn duy trì quan hệ thương mại ở mức độ nhất định với
miền Bắc Việt Nam. Kim ngạch mậu dịch hai chiều đạt khoảng 10.000USD/năm. Sau
khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, kim ngạch mậu dịch đã
tăng lên và đạt 50.000 USD vào năm 1974.
Kể từ khi Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao
đến nay, sau gần 30 năm mặc dù mối quan hệ giữa hai nước trải qua nhiều thời kì
phát triển khác nhau nhưng cũng đã đạt được nhiều thành quả quan trọng.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế. Về đối ngoại, Việt Nam
có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển các mối quan hệ với các nước trong
khu vực. Đối với Nhật Bản, việc ảnh hưởng của Mỹ bị suy giảm ở Đông Nam Á, tổ
chức Hiệp ước SEATO và Hội nghị Hợp tác Châu Á- Thái Bình Dương giải thể đã tạo
nên những thách thức và cơ hội mới cho Nhật Bản mở rộng ảnh hưởng sang các nước
trong khu vực. Vì vậy, Nhật Bản vừa tăng cường viện trợ cho các nước ASEAN để
giúp các nước này phát triển ổn định vừa mở rộng hơn nữa quan hệ với Việt Nam.
Thực hiện chủ trương hướng về các nước láng giềng khu vực và muốn đóng
một vai trò tích cực hơn trong việc giải quyết các vấn đề châu Á, tháng 8 năm
1977 trong chuyến đi thăm các nước ASEAN, tại Manila, Thủ tướng Nhật Bản Fukuda
đã đọc một bài diễn văn trình bày quan điểm căn bản của Nhật Bản đối với Đông
Nam Á. Học thuyết Fukuda đã xác định chính sách ngoại giao Đông Nam Á mới của
Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh Việt Nam. Nội dung của học thuyết bao gồm ba
điểm cơ bản sau:
1.
Nhật Bản cam kết không trở thành một cường quốc quân sự
và sẽ đóng góp vào việc gìn giữ hòa bình ở khu vực châu Á.
2.
Nhật Bản sẽ thiết lập mối quan hệ chân thành và tin cậy
lẫn nhau với các nước Đông Nam Á trên cả tất cả các lĩnh vực: kinh tế và văn
hóa, xã hội.
3.
Nhật Bản sẽ phối hợp tích cực với các quốc gia thành
viên khối ASEAN nhằm tăng cường sự đoàn kết và tự cường trong các nước này đồng
thời phát triển quan hệ với các nước Đông Dương trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau
để đóng phần vào việc xây dựng một nền hòa bình và thịnh vượng ở khu vực.
Diễn văn của Fukuda ở Manila là tuyên bố đầu tiên của
Nhật Bản thể hiện rõ chiến lược đối ngoại của nước này đối với khu vực Đông Nam
Á. Nhật Bản một mặt muốn cải thiện quan hệ với ASEAN, mặt khác muốn giữ vai trò
cầu nối trong quan hệ giữa hai khối ASEAN và Đông Dương. Trong vòng 6 năm (
1973- 1978) quan hệ Nhật Bản- Việt Nam diễn ra hết sức thuận lợi. Từ việc bình
thường hóa quan hệ ngoại giao, quan hệ hợp tác giữa hai nước đã được mở rộng
thêm trên một số lĩnh vực. Về kinh tế, chính phủ Nhật Bản quyết định tài trợ (ODA)
cho Việt Nam.
Chỉ trong 2 năm 1975 và 1976, Nhật Bản đã tài trợ không hoàn lại ccho Việt Nam
là 13,5 tỷ yên. Năm 1978, Nhật Bản lại
viện trợ cho Việt Nam
14 tỷ yên. Tháng 12 năm 1978, Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh
sang năm Nhật Bản. Đây là chuyến thăm cấp cao đầu tiên kể từ khi hai nước thiết
lập quan hệ ngoại giao. Nhân dịp này, chính phủ Nhật Bản đã cam kết viện trợ
cho Việt Nam
20 tỷ yên trong năm tài chính 1979. Trong thời gian này, kim ngạch buôn bán
giữa hai nước cũng tăng lên đáng kể. Năm 1975 đạt 27,5 tỷ yên, 1976: 64,1 tỷ
yên và năm 1977 đã đạt tới 65,9 tỷ yên. Các khoản viện trợ của chính phủ Nhật
Bản cũng như những kết quả trong quan hệ thương mại Việt – Nhật đã có ý nghĩa
quan trọng trong việc góp phần phục hồi nền kinh tế Việt Nam sau chiến
tranh.
