Bài viết của TS. Mark J. Valencia (Mỹ)
phân tích những chuỗi sự kiện gần đây trên Biển Đông, đánh giá
những vấn đề cơ bản mà các tranh chấp đang đặt ra, dự báo tình hình
sắp tới và đề ra các kiến nghị, trong đó nêu rõ cần sớm có
thỏa hiệp mạnh mẽ để ngăn ngừa các tình huống xấu nhất có thể xảy
ra.[1]
Giới thiệu
Vào tháng 11 năm 2009, tôi đã trình bày một tham luận tại Hội thảo Quốc tế về Biển Đông tại Hà Nội, có thể được kết luận như sau[2]:
Có
thể tiến hành một vài bước đi cụ thể. Các quốc gia yêu sách có thể thực
hiện một hệ thống cảnh báo sớm “dựa trên các cơ chế hiện hành để ngăn
ngừa các mâu thuẫn xuất hiện/leo thang” như họ đã thống nhất trong “kế
hoạch hòa bình” vào tháng Ba năm 2009.[3]
Các quốc gia này có thể chính thức hóa bộ quy tắc ứng xử (được xây dựng
dựa trên Tuyên bố ứng xử của các bên ở biển Đông năm 2002) đối với biển
Đông và tuân thủ theo Bộ quy tắc này. Họ cũng có thể từ bỏ những yêu
sách về các đường cơ sở và các vùng biển chỉ mang tính dân tộc chủ nghĩa
mà không được hỗ trợ bằng các cơ sở pháp lý. Họ cũng có thể xây dựng
một mạng lưới các thỏa thuận hợp tác chức năng trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an ninh hàng hải và tìm kiếm và
cứu nạn. Những thỏa thuận này sẽ không đe dọa đến lập trường hiện tại
của họ và các thỏa thuận đều có thể bao gồm một điều khoản khẳng định
rằng các thỏa thuận này sẽ không ảnh hường gì đến các yêu sách về chủ
quyền và quyền tài phán. Còn một giải pháp tổng thể cho các tranh chấp ở
biển Đông thì nếu như có thật sự đạt được, sẽ phải mất một thời gian
rất dài. Tuy nhiên một sự lựa chọn thay thế – giống như một vết nhọt
mưng mủ đã lên vảy có thể bị các bên chọc vào mỗi khi các mối quan hệ
xấu đi hay mỗi khi các thế lực ngoài khu vực mong muốn – là một nỗi ác
mộng mà không một quốc gia nào trong khu vực muốn lặp lại. Tuy nhiên,
cánh cửa cho cơ hội (đối với một giải pháp tạm thời) đang dần khép lại.
Đáng
tiếc thay, cho đến nay các tranh chấp không có nhiều tiến triển lạc
quan. Thay vào đó, trong hai năm vừa qua đã có hàng loạt các sự kiện mới
liên quan đến biển Đông có hệ lụy quan trọng đối với an ninh khu vực.
Các vấn đề này bao gồm sự kiện tàu Impeccable, lệnh cấm đánh bắt cá đơn
phương của Trung Quốc ở Vịnh Bắc Bộ và việc quốc gia này bắt giữ hàng
loạt tàu thuyền đánh cá của Việt Nam,[4] tuyên bố của Trung Quốc rằng biển Đông là “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc,[5]
việc đệ trình yêu sách chung của Việt Nam/Malaysia về phần mở rộng của
thềm lục địa và phản đối sau đó của Trung Quốc, tuyên bố của Mỹ rằng Mỹ
có “lợi ích quốc gia” đối với kết quả của các tranh chấp, lời đề nghị
của Mỹ làm trung gian hòa giải cho các tranh chấp và sự phản đối mạnh mẽ
của Trung Quốc, và tuyên bố “mềm mỏng hơn” giữa Mỹ - ASEAN về vấn đề
biển Đông. Những diễn biến này đã xảy ra trong bối cảnh mối quan hệ giữa
Mỹ và Trung Quốc đang xấu đi, giữa những tranh luận trong khu vực về
bản chất và mong muốn của các quốc gia về vai trò an ninh của Mỹ trong
khu vực. Hơn nữa, các sự kiện này đã cộng hưởng với nhau và càng gia
tăng ảnh hưởng, đặt ra câu hỏi cơ bản cho Đông Nam Á về an ninh của khu
vực này. Bài viết này phân tích chuỗi sự kiện này và bản chất đang được
củng cố của chúng, xác định những vấn đề cơ bản mà chúng đặt ra và kết
luận rằng cần phải có một thỏa hiệp mạnh mẽ để ngăn ngừa tình huống xấu
nhất.
