TCCS - Trong 65 năm
qua kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, châu Âu có đóng góp
lớn cho xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững. Thuyết "châu
Âu là trung tâm của thế giới" đã từng bị phê phán, tuy nhiên, từ quá
trình khoan dung, hòa giải, liên kết và hội nhập phát triển bền vững ở
châu lục này có thể rút ra được một số kinh nghiệm bổ ích cho các châu
lục khác, đặc biệt là đối với Đông á. Bài viết tập trung vào 3 đặc điểm
của tiến trình hội nhập EU sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Vượt qua quan hệ thù địch để tiến tới quan hệ đối tác, bạn bè và đồng minh
Về một phương diện, có
thể nói lịch sử châu Âu là lịch sử của những cuộc chiến tranh trong đó
có cuộc chiến kéo dài tới cả trăm năm. Trong thế kỷ XX, châu lục này là
nơi khởi nguồn của hai cuộc chiến tranh lớn (hai cuộc chiến tranh thế
giới) và Chiến tranh lạnh. Định đề của chủ nghĩa hiện thực "Kẻ mạnh làm
những gì mà họ có quyền lực để làm và kẻ yếu chấp thuận những gì họ phải
chấp thuận" đã khơi mào cho nhiều âm mưu hiếu chiến từ cổ tới kim. Đối
diện với chủ nghĩa hiện thực là chủ nghĩa lý tưởng với sự tôn vinh đạo
lý và khát vọng hòa bình cho các dân tộc. Cuộc đấu tranh giữa hai trường
phái tư tưởng này cũng là cuộc đấu tranh giữa "cái thiện" với "cái ác"
trong từng cá nhân cũng như giữa các thế lực trong xã hội quốc gia và xã
hội quốc tế.
Trong cuộc đấu tranh ấy,
châu Âu đã trưởng thành và trở thành nôi khởi thủy của nhiều tư tưởng
nhân văn, tiến bộ xã hội, trong đó có học thuyết của C. Mác về tự do và
sự phát triển toàn diện của con người với một trong ba nguồn gốc là
triết học cổ điển Đức. Trong tác phẩm "Hòa bình vĩnh viễn" xuất bản năm
1775, I. Can-tơ (Immanuel Kant), nhà triết học cổ điển Đức, đã đưa ra ý
tưởng về một kiến trúc "Liên hiệp hòa bình" giữa các dân tộc ở châu Âu
mà nền tảng là khung pháp lý thuyết Thể chế có ảnh hưởng lớn tới tiến
trình tạo dựng hòa bình ở châu Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Từ
"Cộng đồng Than thép châu Âu" (ECSC) được thành lập năm 1952 theo Hiệp
ước Pa-ri năm 1951 tới "Liên minh châu Âu" (EU) ra đời năm 1992 theo
Hiệp ước Ma-át-xtrích và việc thông qua Hiệp ước Li-xbon có hiệu lực từ
ngày 1-12-2009 là một bước tiến dài trong lịch sử khu vực hóa - thể chế
hóa ở châu Âu nói riêng và trên thế giới nói chung. ý tưởng của I.Can-tơ
đã trở thành hiện thực. Kiến trúc EU chính là một dạng thức "Liên hiệp
hòa bình" nhằm bảo đảm an ninh lâu dài và sự thịnh vượng cho các nước
thành viên.