Tuy nhiên, đầu năm 1979 do xảy ra “ vấn đề Campuchia”
Nhật Bản quyết định trì hoãn kế hoạch tài trợ cho Việt Nam và thực
hiện những chính sách hết sức thận trọng đối với các vấn đề chính trị phức tạp
trong khu vực. Quan hệ giữa Nhật Bản với Việt Nam thời gian này chịu tác động
mạnh bởi những chính sách của Mỹ, Trung Quốc và ASEAN. Trong vòng 10 năm, quan
hệ giữa hai nước chỉ được duy trì ở mức độ nhất định. Chủ trương của Nhật Bản
đối với Việt Nam thời kỳ này là thực hiện biện pháp “ đông cứng” tài trợ kinh
tế nhưng vẫn duy trì các cuộc tiếp xúc ngoại giao và viện trợ nhân đạo. Trong
thời gian này, chính phủ Nhật Bản cũng đã viện trợ y tế, văn hóa và giáo dục ở
quy mô nhỏ cho Việt Nam.
Đến cuối những năm 1980, trước những tác động của tình
hình thế giới, ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương cũng diễn ra một quá trình bố
trí, sắp xếp lại lực lượng. Tại Đông Nam Á, xu thế tăng cường sự hợp tác, đối
thoại ngày càng giữ vai trò chủ đạo. Các nước đều mong muốn cùng nhau giải
quyết những vấn đề tồn tại một cách hòa bình. Trong bối cảnh đó, việc Việt Nam thực hiện
chính sách đổi mới, chủ trương đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế đã có ý
nghĩa tích cực trong việc cải thiện quan hệ với nhiều nước trong đó có Nhật
Bản.
Kể từ khi Việt Nam thực hiện
công cuộc đổi mới (1986) đến nay, quan hệ Việt Nam-Nhật Bản đã phát triển ngày
càng mạnh mẽ hơn trên tất cả mọi lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong các lĩnh
vực kinh tế và văn hoá.
I. Tăng cường các cuộc gặp gỡ song phương Việt – Nhật
Từ năm 1993, hai bên đã cùng phối hợp thực hiện các
chuyến viếng thăm của các nhà lãnh đạo. Tháng 3 năm 1993, Thủ tướng Võ Văn Kiệt
sang thăm Nhật Bản. Tháng 4 năm 1995, Tổng bí thư Đỗ Mười thăm Tokyo. Tháng 12 năm 1995, Chủ tịch Quốc hội
Nông Đức Mạnh thăm Nhật Bản. Gần đây nhất là vào tháng 10 năm 1996, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đã thăm chính thức Nhật Bản, ra Tuyên bố chung Nhật- Việt nâng
tầm quan hệ giữa hai nước lên thành đối tác chiến lược. Về phía Nhật Bản, đó là
các chuyến viếng thăm của Thủ tướng Murayama vào tháng 8 năm 1994, Thủ tướng
Hashimoto tháng 1 năm 1997, Thủ tướng Koizumi tháng 4 năm 2002, Thủ tướng Abe
Shinzo tháng 11 năm 2006 nhân sự kiện Hội nghị APEC 14 được tổ chức tại Việt
Nam và nhiều chuyến thăm của các quan chức ngoại giao, quân sự….cấp cao khác.
Ngoài ra, ngày 3 tháng 11 năm 2006, Nhà nước Nhật Bản đã quyết định trao tặng
nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải huân chương “ Grand Cordon of the Order of the Rising Sun”, huân chương cao quý nhất mà
Nhật Bản dành cho những ngài cựu Thủ tướng để ghi nhận những đóng góp quan
trọng của nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải trong việc tăng cường mối quan hệ
Nhật- Việt trên nhiều lĩnh vực.
Có thể khẳng định rằng, các chuyến viếng thăm của các
nhà lãnh đạo cao cấp hai nước đã góp phần hết sức quan trọng trong việc thúc
đẩy quan hệ hợp tác đa dạng và phát triển tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Từ
việc mở rộng quan hệ song phương trên các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế, văn
hóa….hai nước đã từng bước tiến tới phối hợp chính sách và tăng cường đối thoại
các vấn đề chính trị, an ninh mà cả hai bên cùng quan tâm. Những bước phát
triển mới đó chứng tỏ mối quan hệ Việt Nam- Nhật Bản đã ngày càng phát triển đa
dạng, toàn diện hơn.