Những diễn biến gần đây
Tuyên
bố của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tại Diễn đàn khu vực ASEAN vào
tháng 7/2010 ở Hà Nội, trong đó bao gồm cả lời đề nghị của Mỹ làm trung
gian hòa giải cho các tranh chấp biển Đông, không chỉ khơi mào cho các
phản ứng tức giận của Trung Quốc đối với điều mà Trung Quốc xem là can
thiệp công việc nội bộ của nước này,[6] mà còn cả một làn sóng các bài báo về “mối đe dọa” Trung Quốc ngập tràn trên các báo chí phương Tây.[7]
Mỹ đã khôn khéo kết hợp những lo ngại của một số quốc gia ASEAN trước
sự hiếu chiến của Trung Quốc trong các yêu sách đối với các đảo và vùng
biển ở biển Đông với nỗi lo của chính họ về tự do hàng hải. Nhưng như Mỹ
đã biết hoặc nên biết, việc Trung Quốc phản đối một số hoạt động thu
thập tin tức tình báo của quân đội Mỹ ở vùng đặc quyền kinh tế của Trung
Quốc mà chẳng mấy hoặc không hề liên quan gì đến các yêu sách của nuớc
này ở khu vực biển Đông. Quả thật, Trung Quốc không phản đối bản thân
quyền tự do hàng hải mà phản đối cái mà, theo quan điểm của Trung Quốc,
là sự lạm dụng của Mỹ đối với quyền này. Các hoạt động của tàu EP3,
Bowditch và Impeccable của Mỹ bao gồm tổng thể các hành động như chủ
động khiêu khích lực lượng bảo vệ bờ biển của Trung Quốc để kích động và
quan sát phản ứng của Trung Quốc, làm nhiễu sóng liên lạc giữa bờ với
tàu và tàu ngầm, ‘chuẩn bị chiến trường’ sử dụng các lập luận pháp lý để
lẩn tránh quy chế xin phép Trung Quốc để tiến hành nghiên cứu khoa học
biển và lần tìm các tàu ngầm hạt nhân mới của Trung Quốc để nhắm làm mục
tiêu khi các tàu này vào và rời khỏi căn cứ. Rất ít nước sẽ có thể chịu
được các hành động khiêu khích đến mức này từ kẻ thù tiềm năng mà không
phản ứng lại theo một cách nào đó. Nếu có thật, các hành động này không
phải là các hành động thu thập thông tin tình báo một cách bị động
thường được hầu hết các quốc gia thực hiện và chấp nhận mà là các hành
động xâm lấn và các thông lệ đầy tranh cãi mà Trung Quốc xem như là sự
đe dọa sử dụng vũ lực. Việc đe dọa sử dụng vũ lực là hành vi vi phạm
Hiến chương Liên Hợp Quốc chứ chưa nói đến Công ước luật biển 1982. Các
hoạt động này phải được xem xét một cách kỹ lưỡng và phán xét bởi một cơ
quan trung lập để xác định xem chúng có hợp pháp hay không. Nhưng một
yêu cầu xem xét như thế sẽ có nguy cơ làm cho tuyên bố của Ngoại trưởng
Clinton về việc Mỹ “phản đối sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực”
trở nên hơi đạo đức giả.
Nhận
thức được mối quan ngại của các quốc gia yêu sách trong ASEAN và với
mong muốn bắt Trung Quốc phải trả giá vì đã không hợp tác trong việc
trừng phạt Bắc Triều Tiên sau khi đánh chìm tàu Cheonan, và vẫn còn cảm
thấy nhức nhối sau sự kiện tàu Impeccable, Mỹ đã dùng những lời lẽ của
mình phủ đầu và làm xấu mặt Trung Quốc ngay truớc mặt một quốc gia châu Á
khác đôi khi để trả đũa là Việt Nam. Vấn đề còn tồi tệ hơn với Trung
Quốc khi lời kêu gọi của Mỹ tiến hành các vòng đàm phán đa phương đã
được một số nước ASEAN ủng hộ một cách công khai, bất chấp việc Trung
Quốc đã đề nghị riêng với các nước này không đề cập đến chủ đề này và cố
gắng không đưa ra một quan điểm chung.[8]
Hiện nay Trung Quốc tin rằng Mỹ đã thay đổi một cách cơ bản chính sách
của nuớc này đối với các tranh chấp ở biển Đông và rằng Mỹ đang đứng về
phe chống Trung Quốc. Câu nói quan trọng nhất trong bài phát biểu của
Clinton là “các yêu sách hợp pháp ở biển Đông cần phải được đưa ra dựa
trên duy nhất các yêu sách hợp pháp đối với các vùng lãnh thổ đất liền.” [9]
Nhưng
nếu các quốc gia yêu sách ASEAN– Brunei, Malaysia, Philipin và Việt Nam
– cho rằng những tuyên bố như thế của Mỹ là đang ủng hộ cho các yêu
sách của mình thì họ sẽ cần phải nghĩ lại. Ngoại trưởng Clinton cũng
phát biểu rằng “Mỹ có lợi ích quốc gia đối với quyền tự do hàng hải,
tiếp cận tự do đối với vùng nước chung của châu Á và coi trọng luật quốc
tế ở biển Đông.”[10]
Những yêu sách của Philipin đòi một loạt các đảo và vùng biển như
Kalayaan, và yêu sách của Malaysia đối với nhiều đảo khác bởi vì các đảo
này tình cờ nằm trong thềm lục địa mà họ đã yêu sách cũng sai và yếu
như yêu sách của Trung Quốc về đường lưỡi bò lịch sử. Hơn nữa, dù trái
với quy định của Công ước mà họ đã phê chuẩn, Việt Nam và Indonesia, hai
nước đã đưa ra phản đối chính thức đối với những yêu sách của Trung
Quốc lên Ủy ban Liên Hợp Quốc có liên quan, không cho phép quyền qua lại
vô hại đối với các tàu chiến nước ngoài trong các vùng lãnh hải mà
không có sự đồng ý của họ, trong khi Malaysia lại không cho phép quân
đội nước ngoài hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Các nước
yêu sách ASEAN cần phải giải quyết các mâu thuẫn về yêu sách lãnh thổ
và quyền tài phán với nhau cũng như so với luật quốc tế.
