Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2011

41. Triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2011

TCCSĐT - Theo nhiều đánh giá của các tổ chức quốc tế, triển vọng kinh tế thế giới năm 2011 chưa thật sự sáng sủa, còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức: tỷ lệ thất nghiệp cao, nợ công của nhiều nước tiếp tục gia tăng, sự hợp tác giữa các nền kinh tế lớn suy giảm gây căng thẳng trong giao thương và thị trường tài chính, dẫn đến tăng cường chính sách bảo hộ ở nhiều nước và nguy cơ bùng nổ chiến tranh tiền tệ.
Kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại
Báo cáo thường niên của Liên hợp quốc “Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới năm 2011”, công bố đầu tháng 12-2010, nhận định rằng, sự phục hồi kinh tế thế giới đã bắt đầu mất đà từ giữa năm 2010. Mọi chỉ số cho thấy tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã chậm lại. Điều đó ảnh hưởng nặng nề tới triển vọng tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2011. Nếu năm 2010, dự báo GDP của cả thế giới tăng trưởng 3,6%, thì trong năm 2011 chỉ hy vọng ở mức 3,1% và đến năm 2012 mới có thể nhích lên 3,5%.
Cơ quan phụ trách các vấn đề kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc (DESA) cũng cho rằng, nền kinh tế thế giới chưa thể thoát ra khỏi khủng hoảng và năm tới sẽ phải đối mặt với những rủi ro còn lớn hơn. Những căng thẳng gần đây trong lĩnh vực tiền tệ và thương mại, giá trị đồng USD suy yếu và biến động tỷ giá đã thúc đẩy một số quốc gia thực hiện những biện pháp tiền tệ tự vệ để giữ dòng vốn cho mình, giữa các nước không có sự phối hợp chặt chẽ về chính sách tiền tệ khiến các thị trường trở nên bất ổn hơn.
Dư luận trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng đều cho rằng, triển vọng phục hồi kinh tế thế giới trong năm 2011 vẫn rất mong manh, tăng trưởng GDP ở phần lớn các khu vực đều giảm so với năm 2010; kinh tế Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và khu vực đồng ơ-rô sẽ có mức tăng trưởng chậm hơn. Tạp chí Nhà kinh tế (The Economist) nhận định, dù khả năng suy thoái kép chưa hiện hữu, nhưng phải mất một thời gian khá dài nữa để sự phục hồi kinh tế toàn cầu mới đạt tới mức độ an toàn.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì cho rằng, kinh tế thế giới trong năm 2011 tiếp tục tăng trưởng, tuy nhiên mức độ tăng trưởng và phục hồi không đồng đều giữa các khu vực địa lý, các nước công nghiệp phát triển tăng trưởng chậm nhất, còn các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển sẽ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn.
Việc các nước, trước hết là những nước lớn tăng cường sự bảo hộ cho nền kinh tế của mình, thiếu sự hợp tác veefchinhs sách để thúc đẩy tăng kinh tế, thương mại toàn cầu, thì khó có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển của cả nền kinh tế thế giới.
Kinh tế các khu vực tăng trưởng không đồng đều
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) dự báo, các nền kinh tế của 33 quốc gia thành viên, mà chủ yếu là ở châu Âu, trong năm 2010 chỉ đạt mức tăng trưởng trung bình 2,8%, so với mức 3,4 % trong năm 2009. Năm 2011 sẽ còn thấp hơn nữa, chỉ hy vọng GDP toàn khối tăng 2,3%.
Mỹ là nước có nền kinh tế lớn nhất trong OECD, cũng như trên toàn thế giới, từ giữa năm 2010 đã phải hạ mức dự báo tăng trưởng GDP từ 3,5 xuống còn 2,6%. Trong năm 2011, mức tăng trưởng GDP có thể còn bị thụt lùi hơn nữa. Hiện cường quốc hàng đầu thế giới vẫn loay hoay, mắc kẹt trong khủng hoảng. Mặc dù trong những tháng đầu năm 2010, kinh tế Mỹ le lói dấu hiệu khả quan, khiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã nghĩ đến việc giảm dần các gói kích thích, tuy nhiên, từ giữa năm 2010, kinh tế Mỹ liên tục nhận được tin tức bi quan từ các thị trường lao động, nhà đất… Tỷ lệ thất nghiệp luôn ở mức cao, và không suy giảm, thậm chí vào đầu tháng 12-2010 còn tăng vọt từ 9,6 lên 9,8%. Đứng trước những khó khăn chồng chất đó, Mỹ đã quyết định bơm thêm 600 tỉ USD để mua trái phiếu nhằm hỗ trợ đà phục hồi kinh tế. Quyết định này gặp phải nhiều búa rìu dư luận từ nhiều nước và từ cả phe đối lập trong nước.