II. Quan hệ Việt-Nhật trên các lĩnh vực
Kể từ khi Việt Nam thực hiện
công cuộc đổi mới (1986) đến nay, quan hệ Việt Nam-Nhật Bản đã phát triển ngày
càng mạnh mẽ hơn trên tất cả mọi lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong các lĩnh
vực kinh tế và văn hoá
I.1. Hổ trợ chính thức (ODA) của Nhật
Nhật Bản bắt đầu nối lại
viện trợ ODA dành cho Việt Nam từ năm 1991 và Nhật Bản cũng là nước đã tích cực
hỗ trợ phát triển tài chính để góp phần khai thông mối quan hệ của Việt Nam với
các tổ chức tài chính quốc tế chủ chốt vào cuối năm 1992.
Trong các năm tài khóa từ 1991 đến 2002, tổng số ODA
mà chính phủ Nhật Bản dành cho Việt Nam đã đạt 927,8 tỷ yên, riêng khoản viện
trợ không hoàn lại là 72,2 tỷ yên, cho vay tín dụng ưu đãi 805,6 tỷ yên, hợp
tác kỹ thuật 50 tỷ yên. Viện trợ của chính phủ Nhật Bản chiếm 30% trong tổng số
viện trợ của các nước dành cho Việt Nam năm 2002. Các khoản tài trợ đó
được tập trung đầu tư cho 5 lĩnh vực:
1. Phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế;
2. Xây dựng và cải tạo hệ thống giao thông, điện lực;
3. Phát triển nông nghiệp và xây dựng hạ tầng cơ sở ở
nông thôn;
4. Phát triển giáo dục, y tế;
5. Bảo vệ môi trường.
Trong những năm gần đây, Việt Nam tiếp tục nhận được
một khối lượng lớn tài trợ ODA của Nhật Bản và hiện nay, Nhật Bản trở thành
quốc gia có mức viện trợ lớn nhất cho Việt Nam.
Vấn đề quan trọng đặt ra cho
Việt Nam hiện nay là cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng ODA, trong đó
có việc giải ngân nguồn vốn này đang là quan tâm chung của cả hai phía, mà
trách nhiệm trước hết là phía Việt Nam cần phấn đấu thực hiện nghiêm chỉnh,
đúng tiến độ thời gian và có kết quả cao.
I.2. Hoạt động thương mại
Song song với viện trợ ODA, hoạt động mậu dịch song
phương cũng đã không ngừng tăng lên Khoảng hơn thập
niên gần đây, Nhật Bản luôn là bạn hàng, thị trường lớn nhất của Việt Nam.
KHXNK giữa hai nước mấy năm qua luôn ở mức 4,7-4,9 tỷ USD, chiếm tỷ trọng
khoảng 14-16% tổng KNXNK của Việt Nam.
Năm 1976, Nhật
Bản là bạn hàng lớn thứ hai của Việt Nam sau Liên Xô. Việt Nam đã xuất
sang Nhật khối lượng hàng hóa trị giá 44,5 triệu USD. Trong các năm từ 1976 đến
1978, quan hệ mậu dịch tiếp tục phát triển với tổng kim ngạch hàng năm tương
ứng là 159 triệu, 247 triệu và 268 triệu USD. Bước sang năm 1979, do những biên
đổi chính trị trong khu vực, quan hệ mậu dịch song phương có sự giảm sút, tổng
kim ngạch buôn bán hai chiều giảm xuống còn 50 triệu USD, nhiều hợp đồng đầu
tư, buôn bán tạm thời bị trì hoãn. Nhưng từ những năm 1990 trở đi quan hệ kinh
tế giữa hai nước lại có chiều hướng phát triển. Năm 1990, tổng kim ngạch buôn
bán hai chiều trị giá 809 triệu USD. Các năm tiếp theo đều tăng liên tục: 1991:
874 triệu, 1992: 1.321 triệu, 1993: 1.707,7 triệu, 1994: gần 2 tỷ, 1995: 2,6
tỷ, tăng 35% và năm 1996 đã đạt 3 tỷ USD, tăng 135% so với năm 1995; năm 1997
đạt 3,481 tỷ USD, tăng 10,2% so với năm 1996 trong đó Việt Nam xuất khẩu sang
Nhật Bản 2,198 tỷ USD và nhập khẩu 1,283 tỷ USD. Từ năm 1998, kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam
sang Nhật Bản bắt đầu tăng lên. Nguyên nhân quan trọng là: Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô và Nhật Bản trở
thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam.