Bất
chấp sự kiêu ngạo của Mỹ khi đưa ra đề nghị “thúc đẩy” các cuộc gặp đa
phương về các tranh chấp ở biển Đông, điều đã làm cho Trung Quốc hết sức
tức giận, rõ ràng Trung Quốc là kẻ thù lớn nhất của chính mình trong
vấn đề này. Trung Quốc đã từ chối đưa ra yêu sách chung với Malaysia và
Việt Nam về thềm lục địa mở rộng ở biển Đông. Trung Quốc cũng sau đó đưa
ra phản đối với yêu cầu của hai nước này đòi Trung Quốc phải kèm bản đồ
cùng với yêu sách về đường lưỡi bò 9 đoạn đứt khúc tuyên bố chủ quyền
mơ hồ đối với hầu hết biển Đông. Trung Quốc công khai xếp vấn đề biển
Đông vào nhóm các vấn đề “lợi ích cốt lõi”[11]
cùng với các vấn đề Tây Tạng và Đài Loan, nghĩa là vấn đề mà Trung Quốc
sẵn sàng đấu tranh để giành lấy và cho phép người phát ngôn Bộ Quốc
phòng Geng Yamshen phát biểu rằng “Trung Quốc có chủ quyền không thể
tranh cãi đối với Nam Hải (biển Đông – nd) và Trung Quốc có đủ bằng
chứng về lịch sử và pháp lý” để ủng hộ cho các yêu sách của mình. Các
hành động này cùng với chủ nghĩa dân tộc ngày càng cao của Trung Quốc và
các hoạt động quân sự rộng lớn kèm theo trong khu vực đã tạo ra cho Mỹ
một cơ hội ngoại giao và đã đẩy các nước ASEAN vào cùng một góc với Mỹ.
Nhưng
hiện vẫn chưa rõ yêu sách của Trung Quốc là nhắm đến các đảo (và các
lãnh hải của chúng) hay là cả vùng biển. Để xoa dịu sự lo lắng của
ASEAN, Trung Quốc cần ngay lập tức làm rõ các yêu sách của mình chính
xác là gì và cơ sở của chúng trong khuôn khổ của Công ước luật biển
1982. Trung Quốc cũng cần làm rõ hơn các phản đối của mình đối với các
hoạt động thu thập thông tin tình báo của Mỹ ở vùng đặc quyền kinh tế
của họ bằng các “thuật ngữ pháp lý” đương đại có thể hiểu được. Và để
đối phó với những lợi thế về mặt ngoại giao mà Mỹ đang hưởng, Trung Quốc
cần thống nhất với ASEAN về một bộ Quy tắc ứng xử chính thức ở biển
Đông. Nếu điều này thành công thì biện pháp của Mỹ có thể đã giúp kìm
nén bớt các tranh chấp yêu sách ở biển Đông.
Nhưng
cái giá phải trả có thể sẽ cao. Trung Quốc khó có thể quên và tha thứ
việc này và đặc biệt là cách thức can thiệp của Mỹ. Nếu có, việc này đã
thuyết phục được Trung Quốc rằng ván bài đã bắt đầu. Việc này có thể
khẳng định nỗi sợ lớn nhất của Trung Quốc rằng Mỹ đang lén lút cố gắng
lôi kéo ASEAN hoặc một vài quốc gia thành viên của Hiệp hội này cùng với
Australia, Nhật Bản và Hàn Quốc để hình thành nên một liên minh mềm để
hạn chế, nếu không nói là kiềm chế Trung Quốc. Và Trung Quốc sẽ đấu
tranh để phá vòng vây bằng biện pháp chính trị và quân sự, mở màn cho sự
thù địch và căng thẳng trong nhiều năm tới.