Tại khu vực 16 nước sử dụng đồng ơ-rô (đều nằm trong OECD) sẽ có tốc độ tăng trưởng yếu nhất. Hồi mùa xuân năm 2010, Ủy ban châu Âu (EC) dự báo tăng trưởng GDP của các nước này chỉ ở mức 0,9%. Trong báo cáo mới nhất cuối tháng 11 vừa qua, EC đã nâng mức tăng trưởng kinh tế của khu vực này trong năm 2010 lên 1,7%, gần gấp đôi dự báo ban đầu, bất chấp cuộc khủng hoảng nợ. Tuy nhiên, EC cũng cho rằng thâm hụt ngân sách tại các nước như Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha sẽ cao hơn dự đoán. Tăng trưởng của khu vực này trong năm 2011 được cho là tiếp tục giảm xuống còn 1,5%, do tốc độ tăng trưởng toàn cầu giảm và ảnh hưởng của các biện pháp "thắt lưng buộc bụng" mà các nước khu vực này đang áp dụng. Tuy nhiên, dự kiến vào năm 2012, GDP của khu vực đồng ơ-rô sẽ tăng 1,8%.
Theo EC, trong năm 2011, nhịp độ tăng trưởng kinh tế tồi tệ nhất là ở Đức, nền kinh tế lớn nhất châu Âu. Năm 2010 Đức tăng trưởng 3,7%, sang năm 2011 chỉ còn ở mức 2,2%, mặc dù vậy vẫn cao hơn mức trên trung bình của cả khu vực. Pháp là nước có nền kinh tế lớn thứ hai châu Âu, dự kiến sẽ tăng trưởng khoảng 1,6% năm 2010 và 2011.
Các nước gặp khó khăn nhiều nhất về nợ nần sẽ tiếp tục lao đao khi chính phủ hạn chế chi tiêu và tăng thuế. Bồ Đào Nha - được đông đảo dư luận cho là nền kinh tế dễ bị tổn thương nhất sau Hy Lạp và Ai-len, theo dự báo trong năm 2011 có nhiều nguy cơ rơi vào tình trạng suy thoái, tăng trưởng giảm khoảng 1% (năm 2010 chỉ tăng 1,3%).
Nền kinh tế Hy Lạp đã được giải cứu hồi tháng 5-2010 nhờ gói cứu trợ khẩn cấp trị giá 110 tỉ ơ-rô, thế nhưng mức tăng trưởng GDP trong năm 2011 sẽ chỉ còn 1,2%, giảm 3% so với mức tăng trưởng năm 2010. EC khuyến cáo rằng các nước khu vực đồng ơ-rô nên sẵn sàng thực hiện thêm các biện pháp "thắt lưng buộc bụng" cho dù có tăng trưởng thấp hơn mong đợi.
Các nền kinh tế lớn ngoài tổ chức OECD sẽ tăng trưởng mạnh hơn, do đó sẽ có thể bù đắp nhịp độ phục hồi kinh tế thế giới. Theo dự báo của IMF, Trung Quốc sẽ tăng trưởng ổn định ở mức 10% trong năm 2010 và năm 2011. Đầu năm 2010, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản về GDP (1.330 tỉ USD so với 1.280 tỉ USD) để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Tổ chức kinh tế uy tín Conference Board cho rằng, Trung Quốc sẽ vượt Mỹ ngay trong năm 2012, nếu xét về sức mua tương đương (PPP), còn nếu xét về GDP thực, Trung Quốc còn phải mất hơn một thập niên nữa để vượt Mỹ. Nhận định này trùng với báo cáo mới nhất của Ngân hàng Standard Chartered, cho rằng Trung Quốc sẽ trở thành siêu cường lớn nhất toàn cầu vào năm 2020.