Hòa giải và hợp tác Pháp -
Đức, hai nước lớn ở châu Âu, là động lực chính thúc đẩy hòa nhập châu
Âu. Ngoại trưởng Pháp R. Xchu-man (Robert Schuman) là người đầu tiên nêu
ý tưởng này trong tuyên bố ngày 9-5-1950: "Châu Âu sẽ không thể được
tạo thành trong một sớm một chiều, cũng không phải được xây dựng cùng
một lúc: nó sẽ phải được tiến hành theo từng bước cụ thể, trước hết là
bằng việc tạo ra tình đoàn kết trong hành động. Việc tập hợp các quốc
gia châu Âu yêu cầu phải chấm dứt sự đối đầu kéo dài cả thế kỷ giữa hai
nước: mỗi hành động được triển khai phải xuất phát từ nguyên thủ quốc
gia của mỗi nước". Ngày 9-5 sau này đã trở thành ngày sinh của EU và
được kỷ niệm hằng năm là "Ngày châu Âu". Nhờ nỗ lực phấn đấu của cả hai
nước theo kế hoạch của R.Xchu-man, mười ba năm sau, Hiệp ước về hợp tác
Pháp - Đức (còn gọi là Hiệp ước Ê-ly-dê) do Thủ tướng Đức K. A-đơ-nô
(Konrad Adenauer) và Tổng thống Đờ Gôn (De Gaulle) ký ngày 22-1-1963 đã
trở thành một trong những nền tảng của quan hệ hợp tác giữa hai nước. Ba
mục tiêu của Hiệp ước, được thể hiện trong bản Tuyên bố chung đi kèm
Hiệp ước, là: khẳng định sự hòa giải Pháp - Đức đã chấm dứt các thế kỷ
thù địch vừa qua và tạo ra sự thay đổi cơ bản trong quan hệ giữa hai dân
tộc; thiết lập tình hữu nghị thực sự giữa hai dân tộc, đặc biệt giữa
giới trẻ hai nước; thúc đẩy xây dựng châu Âu thống nhất và đây cũng là
mục tiêu phấn đấu của cả hai dân tộc. Mặc dù còn những bất đồng và đây
cũng là điều khó tránh, nhưng trong gần nửa thế kỷ qua, quan hệ hợp tác
Pháp - Đức đã có sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng cả về chính trị - an
ninh, kinh tế - thương mại, giáo dục và văn hóa. Mối quan hệ này được
xây dựng trên cơ sở hòa hợp lịch sử giữa hai nước vốn bị chiến tranh
chia cắt và cũng đồng thời là động lực thúc đẩy hòa nhập châu Âu. Mỗi
một thời kỳ tăng cường xây dựng liên minh châu Âu đều dựa vào quan điểm
thống nhất của Pháp và Đức. Sức mạnh của mối quan hệ Pháp - Đức chủ yếu
dựa vào những mối liên hệ bền chặt mà cả hai nước đã thiết lập theo dòng
thời gian và trên tất cả các lĩnh vực. Về mặt chính trị và quan hệ thể
chế, Hiệp ước đã vạch ra một lịch trình ràng buộc đối với các chuyến
thăm thường xuyên ở tất cả các cấp (Nguyên thủ quốc gia, bộ trưởng, quan
chức cấp cao) nhằm duy trì thường xuyên tinh thần hợp tác giữa hai bên.
Vượt qua chủ quyền quốc gia tối thượng để đi tới "Liên minh châu Âu"
Quan niệm về chủ quyền
quốc gia và tính bất khả xâm phạm của nó vốn là nguyên lý rường cột
trong học thuyết về nhà nước được hình thành và khẳng định trong đời
sống quốc tế ở châu Âu từ Hiệp ước Oét-pha-li-a (Wesphalia) năm 1648. Vì
vậy, "vượt qua chủ quyền quốc gia" để đến với "liên kết và hội nhập khu
vực" là thách đố lớn đối với tư duy và thực tiễn chính trị châu Âu sau
Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong bối cảnh đó, tầm nhìn xa vượt thời
gian của những nhà sáng lập EU là ở chỗ họ đã vượt qua được "lẽ phải
thông thường" về chủ quyền quốc gia và lợi ích kinh tế thuần túy mà theo
cách nói của G.V.Ph.Hê-ghen (Hegel) thì "lẽ phải thông thường" lại
không phải là triết học, để đi tới đích tương lai mà lúc đương thời cũng
chưa thể hình dung hết được.