Ý đồ và các chiến lược
Trung Quốc
Câu
hỏi cốt lõi là ý đồ của Trung Quốc đối với biển Đông là gì? Tất nhiên
Trung Quốc vẫn khẳng định rằng Trung Quốc chỉ đơn thuần đang bảo vệ an
ninh và chủ quyền của mình[12] và ngăn chặn cái mà nước này xem là “sự kiềm chế.”[13]
Có phải Trung Quốc có ý định khôi phục lại vị thế bá chủ lịch sử đối
với biển Đông và từ đó là cả Đông Nam Á không? Hay Trung Quốc chỉ quan
tâm đến việc kiểm soát các nguồn tài nguyên – dầu, cá, các đường biển
(mặc dù một số cho rằng phỏng đoán sau là bất hợp lý).[14]
Liệu ý định của Trung Quốc có phải là biến biển Đông thành nơi trú ẩn
của các tàu ngầm chở vũ khí hạt nhân của mình để chuẩn bị cho một cuộc
tấn công vào Ấn Độ[15] hay để ngăn chặn các khả năng can thiệp của quân đội Mỹ nếu xảy ra xung đột về Đài Loan? [16]
Song
song với sự cạnh tranh ngày càng tăng giữa quân đội Mỹ và Trung Quốc là
sự cạnh tranh về chính trị để giành được “sự tin yêu” của các quốc gia
Đông Nam Á. Tờ Thời báo toàn cầu, tờ báo thường xuyên
phản ánh quan điểm của chính phủ Trung Quốc, đã cảnh báo rằng “ổn định
khu vực sẽ khó có thể được bảo đảm” nếu các quốc gia Đông Nam Á “tự cho
phép mình bị kiểm soát” bởi Mỹ.[17]
Trung Quốc đã dành được một số thành công nhất định trong việc chia rẽ
các đồng minh của Mỹ và các nước Đông Nam Á. Australia có vẻ như nghiêng
về cách giải quyết song phương của Trung Quốc hơn trong việc giải quyết
các tranh chấp ở biển Đông.[18]
Các quốc gia không có yêu sách như Singapore hay Thái Lan, và một
Philipin nước đôi dường như thích những dàn xếp hiện có hơn là việc đa
phương hóa chương trình nghị sự của hội nghị thượng đỉnh ASEAN. [19]
Nhưng
Trung Quốc cũng đã góp phần tự làm xấu hình ảnh cùa mình bằng việc sa
đà vào việc bắt nạt các nước khác và với chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ của
mình đã làm cho các nước Đông Nam Á cũng như Hàn Quốc và Nhật Bản[20] e ngại đến mức phải tham gia vào các mối quan hệ an ninh với Mỹ.[21]
Quả thật, Trung Quốc đang ngày càng chứng tỏ mình là nước rất “khó
chơi” và có vẻ như các chuyên gia phương Tây lẫn Đông Nam Á đều nhất
trí rằng nước này xứng đáng được nhận một “sự trừng phạt” nào đó.
Mỹ
Như
Đô đốc Mike Mullen, Chủ tịch Hội đồng Tham Mưu trưởng Liên quân Mỹ đã
nói, quân đội Mỹ cho rằng quân đội Trung Quốc đang trải qua một “sự
chuyển biến chiến lược, khi mà họ chuyển từ việc tập trung vào các lực
lượng trên bộ sang các lực lượng hải quân, hàng hải, và không quân.”[22]
Cụ thể hơn, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates cho rằng việc Trung
Quốc đầu tư vào các vũ khí chống tàu và tên lửa đạn đạo có thể đe dọa
đến cách thức chủ yếu mà Mỹ tiến hành để thể hiện sức mạnh và giúp đỡ
các đồng minh ở Thái Bình Dương. Dù là với bất cứ lý do gì, Mỹ tin rằng
quân đội Trung Quốc gần đây đã trở nên quyết đoán hơn ở châu Á, đặc biệt
là ở biển Đông và rằng “sự quả quyết này đã gây ra lo ngại đối với các
nước láng giềng của Trung Quốc trong khu vực…” [23]
Các
mối ưu tiên về an ninh biển của Mỹ ở Đông Á được cho là rõ ràng hơn của
Trung Quốc. Đầu tiên, theo bài phát biểu của Ngoại trưởng Mỹ Hillary
Clinton tại Hononlulu vào ngày 12 tháng 1 năm 2010 “Mỹ quay trở lại châu
Á…là để ở lại.” Quả thật, Tổng thống Obama cho hay “Mỹ dự định đóng vai
trò lãnh đạo ở châu Á.”[24]
Nhưng rất khó để thăm dò được ý định và động lực thực sự của một nước
Mỹ được cho là khá minh bạch trong việc tái khẳng định mình ở châu Á. Có
lẽ nguyên tắc dao cạo của Occam sẽ được áp dụng ở đây – rằng, cách giải
thích đơn giản nhất là cách giải thích đúng – ý định của Mỹ là đảm bảo
vị trí bá chủ của mình ở châu Á. Điều này có thể bắt nguồn từ một quan
niệm đã có từ lâu đời trong nội bộ nước Mỹ đã được đưa ra công khai và
nổi bật dưới thời chính quyền George W. Bush rằng Mỹ là “quốc gia không
thể thiếu” của thế giới (là vị cứu tinh) và Mỹ không chỉ có quyền và
nghĩa vụ phải can thiệp vào công việc của gần như mọi quốc gia trên trái
đất.[25] Quan điểm này sặc mùi ngạo mạn và đã khiến một số quốc gia Đông Nam Á cảm thấy phải lên tiếng phản đối. [26]
Tất
nhiên Mỹ đã giải thích sự tiếp tục hiện diện của quân đội nước này
trong khu vực là điều cần thiết để đảm bảo hòa bình và ổn định, giúp
ASEAN tự tin và mạnh mẽ hơn trong việc đối trọng với Trung Quốc, kiềm
chế Triều Tiên, ngăn chặn việc Nhật Bản tái vũ trang, ủng hộ nền dân chủ
non trẻ và luật quốc tế, bảo vệ các công ty của Mỹ, ngăn chặn việc buôn
bán vũ khí hủy diệt hàng loạt, đảm bảo an toàn và an ninh và cho các
đường biển v.v. Nhưng chắc chắn Trung Quốc[27]
và một số quốc gia có tư tưởng hiện thực khác lại tin vào cách lý giải
đơn giản hơn. Quả thật, Trung Quốc tin rằng chính quyền Obama đang cố
gắng thúc đẩy sự tự tin của các quốc gia Đông Nam Á để đối phó với Trung
Quốc.[28]
Hơn nữa, Trung Quốc xem việc Mỹ can thiệp vào các tranh chấp biển Đông
như một phần của kế hoạch lớn hơn nhằm tái khẳng định mình ở Đông Nam Á.
