TCCSĐT - Theo nhận
định của nhiều chuyên gia phân tích chính trị quốc tế: một trong những
quá trình có ý nghĩa toàn cầu do Oa-sinh-tơn khởi xướng nhằm bảo vệ "các
lợi ích quốc gia", củng cố vị thế vượt trội và tiếp tục phổ biến ảnh
hưởng của Mỹ, mà thực chất là giành giật các khu vực có ý nghĩa chiến
lược trong tương lai dài hạn, đồng thời, đẩy lùi các đối thủ cạnh tranh,
thậm chí, khi cần thiết có thể đẩy lùi cả các đồng minh gần gũi nhất,
đang bước sang một giai đoạn mới quyết liệt. Đây là một trong những yếu
tố có tính quyết định dẫn tới cuộc khủng hoảng chính trị ở Li-bi.
Các cuộc “cách mạng
nhung” tiếp sau cái gọi là “cách mạng hoa nhài” là một phần của một
chiến dịch quy mô lớn đã được lên kế hoạch từ lâu nhằm thay đổi giới cầm
quyền ở nhiều nước Trung Đông và Bắc Phi bằng cách sử dụng công nghệ
mạng trong khuôn khổ một luận thuyết do giới tinh hoa chính trị ở Mỹ
soạn thảo và được gọi là "tạo ra trạng thái rối loạn có điều khiển". Các
sự kiện đã và đang xảy ra ở Tuy-ni-di, Ai-Cập và một số các quốc gia
khác không thể được gọi là cách mạng bởi không những không dẫn tới thay
đổi chế độ cầm quyền mà chỉ là thay đổi những người lãnh đạo cao nhất có
quyền ra quyết định chiến lược ở cấp độ quốc gia nhằm mục đích chủ yếu
là củng cố ảnh hưởng của Mỹ và phương Tây tại một khu vực có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng đối với sự phát triển và thịnh vượng của thế giới trong
thế kỷ XXI.
Vì sao Mỹ và Phương Tây lại chọn Li-bi?
Li-bi được Mỹ đặc biệt
chú ý trong chiến lược toàn cầu của họ ở Trung Đông và Bắc Phi bởi hai
lý do. Một là, Tổng thống Li-bi, ông Ca-đa-phi, là một nhân vật chống Mỹ
và phương Tây từ đầu tới cuối. Hai là, Li-bi là nguồn tài nguyên dầu mỏ
khổng lồ và chất lượng cao. Trong suốt 42 năm cầm quyền, Ca-đa-phi đã
từng chứng tỏ ông là một chính khách có quan điểm thực sự độc lập. Quyết
định đầu tiên của ông sau khi lên nắm quyền là tước bỏ một loạt các cơ
sở chiến lược của Mỹ, trong đó, có căn cứ không quân “Matiga” ở ngoại ô
thủ đô Tri-pô-li. Quá trình quốc hữu hóa công nghiệp dầu mỏ sau đó và
việc tiếp tục thực hiện chính sách đi ngược lại ý đồ của Mỹ đã biến Đại
tá Ca-đa-phi trở thành “kẻ thù không đội trời chung” với Mỹ.
Tháng 4 - 1986, không
tuyên bố, Mỹ bí mật mở cuộc tiến công chớp nhoáng và ồ ạt vào thủ đô
Tri-pô-li của Li-bi cùng nhiều thành phố khác nhằm mục tiêu ám sát cá
nhân Tổng thống Ca-đa-phi. Trong chiến dịch này, hàng trăm dân thường
của Li-bi đã bị thiệt mạng nhưng chỉ bị coi là “những tổn thất đi kèm”
trong chiến tranh. Thuật ngữ kỳ lạ này về sau được Oa-sinh-tơn sử dụng
phổ biến để biện minh cho các hành động của họ giết hại dân thường vô
tội ở nhiều nước khác nhau lấy cớ là “chống khủng bố”.
Sau gần một phần tư thế
kỷ, Mỹ đã tìm ra được sự sơ hở để ra tay đối với Tổng thống Ca-đa-phi.
Oa-sinh-tơn lợi dụng mâu thuẫn cố hữu giữa các cư dân sống ở miền Tây
(bang Tri-pô-li-a với trung tâm là thủ đô Tri-pô-li) với cư dân ở miền
Đông (bang Ki-re-na-it với trung tâm là Ben-ga-di). Nguyên nhân của mâu
thuẫn này là: Ca-đa-phi vốn là người sinh ra ở miền Tây đã từng lật đổ
vua It-rit của Li-bi là người xuất thân từ bang Ben-ga-di. Điều này để
lại dấu ấn không bao giờ quên trong ký ức của các bộ tộc ở miền Đông.