Về cơ cấu hàng hóa, Việt Nam chủ yếu xuất nguyên liệu
thô, than, lương thực, hải sản…Ngược lại, Nhật Bản xuất sang Việt Nam ô tô, xe
máy, máy dệt, nguyên liệu dệt và máy dựng (chiếm tới
trên 54% KNNK từ Nhật Bản năm 2002 vừa qua). Điều đáng chú ý là từ năm
1989 trở lại đây, Việt Nam
vẫn đang là nước xuất siêu sang Nhật. Với mức thặng dư mậu dịch khá cao, quan
hệ kinh tế với Nhật Bản đã góp phần tích cực vào quá trình cân đối cán cân
ngoại thương của Việt Nam
với thế giới. Hơn nữa, thông qua quan hệ hợp tác kinh tế, vai trò của thị
trường Nhật Bản ngày càng được khẳng định trong quá trình phát triển kinh tế ở
Việt Nam.
Các hoạt động XNK đã đóng
góp tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của cả hai nước, đặc biệt là với
Việt Nam.
Tuy nhiên, so với nhu cầu và tiềm năng phát triển quan hệ thương mại giữa hai
nước vẫn chưa được khai thác triệt để. Trong tổng KNNK của Nhật Bản, hàng hoá
Việt Nam chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ bé khoảng 0,6%, trong khi đó tỷ trọng của Trung
Quốc là 12,4%, Thái Lan 2,6%, Malaisia 2,7%... Trong quan hệ song phương hai
nước đã dành cho nhau ưu đãi MFN về thuế, song khó khăn lớn nhất hiện nay đối
với Việt Nam là phía Nhật
Bản vẫn chưa đồng ý ký kết Hiệp định Thương mại tự do hoặc Hiệp định hợp tác
kinh tế toàn diện với Việt Nam.
Tuy nhiên, đến nay vấn đề này đang được cả hai bên cùng quan tâm sẽ thực thi
trong thời gian tới.
I.3. Về hợp tác đầu tư (FDI)
Tuy nhiên, so với các lĩnh vực viện trợ, buôn bán…đầu
tư của Nhật Bản vào Việt Nam
có phần chậm hơn so với các nước trong khu vực. Nhưng từ năm 1990, các thành
tựu của công cuộc đổi mới và quyết tâm chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đã tạo thêm niềm tin và môi
trường thuận lợi cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, sự chuyển hướng trong chính
sách đối ngoại của Nhật Bản với chiến lược hướng về châu Á, coi trọng khu vực
Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, địa bàn cung cấp nguyên, nhiên vật liệu, tiêu
thụ sản phẩm và nơi tiếp nhận chuyển giao công nghệ của Nhật Bản…là những động
lực chính yếu thu hút các nguồn đầu tư của Nhật Bản. Do vậy, từ năm 1992, tổng
đầu tư của Nhật vào Việt Nam đã tăng khá mạnh, đạt 310 triệu USD, đứng vị trí
thứ 4; năm 1993 đạt 423 triệu, đứng thứ 6; năm 1994 đạt 791 triệu, đứng vị trí
thứ 5. Đến tháng 6 năm 1998, Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam 262 dự án với tổng số
vốn là 3,438 tỷ USD, vươn lên giữ vị trí thứ ba trong số các quốc gia đầu tư
lớn nhất vào Việt Nam sau Singapore và Đài Loan. Các dự án đầu tư ngày càng tập
trung chủ yếu nhằm vào lĩnh vực: công nghiệp, giao thông vận tải, thép, điện
dân dụng, hóa chất…
Cùng với hợp tác liên doanh, hình thức đầu tư 100% vốn
nước ngoài được các nhà đầu tư Nhật Bản ngày càng quan tâm. Với hình thức này,
các nhà đầu tư Nhật Bản có quyền độc lập, tự quyết định các hoạt động kinh
doanh của mình cho phù hợp với tình hình thực tế. Nhìn chung, việc thực hiện
các dự án đầu tư của Nhật Bản ở Việt Nam đã đem lại nhiều kết quả thiết
thực. Một số dự án có hiệu quả cao, đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế
của Việt Nam như các dự án phát triển hệ thống giao thông, hiện đại hóa một số
ngành công nghiệp của Việt Nam: dầu khí, ô tô, điện tử, xe máy…Về lao động xã
hội, việc hình thành các khu công nghiệp mới và thực hiện các dự án đầu tư với
Nhật Bản cũng đã thu hút một lực lượng lao động tới trên 20.000 người.
Tính đến tháng 9/2002, Nhật
Bản đã là nước đứng thứ ba có dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng số 407 dự án
được cấp phép, vốn đăng ký đạt 3,8 tỷ USD. Cần lưu ý, tuy Nhật Bản đứng thứ 3
về vốn đầu tư đăng ký tại Việt Nam, nhưng lại đứng đầu về vốn thực hiện (với
tổng số dự án còn hiệu lực là 369, đạt 3,07 tỷ USD). Vì vậy, xét thực chất đầu
tư của Nhật Bản là ở vị trí số 1 tại Việt Nam
và do đó đã có nhiều đóng góp trực tiếp cho sự phát triển kinh tế-xã hội của cả
hai nước, đặc biệt là với Việt Nam.