Tổng thống Nga Mét-vê-đép cuối tháng 11-2010 cho biết, nền kinh tế Nga đã ổn định và khôi phục, sau một thời gian dài tăng trưởng bấp bênh, bất ổn. Ước tính tăng trưởng GDP trong năm 2010 là 4% và trong năm 2011 còn có thể cao hơn. Tỷ lệ lạm phát sẽ giảm từ 6,7% năm 2011 xuống còn 5%-6% năm 2012 và 4,5%-5,5% năm 2013.
Chủ tịch của Ngân hàng ADB, ông Ha-ru-hi-kô Ku-rô-đa, cũng nhận xét: “Căn cứ vào các số liệu cho thấy cuộc khủng hoảng đã không có tác động nặng nề đến khu vực châu Á - Thái Bình Dương như người ta lo sợ ban đầu vào năm 2008, nhưng cuộc khủng hoảng đã làm gián đoạn đà tăng trưởng mạnh mẽ của giai đoạn trước năm 2007 và cái giá của cuộc khủng hoảng có thể đo được thông qua thu nhập mất đi vì sự suy giảm tốc độ tăng trưởng”.
Theo dự báo mới nhất của IMF, tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ năm 2010 sẽ đạt 9,7%, cao hơn mức 9,4% dự báo hồi tháng 7. Năm 2011 có thể sẽ giảm đôi chút, nhưng vẫn giữ ở mức 8,4%. Các nhà kinh tế nhận định rằng, mức tăng trưởng đó chủ yếu là do sự hồi sinh của mức cầu trong dân số 1,2 tỉ người của Ấn Độ. Chính phủ Ấn Độ cũng tỏ ra lạc quan hy vọng rằng nền kinh tế sẽ tăng trưởng mạnh 9%-10% trong 2 năm tới. Họ cho rằng, đẩy cao mức tăng trưởng kinh tế là cách duy nhất để giảm bớt tình trạng nghèo khó, vốn vẫn hiện diện tại nhiều khu vực trong nước, bất chấp nền kinh tế đang đà đi lên của Ấn Độ.
Các nền kinh tế lớn ở Đông Á bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Xin-ga-po trong năm 2011 cũng sẽ phát triển chậm lại. Nếu năm 2010, GDP của 4 nước này tăng tổng cộng 8,8%, thì năm 2011 sẽ chỉ ở mức 7,3%. Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) còn lo ngại rằng một số nước châu Á trong năm 2011 sẽ tăng lạm phát ở mức cao.
IMF dự đoán kinh tế Trung Đông và Bắc Phi sẽ vẫn tăng trưởng mạnh. Nền kinh tế hai khu vực này phụ thuộc chủ yếu vào ngành dầu mỏ, bởi vậy nó dễ bị tổn thương nếu giá dầu thô lại giảm mạnh. Thế nhưng, Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) mới đây đã nâng mức dự báo về nhu cầu dầu mỏ thế giới lên 85,59 triệu thùng/ngày trong năm nay và tăng lên 86,64 triệu thùng/ngày trong năm 2011 và giá dầu vẫn sẽ ổn định ở mức 75 - 80 USD/thùng. Bởi vậy dự báo tăng trưởng GDP của hai khu vực này sẽ là 4,1% năm 2010 và 5,1% năm 2011, so với mức 2% năm 2009.
Tại khu vực Mỹ La-tinh và vùng Ca-ri-bê, hoạt động xuất khẩu mạnh mẽ và giá hàng hóa tăng cao đang “tiếp sức” cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh hơn mong đợi. Dự kiến, tăng trưởng GDP của khu vực này năm 2011 vẫn tương đối mạnh, ở mức 4%, mặc dù không bằng mức tăng trưởng 5,6% ước tính trong năm 2010. Bra-xin, đầu tàu tăng trưởng của khu vực, sẽ tiếp tục duy trì nhu cầu tiêu dùng mạnh mẽ ở trong nước để thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của các nước láng giềng. Khu vực này cũng được lợi nhờ các mối quan hệ kinh tế ngày càng tăng cường và mở rộng với các nền kinh tế đang nổi lên ở châu Á.