Mâu thuẫn này thể hiện rõ nhất ở sự kiện Tri-pô-li tổ chức kỷ niệm 40
năm ngày cầm quyền của Ca-đa-phi (01-09-2009) với cuộc duyệt binh lớn
chưa từng có trong lịch sử với sự tham gia của khoảng 10.000 quân đến từ
quân đội của gần 50 nước trên thế giới, trong đó có Đại đội danh dự
thuộc Trung đoàn cận vệ của Tổng thống Nga, trong khi đó ở Ben-ga-di ở
miền Đông, người dân Li-bi chỉ tổ chức kỷ niệm ngày này một cách sơ sài,
đơn giản.
Vì sao Mỹ lại quyết định khởi sự vào lúc này?
Trong những năm gần đây,
Li-bi đã từng phát triển quan hệ với cả phương Tây và phương Đông.
Ca-đa-phi đã thiết lập được vị thế của mình như là một nhà hoạt động nổi
tiếng của Liên minh châu Phi và đã từng được nhận biểu tượng không
chính thức là “vua của các vua”.
Để có được vị thế đó, năm
2004, Tổng thống Li-bi Ca-đa-phi đã tuyên bố từ bỏ việc chế tạo vũ khí
sát thương hàng loạt, nhận trách nhiệm về việc tổ chức hàng loạt vụ
khủng bố, trong đó, có vụ khủng bố nổi tiếng trên bầu trời Lốc-cơ-bi.
Ngoài ra, Li-bi còn chi 1,5 tỉ USD vào “Quỹ hỗ trợ các nạn nhân của chủ
nghĩa khủng bố” như là một khoản tiền “bù đắp tội lỗi”. Đáp trả lại hành
động này, Mỹ đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Li-bi và dỡ bỏ lệnh
cấm vận quốc tế đối với Li-bi. Sau thời điểm này bắt đầu diễn ra cuộc
cạnh tranh quyết liệt giữa các hãng dầu mỏ trên thế giới để giành quyền
khoan thăm dò và khai thác dầu mỏ ở Li-bi.
Chỉ một tháng sau khi Mỹ
dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Li-bi, Tri-pô-li đã ký hiệp định với hãng dầu
mỏ “Royal Duthch Shell” của Hà Lan. Năm 2007, trong thời gian Thủ tướng
Anh Tô-ni Ble tới thăm chính thức Tri-pô-li, hai bên đã công bố bản hợp
đồng trị giá gần 1 tỉ USD cho phép hãng dầu mỏ của Anh “BP” được quyền
thăm dò và khai thác trên một khu vực lãnh thổ rộng 54 ngàn km2
tại mỏ dầu “Gadames” trên lục địa và mỏ dầu trên thềm lục địa ở vịnh
Sit-tơ của Li-bi trong thời hạn 7 năm. Sau đó, nhiều hãng dầu mỏ hàng
đầu thế giới đã có mặt ở Li-bi như “Total” (Pháp), “Conoco Phillips”
(Mỹ), “CNPC” (Trung Quốc), “Gazprom” của Nga cùng với hàng chục hãng dầu
mỏ với quy mô nhỏ hơn.
Tháng 4-2008, Tổng thống
Nga V.Pu-tin đến thăm Li-bi. Chuyến thăm này được dư luận Li-bi đánh giá
là một sự kiện “có ý nghĩa lịch sử” bởi Nga đã xóa khoản nợ 4,5 tỉ USD
cho Li-bi để đổi lại việc hai nước ký kết các hợp đồng trị giá nhiều tỉ
USD với các hãng của Nga. Hai bên đã ký 10 văn kiện quan trọng, trong đó
có “Tuyên bố chung về việc củng cố tình hữu nghị và phát triển hợp tác
giữa Nga và Li-bi”, cùng với nhiều hợp đồng lớn khác. Ví dụ, Công ty
"Đường sắt của Nga" xây dựng tuyến đường sắt dài 554 km chạy dọc theo bờ
biển Địa Trung Hải, giữa hai thành phố Si-tơ và Ben-ga-di của Li-bi
trong vòng 4 năm, trị giá 3,5 tỉ USD. Sau đó, một hợp đồng khác đã được
tiếp tục để xây dựng một nhà máy sản xuất vũ khí bộ binh ở Li-bi, trước
hết là sản xuất súng máy AK-100. Nga và Li-bi còn ký kết nhiều hợp đồng
vũ khí quan trọng khác.