Điều cần nhấn mạnh là, việc Nhật Bản quyết định nối
lại viện trợ ODA vào năm 1991 và tăng cường quan hệ với Việt Nam không chỉ tạo
nên môi trường thuận lợi trong quá trình đầu tư, phát triển kinh tế mà nó còn
tạo tiền đề cho việc mở rộng quan hệ trên các lĩnh vực văn hóa, khoa học và
giáo dục, thật sự đánh dấu một giai đoạn phát triển mới trong quan hệ giữa hai
nước. Chính phủ Nhật Bản ngày càng quan tâm đến mối quan hệ hữu nghị và hợp tác
giúp đỡ Việt Nam trong công cuộc phát triển kinh tế- xã hội và khẳng định: “
Với những lý do sau, Chính phủ Nhật Bản coi Việt Nam là đối tác hết sức quan
trọng…:
1. Việt Nam là nước đông dân thứ hai sau Indonesia trong
các nước ASEAN và đóng vai trò quan trọng cho hòa bình và ổn định trong khu
vực, đồng thời có vị trí địa lý quan trọng trong khu vực;
2. Việt Nam là nước xúc tiến tích cực cuộc cải cách
kinh tế, xã hội trong đó có sự chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường và trong
những năm gần đây đang chiếm dần những vị trí quan trọng trong ASEAN;
3. Để nâng cao vị trí của ASEAN trên trường quốc tế
thì việc xóa bỏ sự chênh lệch giữa các nước trong khu vực là điều cần thiết;
4. Sự vững mạnh về kinh tế và ổn định chính trị của
các nước ASEAN là quan trọng với Nhật Bản. Với những lý do nêu trên…, từ năm
1995 Nhật Bản đã và đang là nước viện trợ lớn nhất đối với Việt Nam”.
Trên cương vị Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản, ông
Obuchi keizo nhấn mạnh: “ Chính sách đối ngoại của Nhật Bản là coi trọng khu
vực châu Á- Thái Bình Dương, đặc biệt là khối ASEAN…và đặt nhiều hy vọng vào sự
đóng góp của Việt Nam cho sự phát triển và ổn định” của chung khu vực.
Tính đến năm 1997, tổng số ODA mà chính phủ Nhật Bản
cam kết cho Việt Nam
vay đã đạt 4,011 tỷ USD. Năm 1998- 1999, mặc dù gặp nhiều khó khăn về kinh tế
nhưng Nhật Bản vẫn quyết định tăng viện trợ ODA cho Việt Nam. Trong
khuôn khổ kế hoạch Miyazawa, Việt Nam sẽ tiếp tục được vay 500 triệu
USD.
Trong năm 2002, nhiều dự án với số vốn vay khá lớn của
Nhật Bản đã được triển khai và thực hiện tại Việt Nam như: Dự án mua thiết bị
xây dựng đường Hồ Chí Minh trị giá 1.454 tỷ yên, Dự án chương trình thủy lợi
các tỉnh phía Bắc 8.677 tỷ yên, Dự án phát triển nguồn nhân lực 4,63 tỷ yên, Dự
án cấp nước và quản lý nước ở Hà Nội 8,98 tỷ yên….Đây là những dự án có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong việc cải thiện môi trường sống, phát triển mạng lưới
giao thông và sản xuất ở Việt Nam. Việc Việt Nam và Nhật Bản ký Hiệp định
Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư năm 2003 đã tạo cơ sở để các doanh nghiệp Nhật
Bản vững ttin đầu tư vào Việt Nam. Các quan chức cao cấp và nhiều tập đoàn kinh
tế Nhật Bản đang thể hiện quyết tâm tạo ra một làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam. Trong
những năm qua, dòng vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam có xu thế tăng nhanh. Kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản năm 2005 đạt khoảng 4,5 tỷ USD, chiếm
14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 18% so với năm 2004. Với tốc
độ tăng trưởng đó, kim ngạch buôn bán hai chiều năm 2006- 2007 có thể tăng lên
10 tỷ USD/năm. Năm 2005, Nhật Bản có 97 dự án đầu tư tại Việt Nam với số vốn
500 triệu USD. Tính chung từ năm 1988 đến 2004, Nhật Bản đã có 511 dự án với
tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam lên tới hơn 6,2 tỷ USD. Nhật Bản hiện là thị
trường nhập khẩu hàng hóa lớn thứ hai của Việt Nam sau Mỹ, với các sản phẩm thế
mạnh của Việt Nam như may mặc, hải sản, đồ gỗ nội thất…Việc ký kết Hiệp định
thương mại tự do (FTA)hai nước tháng 2 năm 2006 được các chuyên gia kinh tế
giữa hai nước và nhiều quốc gia có thể coi đó như là mẫu hình để thúc đẩy lợi
ích của họ ở Việt Nam. Hai chính phủ tin rằng việc ký kết hiệp định FTA không chỉ
sẽ góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng GDP của Nhật Bản, qua đó mở rộng ảnh hưởng
của Nhật Bản với vực mà còn tạo những điều kiện cần thiết để Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng
kinh tế ở mức độ cao trên 8%/ năm.