Chủ nghĩa liên bang là
sự vượt qua chủ quyền quốc gia được pháp điển hóa lần đầu tiên ở Hiệp
ước Oét-pha-li-a và cũng là sự phủ định tư tưởng chính trị quyền lực của
chủ nghĩa hiện thực. Điểm cốt lõi của tư tưởng liên bang là nguyên tắc
hiệp hội, theo đó, một liên minh tự nguyện của các quốc gia và dân tộc
được hình thành nhờ sự thỏa ước, giao kèo hoặc tự do tham gia trên cơ sở
tự nguyện, tôn trọng và thừa nhận lẫn nhau, cùng có lợi, khoan dung,
ưng thuận và bình đẳng, tự quản và cùng nhau quản lý, giải quyết những
công việc chung. Tư tưởng liên bang còn là một quan niệm tổ chức,
chống tuyệt đối hóa, chống trung tâm hóa, tự trị, đoàn kết, chấp nhận
sự khác biệt, bảo đảm tính công dân, xây dựng liên minh từ dưới lên chứ
không phải là cách tiếp cận thứ bậc từ trên xuống và trong quá trình đó
luôn có sự điều chỉnh và thích ứng với hoàn cảnh luôn thay đổi.
Vấn đề đặt ra đối với
những nhà sáng lập EU là làm thế nào để thuyết phục các dân tộc có thể
tiếp cận vấn đề và những lợi ích của họ theo cùng một cách nhìn, trong
khi các cá nhân và dân tộc lại đang bị chia rẽ? Cách thức khả quan là
từng bước tạo ra lợi ích chung rộng nhất giữa những người dân châu Âu mà
lợi ích này được bảo vệ bằng các thiết chế dân chủ chung đại diện cho
chủ quyền chính đáng của các quốc gia. Cách thức này đòi hỏi phải có sự
thay đổi quan niệm của cá nhân bằng cách ngăn chặn và hóa giải những
nguyên nhân gây ra sự thù địch giữa họ với nhau và như vậy, cần phải
thay đổi một cách cấp tiến bối cảnh chính trị mà ở đó các cuộc xung đột
đã xảy ra theo cách truyền thống.
Sự hoang tàn, đau khổ
chất chồng ở châu Âu sau thảm họa phát-xít cũng đã nuôi dưỡng những tiền
đề cần thiết cho chủ nghĩa liên bang đơm hoa kết trái. Truyền thống
"Phục hưng" và "Khai sáng" của châu Âu cùng những khát vọng nhân văn đã
được tích lũy qua nhiều thế kỷ vốn tiềm ẩn trong vô thức tập thể châu
Âu, nay có dịp tỉnh thức như "hoa cúc vàng nở rộ vào mùa thu". Các công
dân và các dân tộc cho dù trước đây đã từng có lúc đối đầu trên hai bờ
chiến tuyến, đã từng bước rũ bỏ những định kiến, mặc cảm và rộng lòng
khoan dung để dễ dàng tiếp nhận thiện chí hòa hợp và hợp tác dài lâu.
Nhờ sự đoàn kết, kiên trì và quyết tâm hành động của các chính phủ và
các dân tộc mà EU đã từng bước trưởng thành, hoàn thiện và có diện mạo
như ngày nay. Với việc thực hiện Hiệp ước Li-xbon (tháng 12-2009), EU sẽ
có thể giải quyết các vấn đề lớn trên thế giới hiệu quả hơn, có trách
nhiệm hơn và với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, dân chủ hơn. Hiệp ước Li-xbon là
một phương tiện, không phải là mục đích, vì nó mang lại cho EU những
công cụ để giải quyết những mối quan tâm của người dân EU trong thế kỷ
XXI. Cho dù chưa có Hiến pháp châu Âu như mong đợi, nhưng Hiệp ước này
cũng đã là một thành công lớn trên con đường thể chế hóa EU, hình thành
một dạng thức "nhà nước liên bang pháp quyền khu vực". EU đã có Chủ tịch
với nhiệm kỳ 2 năm và một chức danh phụ trách đối ngoại chung mà có thể
xem như là bộ trưởng ngoại giao.