Điều này bao gồm cả việc ký kết Hiệp định Bali, mở phái đoàn và cử một
đại sứ đến ASEAN, tổ chức hội nghị cấp cao Mỹ - ASEAN và tăng cường hợp
tác quân sự song phương với một số nước cụ thể.
Hải
quân Mỹ hiện đang có lợi thế rõ ràng so với các lực lượng hải quân
Trung Quốc và lợi thế này có thể sẽ còn kéo dài trong một thời gian dài
sắp tới.[29]
Tuy nhiên không thể phủ nhận các mối lo ngại về những mối đe dọa của
Trung Quốc với các hoạt động hải quân của Mỹ ở gần Trung Quốc, gây ra
những nghi ngờ về khả năng bảo vệ Đài Loan của Mỹ. Và Trung Quốc cũng
khó có thể “dựa dẫm” vào Mỹ mãi trong vấn đề bảo vệ an ninh đường biển.
Hơn nữa, chi tiêu quốc phòng của Mỹ cũng được dự đoán sẽ giảm dần sau
hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính và hiện đang có một cuộc tranh
cãi gay gắt trong nội bộ nước Mỹ về quy mô và chi phí của quân đội Mỹ.
Để bù đắp, một số người thậm chí còn dự đoán sẽ có một bước phát triển
do Mỹ khởi xướng về việc thành lập một tổ chức liên châu Á tương tự như
NATO bao gồm hầu hết các quốc gia ở châu Á trừ Trung Quốc, Bắc Triều
Tiên, Myanma, Butan, Iran và Xiri.[30] Trung Quốc và ASEAN đã thống nhất sẽ nâng mối quan hệ của mình lên “tầm chiến lược”[31] Ít nhất hoàn cảnh hiện tại cũng sẽ thúc đẩy Mỹ tìm kiếm “những người bạn” quân sự trong khu vực, như Việt Nam và Ấn Độ.[32]
Nhưng một số nhà phân tích cho rằng trong chính phủ Mỹ tồn tại bất
đồng về việc phải đối phó với Trung Quốc như thế nào với một phe nhấn
mạnh đến các lợi ích về kinh tế và phe an ninh thì nhấn mạnh cách tiếp
cận cứng rắn.[33]
Chính phủ Mỹ rõ ràng đang phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng
nan: làm sao để gây dựng lòng tin với Trung Quốc, trong khi vẫn phải duy
trì sự có mặt của hải quân nước này ở châu Á và trấn an các đối tác
đang lo lắng và cảm thấy bị đe dọa với lập trường quyết đoán hơn của
Trung Quốc. [34]
Các vấn đề cơ bản đối với Đông Nam Á
Tất
cả các sự kiện này đều là biểu hiện trên bề mặt của những thay đổi sâu
xa hơn trong mô hình an ninh ở châu Á. Quả thật, mô hình an ninh Đông Á
hiện đang ở thời khắc quyết định.[35] Đông
Nam Á cần phải xác định vai trò mà các nước này muốn Mỹ nắm giữ: để
kiềm chế Trung Quốc – như cách nói của các nhà lãnh đạo Quân đội Giải
phóng Trung Quốc – hay để đối trọng với nước này – hay kết hợp cả hai?
Các quốc gia Đông Nam Á cần phải cẩn trọng với điều mà họ mong muốn. Các
quốc gia này phải đối mặt với câu hỏi cơ bản nhất “liệu các nước châu Á
có nên duy trì sự đồng lõa của mình trong việc giúp đỡ, hợp pháp hóa và
về cơ bản ủng hộ chế độ bá quyền của Mỹ hay không và nếu có thì đến mức
độ nào và trong thời gian bao lâu?”[36]
Nhưng không có Mỹ liệu các nước ASEAN có thể đoàn kết lại để đối phó
với một Trung Quốc đang lên, không chỉ trong các vấn đề biển Đông, mà có
thể chỉ là một phép thử đối với “sự trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc -
mà còn đối với các vấn đề khác nói chung? Hay liệu chế độ bá quyền và
sự thay đổi bá quyền ở châu Á có thể được đàm phán không?[37]
Hay liệu ASEAN có thực sự không thể hay không muốn thành lập một mặt
trận thống nhất có thể tác động đến kết quả của cuộc đấu tranh giữa
Trung Quốc và Mỹ?[38]
Tệ hơn nữa, liệu lập trường đoàn kết nửa vời của ASEAN tại Diễn dàn khu
vực ARF tại Hà Nội 2010 ủng hộ lời kêu gọi của Mỹ về việc đàm phán đa
phương với Trung Quốc chỉ thúc đẩy Trung Quốc tiến xa hơn tới bá quyền ở
Đông Nam Á?