I.4. Về giao lưu hợp tác phát triển văn hóa
Quan hệ giao lưu văn hoá
Việt Nam-Nhật Bản tuy đã có từ lâu đời, song mối quan hệ này đã diễn ra không
sôi động như trong các lĩnh vực kinh tế. Chỉ từ cuối thập niên 1980 đến nay,
quan hệ giao lưu, hợp tác phát triển văn hoá giữa hai nước mới thực sự được chú
trọng phát triển
Hỗ trợ tài chính của phía
Nhật Bản dành cho Việt Nam
để xây dựng các cơ sở hạ tầng và mua sắm trang thiết bị văn hoá thông tin. Đó là các dự án như: 24 triệu yên cho Bộ Văn hoá năm
1987; 10 triệu yên cho việc bảo dưỡng và tôn tạo phố cổ Hội An thông qua Tổ
chức UNESCO năm 1989; 23 triệu yên cho mua sắm trang thiết bị in ấn các chương
trình văn hoá giáo dục cho Đài Truyền hình Việt Nam năm 1990; 18 triệu yên cho
việc xây dựng và mua sắm các trang thiết bị của nhà hữu nghị, Hội Hữu Nghị
Việt-Nhật năm 1991-1992. Năm 1992, dự án hỗ trợ tài chính cho Tổng cục Thể dục
Thể Thao; năm 1993, dự án trang thiết bị cho việc làm phim hoạt hình Việt Nam. Năm 1995,
dự án 54,1 triệu yên cho việc mua sắm trang thiết bị giảng dạy tiếng Nhật ở Đại
học Ngoại ngữ Hà Nội. Cũng năm 1995, Nhật đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 10,5 tỷ yên
, trong đó đã dành ra một khoản lớn cho các hoạt động văn hoá-giáo dục. Năm
1996, Nhật Bản giúp Việt Nam hai sự án lớn về lĩnh vực âm nhạc, 500 triệu yên
cho Nhạc Viện Hà Nội và 450 triệu yên cho Nhạc Viện Thành phố Hồ Chí Minh...
Nhật Bản hỗ trợ tài chính
cho việc tổ chức các hoạt động giao lưu, trao đổi văn hoá giữa hai nước
Việt-Nhật. Ngoài các dự án kinh tế, chính phủ Nhật Bản đã và đang
dành cho Việt Nam một khoản viện trợ không hoàn lại thích đáng về văn hóa. Giao
lưu văn hóa, khoa học- kỹ thuật và giáo dục cũng được quan tâm và xúc tiến mạnh
mẽ. Từ năm 1993, hàng năm chính phủ Nhật Bản đã tài trợ cho các dự án trao đổi
văn hóa như tài trợ cho việc trao đổi các đoàn nghệ thuật, ca múa nhạc dân tộc,
đào tạo sinh viên, trao đổi học giả, giúp đỡ và phối hợp tổ chức các hội thảo
khoa học, các chương trình nghiên cứu. Phía Nhật Bản còn giúp đỡ về tài chính
để trùng tu các di sản văn hóa Việt Nam như phố cổ Hội An, cố đô Huế, khu di
tích Mỹ Sơn, Hoàng thành Thăng Long, làng cổ Đường Lâm và nhiều công trình lịch
sử, kiến trúc truyền thống khác. Thông qua sự hợp tác với các cơ quan khoa học
của Việt Nam, nhiều trường đại học, viện nghiên cứu Nhật Bản đã và đang thực
hiện một số dự án hợp tác khoa học rất có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh
tế, xã hội và văn hóa Việt Nam.
Dựa trên những thành tựu nghiên cứu đó, các nhà lãnh
đạo Việt Nam có thể đưa ra
những chính sách phát triển phù hợp đồng thời phía Nhật Bản cũng có thêm những
cơ sở khoa học cần thiết để đề ra những dự án đầu tư và hợp tác hiệu quả hơn
nữa với Việt Nam.