Sự phát triển của EU với
tầm vóc như hiện nay mặc dù chưa có thể đáp ứng đầy đủ được nhu cầu của
các thành viên, nhưng cũng đã tạo dựng được khung pháp quyền khu vực
quan trọng làm cơ sở cho các bước tiến tiếp trong tương lai. Các chuẩn
mực pháp lý khu vực vừa là định hướng cho an ninh và phát triển chung,
vừa là tiêu chí để giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn có thể nảy sinh.
Là một thành viên của EU, về một phương diện, mỗi quốc gia có thể phải
chấp nhận một sự ràng buộc nghĩa vụ "hạn chế chủ quyền", chẳng hạn như
khi phải "mở cửa biên giới", nhưng về một phương diện khác, họ lại có
không gian pháp lý hoạt động rộng hơn "không gian biên giới". Các công
dân và các công ty có thể dễ dàng hoạt động ngoài biên giới quốc gia,
trong lãnh địa EU rộng lớn hơn nhiều lần.
Vượt qua tự do kinh tế thuần túy để vươn tới một trình độ mới về tự do trong một không gian mới
Hiệp ước
Li-xbon là một phương tiện, không phải là mục đích, vì nó mang lại cho
EU những công cụ để giải quyết những mối quan tâm của người dân EU trong
thế kỷ XXI. Cho dù chưa có Hiến pháp châu Âu như mong đợi, nhưng Hiệp
ước Li-xbon cũng đã là một thành công lớn trên con đường thể chế hóa EU,
hình thành một dạng thức "nhà nước liên bang pháp quyền khu vực".
|
Nếu chỉ dừng lại ở mục tiêu kinh tế thì EU cũng chỉ là
một thị trường chung và
vấn đề "hòa bình vĩnh viễn" cho khu vực vẫn còn bỏ ngỏ. Kinh tế là nền
tảng quan trọng của đời sống xã hội, nhưng không phải là mục đích tự
thân mà chỉ là phương tiện phục vụ cho mục tiêu phát triển toàn diện cá
nhân với tư cách là một chủ thể xã hội hoàn chỉnh. Tuyệt đối hóa "cái
kinh tế", làm kinh tế bằng mọi giá thì sớm hay muộn sẽ dẫn tới sự băng
hoại xã hội, làm đảo lộn hệ giá trị đạo đức và tàn phá môi trường sinh
thái. Khi bàn về chính trị, A-ri-xtốt cho rằng, về bản chất, con người
là "động vật chính trị", vì vậy khao khát quyền lực chính trị cũng là
một "động cơ bản năng" của cá nhân. Nhưng nếu "quyền lực chính trị" bị
tập trung tuyệt đối vào trong tay một cá nhân hay một nhóm cá nhân nào
tới mức vượt ra khỏi vòng kiểm soát của xã hội thì hậu quả cũng khôn
lường. Hai cuộc chiến tranh thế giới trong nửa đầu thế kỷ XX đã minh
chứng cho châu Âu và nhân loại điều đó. Thảm kịch ở châu Âu đã cảnh tỉnh
các thế hệ sau về con đường nào nên đi và cần phải đi trong tương lai.
Chính vì vậy mà quá trình liên kết châu Âu là một quá trình hội nhập
toàn diện hướng tới hòa bình và phát triển bền vững.