Như Tổng thư ký ASEAN, Surin Pitswaran đã nói, “Sự kình địch giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ lộ ra trong ASEAN.”[39] Tất nhiên “không ai trong Đông Nam Á muốn phải chọn lựa giữa Mỹ hay Trung Quốc.”[40] Nhưng đó không phải là những gì đang xảy ra trên thực tế. Việt Nam đang dẫn dắt và thúc đẩy ASEAN về vấn đề biển Đông[41]
đồng thời cũng đang tiến lại gần hơn với Mỹ. Nước này dường như đang
muốn đối trọng với Trung Quốc (với sự hỗ trợ của Mỹ) và dường như sẵn
sàng chấp nhận những rủi ro có thể xảy ra trong mối quan hệ với Trung
Quốc. Đây có thể là một “trò chơi” nguy hiểm theo nhiều phương diện.[42]
Nhưng hiện đã có một nước yêu sách biển Đông khác là Philipin dường như
đã phản đối lập trường thống nhất, mong muốn tiến hành đàm phán song
phương với Trung Quốc hơn.[43] Và Campuchia và Lào thường được cho là thân Trung Quốc hơn trong vấn đề này.[44]
Các hướng đi tiếp theo
Một
bài viết về chính sách sẽ không hoàn chỉnh nếu thiếu các đề xuất để
giải quyết – hoặc ít nhất là giảm nhẹ - vấn đề. Tuy nhiên, tôi không có
nhiều vấn đề để nói mà tôi chưa từng đề cập đến trước đây và những điều
mà người khác đã nhắc lại hoặc phân tích. Đáng tiếc thay, dự đoán của
tôi vè một viễn cảnh tồi tệ nhất đã trở thành lời tiên tri. Vẫn chưa
được giải quyết, “các tranh chấp tồn tại như một vết thương đã lên vảy
có thể được chọc vào vì các mục đích chính trị và như một lời mời các
thế lực bên ngoài can thiệp vào.” Hiện tại Mỹ “đã tham gia vào cuộc
tranh chấp này, thay đổi hoàn toàn bản chất của cuộc chơi.” Lời phản
biện chính thức của Indonesia về yêu sách của Trung Quốc khó có thể
thuyết phục được Trung Quốc rằng nước này đang không bị “kéo bè kéo phái
để chống lại” Trung Quốc.
Có
vẻ những tranh chấp này có thể sẽ trở nên tồi tệ hơn trước khi chúng
được cải thiện, và chúng sẽ bị tác động bởi sự canh tranh và căng thẳng
giữa các cường quốc lớn. Có lẽ khi nào các tranh chấp này trở nên nghiêm
trọng đến nỗi cộng đồng quốc tế không thể tiếp tục phớt lờ nữa thì các
tranh chấp này sẽ được giải quyết và một giải pháp hay một giải pháp tạm
thời sẽ được áp đặt từ bên ngoài. Viễn cảnh này có thể được bắt đầu
thực hiện từ bây giờ. Bây giờ không phải là quá muộn để tránh gặp phải
kết cục tồi tệ nhất của viễn cảnh tồi tệ nhất là xung đột. Với hy vọng
đó, tôi xin trình bày một số cách để giảm bớt căng thẳng. Các giải pháp
này không phải là mới nhưng cần phải được cân nhắc lại trong các thời
điểm quan trọng này.
Một
điều kiện cần nhưng chưa đủ để giải quyết được các tranh chấp là các
bên yêu sách, đặc biệt là Trung Quốc phải làm rõ các yêu sách của mình
phù hợp với Công ước luật biển 1982 (UNCLOS). Bằng việc đính kèm bản đồ
vào Công hàm chính thức gửi tới Liên Hợp Quốc phản đối yêu sách của Việt
Nam và Malaysia về thềm lục địa mở rộng, Trung Quốc đã làm cho tình
hình càng thêm rắc rối.[45]
Bản đồ thể hiện đường lưỡi bò mà một số cho rằng chính là yêu sách
chính thức của Trung Quốc đối với các đảo và vùng nước xung quanh. Trung
Quốc có thể đưa ra một yêu sách phù hợp với UNCLOS bằng việc yêu sách
chủ quyền đối với các đảo và vùng lãnh hải rộng 12 hải lý, một vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa từ những đảo rõ ràng có khả năng “cho con
người đến ở hoặc có đời sống kinh tế riêng,” và tái khẳng định sự sẵn
sàng để tham gia vào các hoạt động cùng khai thác mà không ảnh hưởng đến
các quyết định cuối cùng đối với các yêu sách và chủ quyền và biên giới
trên biển. Điều này sẽ làm tăng tính hợp pháp của các yêu sách của
Trung Quốc. Đáng tiếc thay Trung Quốc lại rất không sẵn lòng từ bỏ các
yêu sách về đường lưỡi bò hoặc yêu sách lịch sử mà không có đi có lại.