Sự hỗ trợ kinh phí của chính phủ và một số tổ chức Nhật Bản cũng như sự tham
gia tích cực của đội ngũ các nhà khoa học Nhật Bản đã tạo nên thành công cho
các hội thảo về Đô thị cộ Hội An; Phố Hiến; Hội thảo quốc tế về Việt Nam học
lần thứ nhất; Hội thảo Quan hệ Nhật Bản- Việt Nam tiến tới thế kỉ XXI; Quan hệ
Việt Nam- Nhật Bản qua giao lưu gốm sứ thế kỷ XV- XVII; Hội thảo về bảo vệ di
sản văn hóa; Hướng tới xây dựng một cộng đồng Đông Á- Cơ hội và thách thức;
Quan hệ văn hóa, giáo dục Việt Nam- Nhật Bản và 100 năm Phong trào Đông Du và
nhiều hội thảo về bảo tồn khu phố cổ Hà Nội và Hoàng thành Thăng Long, về kiến
trúc dân gian truyền thống Việt Nam, về làng cổ Đường Lâm, về Dự án nghiên cứu,
trùng tu, tôn tạo Thành nhà Hồ….
Xuất phát từ nhận thức “ Hiền tài là nguyên khí của
đất nước”, đào tạo nhân tài là trọng tâm phát triển của quốc gia, sau khi quan
hệ hai nước được thiết lập, chính phủ Nhật Bản đã quan tâm giúp đỡ Việt Nam
trong lĩnh vực giáo dục. Từ năm 1995 đến nay, thông qua sự tài trợ chính thức
và sự vận động quyên góp của các tổ chức phi chính phủ, các hội hữu nghị, Nhật
Bản đã giúp xây dựng 256 trường tiểu học ở 17 tỉnh vùng bão và 4 tỉnh miền núi
phía Bắc với tổng số vốn viện trợ là 10.933 triệu yên. Nhiều trường đại học,
viện nghiên cứu, cơ quan lưu trữ, thư viện cũng đã nhận được nhiều tài liệu
khoa học, thiết bị bảo quản, nghiên cứu của Nhật Bản. Mặt khác, phía Nhật Bản
còn trực tiếp đón nhận nhiều nhà khoa học, nghiên cứu sinh, thực tập sinh, sinh
viên….sang Nhật Bản để trao đổi khoa học và học tập. Từ năm 1992 đến 1998, 341
học bổng các loại đã được dành cho Việt Nam. Những năm gần đây, số lượng
học bổng dành cho Việt Nam
ngày càng nhiều nhờ đó mà số lưu học sinh sang Nhật học tập đã không ngừng tăng
lên. Năm 1999 là 558 người’ 2000: 717; 2001: 938; 2002: 1.115; 2003: 1.336;
2004: 1.570 người trong đó có khoảng 500 người theo diện học bổng chính phủ
Nhật Bản. Nhiều người được đào tạo ở Nhật Bản hiện đang giữ những trọng trách
trong các cơ sở kinh tế, trường đại học và trung tâm nghiên cứu khoa học.
Phong trào học tiếng Nhật
ở Việt Nam
đã ngày càng phát triển mạnh trong những năm gần đây. Tính đến cuối năm 2002, ở Hà Nội có 12 cơ sở đào tạo tiếng
Nhật (có 6 trường Đại học quốc lập và 6 cơ sở tư nhân) với số học viên khoảng
3000 người. Thành phố Hồ Chí Minh có 26 cơ sở (6 trường Đại học quốc lập và 20
cơ sở tư nhân) với số học viên khoảng 7000 người. Tổng số học viên học tiếng
Nhật ở Việt Nam
hiện đã lên tới hơn 10000 nghìn người. Đáng lưu ý kể từ năm 1994 đến nay, đã có
nhiều giáo viên của Nhật Bản tình nguyện sang Việt Nam giảng dạy tiếng Nhật, góp phần
tích cực thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị và giao lưu văn hoá giữa nhân dân
hai nước
Đội ngũ nghiên
cứu khoa học. Chính sách đối ngoại rộng mở và những thành tựu của công cuộc
đổi mới không chỉ thu hút được sự quan tâm của các tập đoàn tư bản, doanh
nghiệp Nhật Bản mà còn có sức hấp dẫn thực sự đối với đội ngũ những người
nghiên cứu khoa học cũng như những người có cảm tình muốn tìm hiểu về Việt Nam.