Theo Thủ tướng CHLB Đức
A. Méc-ken (Angela Merkel), sự khoan dung và cởi mở chính là phẩm chất
cơ bản đã giúp các dân tộc châu Âu vượt qua được sự thù địch kéo dài
nhiều thế kỷ để đến với nhau, hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau xây dựng một
châu Âu thống nhất. Và theo bà, điều quan trọng nữa là, những nhà sáng
lập ra EU đã có tầm nhìn vượt thế hệ, vượt thời gian, vượt qua tự do
kinh tế thuần túy. Chính vì vậy, các bước đi cụ thể trong quá trình liên
kết châu Âu mà cụ thể là từ ECSC tới EU (Li-xbon 2009) không chỉ đơn
thuần phản ánh lô-gic chuyển hóa từ kinh tế tới chính trị. Trong mối
quan hệ tương tác với kinh tế, tính độc lập tương đối và vai trò định
hướng phát triển của chính trị và những giá trị văn hóa có ý nghĩa rất
lớn. Theo E. Pi-xa-ni (Edgar Pisani), "phát triển là một quá trình văn
hóa và chính trị trước khi là một quá trình kinh tế và công nghệ"(1).
Tầm nhìn về tự do không chỉ định hướng tạo dựng không gian chung cho hợp
tác phát triển kinh tế của EU với đỉnh cao là liên minh tiền tệ (sự ra
đời của đồng tiền chung ơ-rô), mà còn giúp kiến tạo một cấu trúc chính
trị - xã hội mới với các yếu tố cấu thành như thể chế liên minh, hiến
pháp chung và xã hội dân sự phù hợp với nhu cầu phát triển mới của mỗi
quốc gia và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển năng lực sáng
tạo của từng cá nhân trong tương lai.
Nhờ quá trình hội nhập
toàn diện mà EU, khác với Mỹ, đã trở thành một siêu cường "thầm lặng" có
khả năng triển khai sức mạnh dân sự trên toàn cầu bao gồm cả ảnh hưởng
kinh tế, luật quốc tế, "sức mạnh mềm" (khả năng lôi cuốn đối tác tư duy
theo lô-gíc của mình) và "sức mạnh thông minh" (kết hợp ảnh hưởng quân sự với các hình thức ảnh hưởng dân sự).
|
Điều khoản cuối cùng thứ
ba là xây dựng một bộ luật toàn thế giới phù hợp với "Liên hiệp hòa
bình" mà trong đó thừa nhận "quyền của một người dân nước ngoài không bị
đối xử một cách thù địch khi đặt chân lên một lãnh thổ khác" và điều đó
"không vượt ra ngoài những điều kiện cho phép người nước ngoài đó thiết
lập quan hệ (thương mại) với dân bản địa"(5). Ba điều khoản này với mức
độ khác nhau đã được hiện thực hóa trong quá trình hội nhập ở quê hương
châu Âu của I.Can-tơ. Các thành viên của EU27 cùng chia sẻ không chỉ
những lợi ích chung mà cả những giá trị chung, thể chế chung cùng những
chuẩn mực pháp luật chung về cả chính trị - an ninh, kinh tế và xã hội.
Liên minh này được hình thành, củng cố và mở rộng thông qua tương tác
giữa kinh tế với các thể chế mà chúng cần phải được xây dựng trong cấu
trúc mới của châu Âu trên bình diện rộng. Phương pháp "Cộng đồng Than
thép châu Âu" nhằm tạo dựng tình đoàn kết lớn nhất giữa các dân tộc vốn
từng là địch thủ của nhau qua nhiều thế kỷ đã được áp dụng theo một cách
thích hợp sao cho các dân tộc khác có thể từng bước hòa giải và tham
gia các thiết chế và luật lệ chung - khung pháp lý của tự do và "hòa
bình vĩnh viễn".