Vì sao Trung Quốc lại phải làm thế trong khi các yêu sách của Philipin
và Malaysia cũng không phù hợp với luật? Tuy nhiên, hiện nay Malaysia và
Việt Nam có vẻ như đang đề xuất trong yêu sách về thềm lục địa của mình
rằng các đảo không nên được hưởng thềm lục địa hoặc vùng đặc quyền kinh
tế.[46]
Điều này là rất hữu ích. Và tuyên bố bằng văn bản của Trung Quốc đi kèm
với phản đối của quốc gia này với yêu sách của hai nước ở trên có thể
được hiểu là phù hợp với UNCLOS.[47] Có thể các nước này có thể thống nhất với nhau để làm cho các yêu sách của mình phù hợp với UNCLOS.
Nhưng
lựa chọn này vẫn có những hạn chế lớn. UNCLOS không giúp được gì nhiều
trong việc giải quyết các tranh chấp về chủ quyền. Vai trò duy nhất mà
Công ước này có thể được áp dụng là nhờ các quy định về giải quyết tranh
chấp và/hoặc Tòa án quốc tế về luật biển quyết định đảo nào là các đảo
hợp pháp và đảo nào không hợp pháp mà không cần sự chấp thuận của Trung
Quốc, nếu vấn đề này được đưa ra tòa. Vấn đề về chủ quyền và về đảo nào
được hưởng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa không thể được đưa lên
tòa hay tòa trọng tài quốc tế nào. Hơn nữa, Trung Quốc đã sử dụng quyền
của mình theo Điều 298 UNCLOS để loại trừ các thủ tục giải quyết tranh
chấp bắt buộc đối với việc phân định các ranh giới biển. Và các ranh
giới này cũng khó có thể được đàm phán trước khi vấn đề về chủ quyền đối
với các đảo được giải quyết. Còn đối với việc khai thác chung, Trung
Quốc liên tục đưa ra lời đề nghị tương tự miễn là các quốc gia yêu sách
khác thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở khu vực dự định khai thác
chung. Và trong thỏa thuận thăm dò chung duy nhất mà Trung Quốc tham
gia, cùng với Philipin và Việt Nam, Philipin đã cho phép thăm dò chung
đối với các khu vực trong thềm lục địa và trong vùng đặc quyền của kinh
tế của nước này mà Trung Quốc thậm chí còn không đưa ra yêu sách. Quả là
một cách để thoát khỏi tình trạng hỗn độn hiện nay!
Tuy
nhiên, có vẻ như là không phải ai cũng thua trong chò trơi, ít nhất là
giữa Mỹ và Trung Quốc. Một số nhà phân tích cảm thấy rằng vụ tranh cãi
mới nhất “hầu như chẳng là gì cả” so với vụ khủng hoảng ở eo biển Đài
Loan năm 1995, vụ NATO ném bom vào đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrade năm
1999, và sự kiện EP-3 năm 2004.[48] Cả hai quốc gia đã đồng ý nối lại việc trao đổi quân sự và đối thoại[49]
và hai quan chức cấp cao của Mỹ đã đến Trung Quốc vào đầu tháng Chín
nhằm làm dịu các mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc cũng để đảm bảo các
mối quan hệ này “trong tầm kiểm soát.”[50] Quả thật, giả sử như đây là điều mà cả hai bên cùng mong muốn[51] thì trong bốn tháng vừa qua, đã có hàng loạt các cơ hội để cải thiện các mối quan hệ giữa hai nước.[52]
Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã tham dự cuộc họp của Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc ở New York vào cuối tháng Chín và đã có cuộc gặp với Tổng
thống Obama. Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN tại Hà Nội vào tháng
Mười đã tạo điều kiện cho bộ trưởng quốc phòng của Mỹ và Trung Quốc gặp
nhau.[53]
Vào tháng Mười một, Chủ tịch nước Trung Quốc Hồ Cẩm Đào và Tổng thống
Obama đã gặp gỡ tại Hội nghị các nhà lãnh đạo APEC ở Yokohama và tại
cuộc họp G20 ở Hàn Quốc. Trung Quốc đã mời Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ
Robert Gates đến thăm Trung Quốc có lẽ vào đầu năm 2011.[54]
Như vậy những bất đồng gần đây giữa hai nước có thể chỉ là vấn đề nhất
thời phải giải quyết. Có lẽ hai bên cuối cùng sẽ tiến tới một cơ chế
INCSEA hoặc thống nhất về một bản hướng dẫn dành cho các hoạt động quân
sự trong các vùng đặc quyền kinh tế nước ngoài. Một số người còn cho
rằng hai bên có thể đưa ra những mặc cả cơ bản, nếu Mỹ dừng việc buôn
bán vũ khí cho Đài Loan, cụ thể là F 16s, Trung Quốc sẽ hợp tác đối với
các vấn đề kinh tế.[55]
Tuy nhiên một số khác như Cố vấn cao cấp Lý Quang Diệu của Singapore
thì lại dự đoán cuộc chiến giữa Trung Quốc và Mỹ để giành vị trí số một ở
châu Á sẽ còn kéo dài hàng thập kỷ nữa.[56]
Về vấn đề này, các quan chức Mỹ cho rằng việc thách đấu với Trung Quốc
đã làm cho quốc gia này “rõ ràng đã lùi lại một bước để có cách tiếp cận
hợp tác hơn.”[57]
Dù điều này có chính xác hay không, Mỹ và các quốc gia châu Á rõ ràng
đã chỉ ra cho Trung Quốc thấy rằng thái độ của Trung Quốc ở biển Đông sẽ
tác động đến chính sách của các nước này đối với Trung Quốc.