Kinh tế Việt Nam tiếp tục nhịp độ tăng trưởng cao trong năm 2011
Năm 2010, Việt Nam đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức do tác động bất lợi từ cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh và một số thiếu sót, yếu kém trong quản lý và chỉ đạo thực hiện kế hoạch. Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn đạt được phần lớn các chỉ tiêu đã đề ra: kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) ước đạt 6,7%, xuất khẩu ước tăng 19,1%, cao hơn gần 3 lần so với kế hoạch; an sinh và phúc lợi xã hội được chăm lo khá hơn; cải cách hành chính tiếp tục được đẩy mạnh; quốc phòng và an ninh được giữ vững, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế đạt nhiều kết quả tích cực, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng lên trên trường quốc tế.
Các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế thường xuyên theo dõi những bước đi của kinh tế Việt Nam cũng bày tỏ sự vui mừng và chia sẻ về nhịp độ phát triển tương đối cao của nước ta.
Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá cao năng lực điều hành của Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua và cho rằng, Việt Nam, một lần nữa, đã chứng minh khả năng của mình trong việc vượt qua những thách thức, khó khăn về mặt kinh tế để giành được những thắng lợi nhất định. Việt Nam đã tránh được một cuộc suy thoái trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu đang rất nghiêm trọng.
Các chuyên gia của Ngân hàng đầu tư HSBC (The Hong Kong and Shanghai Banking Corporation) nhận định, GDP của Việt Nam trong năm 2010 có thể tăng 7,2%, mức tăng cao nhất kể từ năm 2007 và cao hơn đáng kể so với mức 6% do IMF dự báo. Hãng Bloomberg cũng cho rằng kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển theo chiều hướng tích cực, tăng trưởng GDP trong quí 3 và quí 4 năm 2010 cao hơn hai quí đầu năm vì kinh tế đã phục hồi một cách rõ rệt. Tăng trưởng GDP trong cả năm có thể đạt mức 7,18%.
Ngân hàng UOB (United Overseas Bank), ngân hàng lớn nhất và có uy tín nhất ở Xin-ga-po ví nền kinh tế Việt Nam “như con hổ đang tiến về phía trước”. Việt Nam như một địa chỉ đầu tư đáng tin cậy và nhiều tiềm năng với những yếu tố thuận lợi như chính trị ổn định, nguồn lao động dồi dào và giá rẻ, tốc độ tăng GDP hằng năm thuộc hàng cao trên thế giới, một thị trường tiêu thụ rộng lớn đầy tiềm năng với hơn 85 triệu dân...
Theo báo cáo của EIU (Economist Intelligence Unit, một tổ chức nghiên cứu độc lập về các quốc gia trên toàn cầu), tình hình chính trị, xã hội của Việt Nam ổn định. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI với một thế hệ các nhà lãnh đạo mới với chủ trương, đường lối phát triển kinh tế sẽ làm cho Việt Nam có vị trí nổi bật hơn trên thế giới. EIU dự báo rằng, châu Á sẽ là khu vực mạnh nhất về tăng trưởng kinh tế năm 2010-2011 và các nhà đầu tư nước ngoài trong một triển vọng lâu dài vẫn tích cực đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh những nhận xét tích cực như vậy, trong báo cáo tựa đề “Vietnam - Country Forecast Februry 2010”, EIU cũng cho rằng, mặc dù Việt Nam đã vượt qua được những tác động của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng sức ép về thâm hụt ngân sách và lạm phát vẫn còn đe dọa tới sự ổn định của nền kinh tế.
Trong khi đó, IMF bày tỏ lo ngại rằng, bên cạnh những bận tâm về thâm thủng ngân sách, cán cân chi trả của Việt Nam hiện đang ở mức nguy hiểm. Những con số mà IMF ghi nhận cho thấy dự trữ ngoại tệ của Việt Nam quá mong manh, chỉ đủ để nhập khẩu trong 7 tuần. Bởi vậy, IMF khuyến cáo không nên nới lỏng chính sách tiền tệ tín dụng quá sớm. Nếu niềm tin vào đồng nội tệ lấy lại được phần nào, áp lực tỷ giá sẽ giảm bớt và dự trữ ngoại tệ có thể gia tăng một cách khiêm tốn. Mức dự trữ ngoại tệ an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế là phải đủ cho 12 tuần lễ chi trả mà Việt Nam từng đạt được hồi năm 2008./
Ngô Gia Sơn
TS, nguyên Trưởng Cơ quan đại diện TTXVN tại Liên bang Nga
Số 2 (218) năm 2011