Hội nghiên cứu Việt Nam ở
Nhật Bản hiện nay tập hợp khoảng 100 người trong đó có nhiều chuyên gia Việt Nam học nổi
tiếng. Khuynh hướng nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản về Việt Nam ngày càng
đa dạng hóa. Trước đây, giới học giả Nhật Bản chủ yếu chỉ tập trung vào các
lĩnh vực sử học, văn học, chính trị nhưng những năm gần đây nhiều người còn
quan tâm đến các vấn đề như: Khảo cổ học, kiến trúc cổ Việt Nam, cấu trúc xã
hội nông thôn và thiết chế chính trị truyền thống Việt Nam, vấn đề sở hữu ruộng
đất, vị trí người phụ nữ trong xã hội, văn hóa dân gian, tín ngưỡng, âm nhạc
Việt Nam….
I.5. Về hợp tác du lịch
Hơn thập niên qua, lượng
khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam
ngày càng tăng rất nhanh. Vào năm 1990, lượng khách Nhật du lịch Việt Nam mới
có 1390 người, nhưng đến năm 2002 đã là 279.769 người. Liên tục trong 3 năm gần
đây (2000-2002) tốc độ tăng trưởng đạt mức cao 35% hàng năm, đặc biệt trong 2
tháng đầu năm 2003 đã đạt rất cao 49,5%. Nhật Bản đã trở thành thị trường khách
nước ngoài hàng đầu của Du lịch Việt Nam về hiệu quả kinh tế và chỉ đứng
sau Trung Quốc về lượng khách.
Tiềm năng và triển vọng của
thị trường khách Nhật Bản du lịch vào Việt Nam còn rất lớn. Do đó để tăng
cường các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam tại thị trường Nhật,
Văn phòng Xúc tiến du lịch Việt Nam sắp tới sẽ sớm được thiết lập tại Nhật Bản.
Hy vọng rằng mục tiêu đón 500.000 khách Nhật trong một vài năm tới và đón 1
triệu khách Nhật vào năm 2010 sẽ trở thành hiện thực.
Như vậy là, quan hệ hữu nghị Việt Nam- Nhật Bản đã
từng tồn tại và phát triển từ rất xa xưa trong lịch sử hai nước. Trải qua nhiều
giai đoạn thăng trầm, trong những điều kiện quốc tế mới có nhiều thuận lợi,
quan hệ Việt Nam- Nhật Bản hiện nay đang đứng trước những triển vọng phát triển
tốt đẹp. Quan hệ hữu nghị hợp tác đó đã và đang mang lại lợi ích thiết thực cho
cả hai nước. Sự hợp tác và quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Nhật Bản sẽ góp
phần vào sự phát triển ổn định, bảo đảm an ninh ở khu vực Đông Bắc Á và Đông
Nam Á. Ngày 12/9/2008 tại Hà Nội,
Bộ Ngoại giao, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội hữu nghị Việt Nam
- Nhật Bản đã phối hợp tổ chức kỷ niệm 35 năm ngày Việt Nam - Nhật Bản thiết
lập quan hệ ngoại giao (21/9/1973 - 21/9/2008). Phát biểu tại
lễ kỷ niệm, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Gia Khiêm nhấn mạnh
trong 35 năm qua, quan hệ Việt - Nhật
không ngừng phát triển và đã có bước tiến vượt bậc trên nhiều lĩnh vực như
chính trị, kinh tế - thương mại, khoa học kỹ thuật, giáo dục, văn hóa. Việt Nam khẳng định luôn coi Nhật Bản là một trong những đối
tác quan trọng hàng đầu về đầu tư, thương mại và viện trợ phát triển chính thức
(ODA). Tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới, hướng tới quan hệ đối
tác chiến lược. Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Mitsuo Sakaba cũng khẳng
định quan hệ Nhật - Việt đang có bước phát triển vượt bậc và đã được nâng lên
tầm '"đối tác chiến lược," thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa hai nước
trên nhiều phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa.
1.
Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á các số từ năm 2000 đến
2007.
2.
Tạp chí nghiên cứu Nhật bản năm 2000- 2005.
3.
Tạp chí nghiên cứu lịch sử năm 1999, 2002, 2005, 2007.
4.
Tạp chí nghiên cứu kinh tế năm 2007, 2008.
5.
Thông tấn xã Việt Nam.
7.
Viện nghiên cứu kinh tế và phát triển: www.idr.edu.vn
9.
Nguyễn Quốc Hùng (cb): Lịch sử Nhật Bản, Nxb Thế giới.
10. Vĩnh
Sính: Việt Nam
và Nhật Bản giao lưu văn hóa, Nxb Văn Nghệ TP.HCM, 2001.
11. Nguyễn Văn Kim: Nhật Bản với châu Á- Những mối liên hệ
lịch sử và chuyển biến kinh tế-xã hội, Nxb.Thế giới, H, 2003.