Điều
này đưa chúng ta quay trở về với thực tại, và tương lai. Điều tốt nhất
mà chúng ta có thể mong đợi trong tình hình chính trị hiện nay, bao gồm
cả sức ép của Mỹ và vai trò chủ tịch ASEAN của Indonesia bắt đầu từ đầu
năm 2011, là việc chính thức hóa một quy tắc ứng xử. Tuy nhiên một số ý
kiến cho rằng Trung Quốc đang cố gắng trì hoãn và khó có thể đạt được
một quy tắc chính thức như vậy.[58] Nhưng việc Trung Quốc và ASEAN đã bắt đầu đàm phán để cố gắng đạt được một quy tắc như vậy,[59] tập trung vào các biện pháp trừng phạt và việc không tuân thủ quy tắc, là một dấu hiệu rất thuận lợi.[60]
Các biện pháp trừng phạt là rào cản lớn nhất và cuối cùng có thể sẽ chỉ
dựa chủ yếu vào sự mất mặt đối với công luận. Một bộ quy tắc như thế
chắc chắn sẽ cấm “việc bất kỳ một quốc gia yêu sách nào sử dụng hoặc đe
dọa sử dụng vũ lực để áp đặt các yêu sách gây tranh cãi của mình tại khu
vực biển Đông.”[61]
Nhưng việc giải giáp và giải ngũ quân đội ở quần đảo Trường Sa có thể
lại là chướng ngại vật tiếp theo – ai sẽ là người rút quân đầu tiên?
Tuyên
bố đã phần nào được làm cho mềm mỏng tại Hội nghị thượng đỉnh Mỹ -
ASEAN “tái khẳng định tầm quan trọng của hòa bình và ổn định trong khu
vực, an ninh hàng hải, tự do thương mại, tự do hàng hải, phù hợp với các
nguyên tắc chung của luật quốc tế, bao gồm Công ước Liên Hợp Quốc về
luật biển (UNCLOS) và các luật khác như luật hàng hải, luật về giải
quyết hòa bình các tranh chấp.”[62]
Nhưng Tuyên bố này đã loại trừ (trong Dự thảo của Mỹ) những từ ngữ mà
các nước ASEAN cho rằng có thể làm cho Trung Quốc khó chịu, bao gồm
“phản đối việc sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực,”[63]
cũng như cụm từ “biển Đông.” Các nước đã đi đến sự thỏa hiệp như thế
này để không tạo ra ấn tượng rằng các nước ASEAN đang đi theo Mỹ mà
chống lại Trung Quốc.[64]
Đây là một động thái rất quan trọng. Quan trọng nhất là Trung Quốc đã
tin rằng những lời phát biểu của Clinton ở Hà Nội áp dụng với mọi quốc
gia yêu sách, và rằng tất cả những gì mà Mỹ muốn chỉ là “một môi trường
ổn định và dễ dự đoán hơn.”[65]
Mỹ cần phải thể hiện điều này một cách bình đẳng hơn. Ví dụ như, Mỹ nên
phê chuẩn Công ước luật biển 1982 và tạo áp lực đối với các quốc gia
yêu sách khác, không chỉ với mỗi Trung Quốc, để các quốc gia này tuân
thủ “luật quốc tế” hơn. Và các nước ASEAN thì cần phải cố gắng để giải
quyết các bất đồng của mình đối với vấn đề này. Họ cũng cần chấm dứt
việc âm mưu chống lại Trung Quốc một cách rõ ràng về vấn đề như lâu nay
để tránh khơi mào cho một tình huống xấu nhất. Do nhiều lý do khác nhau,
ASEAN, Trung Quốc và Mỹ đều muốn một tương lai hòa bình cho khu vực
biển Đông. Nhưng để có thể đạt được và duy trì điều này đòi hỏi phải có
sự thiện chí thực sự, sự kiềm chế đáng kể và có lẽ là một sự thỏa hiệp
chính thức hoặc không chính thức lớn, cũng như công tác ngoại giao khôn
khéo và đầy hoài bão.
Mark J. Valencia
Nghiên cứu Cộng sự, Chương trình Nghiên cứu Châu Á , Trung tâm Nghiên cứu châu Á Quốc gia và Trung tâm Woodrow Wilson, Mỹ. Email: mjvalencia@hawaii.rr.com
Nghiên cứu Cộng sự, Chương trình Nghiên cứu Châu Á , Trung tâm Nghiên cứu châu Á Quốc gia và Trung tâm Woodrow Wilson, Mỹ. Email: mjvalencia@hawaii.rr.com
Bản quyền tiếng Việt thuộc NCBĐ
Tải bản PDF tại đây
[1] Bài
viết này được thực hiện dành cho các chuyên gia về biển Đông và xem như
độc giả đã từng biết đến các bài viết trước đây của tác giả cũng như đã
có kiến thức nền và biết đến bối cảnh của các vấn đề được đề cập. Nói
tóm lại, bài viết này “sẽ đi thẳng vào vấn đề.”