Cùng với quá trình xây
dựng kiến trúc thượng tầng, một xã hội dân sự chung của EU cũng đã được
tạo dựng dần dần. Xã hội này tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng
quyền lựa chọn cuộc sống tự do và việc làm cho các công dân. Từ "công
dân quốc gia" trở thành "công dân EU" là một sự thay đổi quan trọng. Đối
với các quốc gia tham gia Hiệp định Schengen, các công dân có "sân
chơi" rộng lớn và phong phú hơn nhiều không gian quốc gia riêng lẻ và
cũng sẽ có nhiều cơ hội hơn trong tìm kiếm việc làm, học tập, giải trí
và phát triển toàn diện. Nhờ quá trình hội nhập toàn diện mà EU, khác
với Mỹ, đã trở thành một siêu cường "thầm lặng" có khả năng triển khai
sức mạnh dân sự trên toàn cầu bao gồm cả ảnh hưởng kinh tế, luật quốc
tế, "sức mạnh mềm" (khả năng lôi cuốn đối tác tư duy theo lô-gic của
mình) và "sức mạnh thông minh" (kết hợp ảnh hưởng quân sự với các hình
thức ảnh hưởng dân sự). Trong cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế thế
giới vừa qua, chủ nghĩa tự do cũ và mới lại thêm một lần nữa bộc lộ rõ
ràng hơn sự bất cập. Phát biểu tại "Diễn đàn Kinh tế thế giới" ở Đa-vốt
(Thụy Sĩ) vào cuối tháng 1-2009, Thủ tướng CHLB Đức A. Méc-ken cho rằng,
mô hình kinh tế thị trường - xã hội là mô hình tốt cho tương lai vì nó
tuân theo nguyên tắc: nhà nước là "người canh gác" trật tự kinh tế và xã
hội. Cạnh tranh là vấn đề sống còn, nhưng cạnh tranh cần phải được điều
tiết và gắn với trách nhiệm xã hội. Tự do cá nhân là rất cần thiết cho
sự phát triển của các lực lượng thị trường, nhưng nó cũng cần phải bị
kiềm tỏa một khi nó bắt đầu xâm phạm tới tự do của người khác. Nước Nga
cũng đang đi theo mô hình kinh tế thị trường - xã hội và ngay cả nước Mỹ
sau cơn bão khủng hoảng tài chính vừa rồi cũng đã phải có những điều
chỉnh lớn về chính sách theo hướng phát triển bền vững, trong đó có việc
thông qua đạo luật mới về bảo hiểm y tế và các biện pháp mới nhằm kiểm
soát tốt hơn các hoạt động vốn rất phức tạp của hệ thống ngân hàng.
Mặc dù còn không ít
những vấn đề và thách thức trong đó có mâu thuẫn EU - Mỹ, EU - Nga,
nhưng sự ra đời, phát triển và mở rộng của EU cùng những đóng góp của
Liên minh này cho hòa bình và phát triển bền vững ở khu vực và trên thế
giới từ sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay đã và đang
khẳng định sức sống, tính khả thi, tính phổ quát và triển vọng không
thể phủ nhận của dự án về một nền "Hòa bình vĩnh viễn" do I.Can-tơ khởi
xướng. Trong môi trường chiến lược của thế kỷ XXI, khi tất cả các dân
tộc trên trái đất đang phải đối mặt với những thách thức an ninh phi
truyền thống với những nguy cơ hủy diệt khôn lường, thậm chí có thể đặt
ra cả vấn đề "tồn tại hay không tồn tại" cho cả nhân loại, thì dự án đó
của I.Can-tơ càng có ý nghĩa thực tiễn cấp bách đối với tất cả các bình
diện khu vực, liên khu vực và toàn cầu./.
__________________________________________________
(1) Dẫn theo Richard Bergeron: Phản phát triển, cái giá của chủ nghĩa tự do, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 10
(2) Xem: Michael Burgess: Federalism and European Union: The building of Europe, 1950 - 2000, Routledge, 2000, pp 35-38
(3) Xem: Paul R. Viotti-Mark V.Kauppi, Lý luận quan hệ quốc tế, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội 2001,
tr 381 - 388
(4) Sđd, tr 382 - 383
(5) Sđd, tr 383
TS.Nguyễn Đình Luân
TCCS.Số 20 (212) năm 2010