Tháng 09-2008, Ngoại
trưởng Mỹ Côn-đô-li-da Rai-xơ đến thăm Tri-pô-li. Đây là chuyến thăm
Li-bi đầu tiên của một quan chức cấp cao trong Chính phủ Mỹ kể từ năm
1957. Trong các cuộc đàm phán, bà Côn-đô-li-da Rai-xơ khẳng định: đã đến
lúc Mỹ cần thiết lập quan hệ hợp tác có tính xây dựng với Li-bi. Còn
các nhà phân tích thì cho rằng chuyến thăm Li-bi lần này của Ngoại
trưởng Mỹ Côn-đô-li-da Rai-xơ nhằm mục tiêu chủ yếu là thăm dò triển
vọng chính trị và khả năng Mỹ có thể tiếp cận dầu mỏ của Li-bi hay
không. Cũng nhân dịp này, Tổng thống Ca-đa-phi nêu vấn đề về việc Mỹ
thành lập Bộ Chỉ huy châu Phi. Ông Ca-đa-phi gọi đó là “biểu hiện của
chủ nghĩa thực dân” và cảnh báo Mỹ không nên hiện diện quân sự ở châu
Phi.
Ngày 31-10-2008, Tổng
thống Ca-đa-phi đến thăm chính thức Nga theo lời mời của Tổng thống Nga
V.Pu-tin. Các cuộc đàm phán diễn ra thắng lợi, trước hết trong lĩnh vực
phát triển hợp tác kỹ thuật - quân sự. Li-bi sẵn sàng xây dựng một căn
cứ bảo đảm vật chất kỹ thuật cho các tàu chiến của Hải quân Nga, tương
tự như căn cứ bảo đảm vật chất kỹ thuật ở cảng Tac-tut của Xi-ri đã được
hoàn thành xây dựng vào năm 1992. Theo nhận xét của phía Li-bi, vũ khí
của Nga và sự hiện diện của hải quân Nga ở Xi-ri sẽ là sự bảo đảm nhằm
ngăn chặn hành động xâm lược có thể có từ phía Mỹ. Trong năm 2008, các
tàu chiến của Hải quân Nga đã hai lần đến thăm các cảng của Li-bi, trong
đó có tàu tuần dương mang tên lửa “Pi-ôt Đại đế”, tàu chở máy bay mang
tên “Đô đốc Chu-ba-nhen-cô” và khu trục hạm “Nheustrasnưi” (“Quả cảm”).
Tháng 01-2009 là thời
điểm có tính bước ngoặt, khi đó, Tổng thống Ca-đa-phi tuyên bố: Li-bi có
thể quốc hữu hóa các hãng dầu mỏ của nước ngoài trong trường hợp giá
dầu mỏ trên thị trường thế giới tăng lên tới 100 USD/thùng. Ông tuyên
bố, với giá dầu này, Li-bi có thể kiểm soát nền công nghiệp dầu mỏ của
mình mà không cần sự tham gia của nước ngoài. Đồng thời, ông còn khẳng
định quốc hữu hóa là quyền chính đáng của Li-bi.
Sau đó, Công ty Dầu mỏ
quốc gia của Li-bi đã xem xét lại điều kiện ký kết các hợp đồng hiện có
với hãng dầu mỏ “Total” của Pháp về việc khai thác mỏ dầu An-duốc với
khối lượng khai thác 45.000 thùng/ngày và mỏ dầu Map-ruc, mà ở đây Li-bi
chỉ nhận được một khoản nhượng quyền một lần trị giá 500 triệu USD.
Phía Li-bi dự định tăng tỷ phần tham gia của Li-bi lên tới 50% ở mỏ dầu
này. Ngoài ra, Tổng thống Ca-đa-phi cho biết sẽ xem xét lại các hợp đồng
với nhiều hãng dầu mỏ nước ngoài khác đang hoạt động tại Li-bi, trong
đó, tỷ phần tham gia của họ trong việc khai thác sẽ phải từng bước giảm
xuống tới mức 10-15%. Vì thế, hãng dầu mỏ “Gazprom” của Nga ngay từ đầu
đã phải chấp nhận tỷ lệ tham gia 10,5%.
Cũng trong thời gian đó,
Li-bi tăng cường hợp tác với Nga theo các hợp đồng chế tạo vũ khí, theo
đó Nga chuyển giao cho Li-bi loại máy bay chiến đấu đa năng Su-35 lần
đầu tiên được xuất khẩu theo một hợp đồng đã được ký kết trị giá 1 tỷ
USD. Nga còn nhận hợp đồng của Li-bi để hiện đại hóa 145 xe tăng T-72M1
và tổ hợp tên lửa phòng không S-125. Tổng trị giá các hợp đồng xuất khẩu
vũ khí của Nga sang Li-bi vào khoảng trên 7 tỷ USD, trong đó có nội
dung chuyển giao cho Li-bi xe tăng T-90, tàu ngầm đề án 636, xuồng cao
tốc mang tên lửa, hệ thống phòng không S-300, máy bay lên thẳng chiến
đấu và vận tải, hệ thống pháo phản lực bắn loạt. Vì thế, máy bay chiến
đấu “Rafael” của Pháp lúc đầu dự kiến sẽ xuất sang Li-bi, đã bị
Tri-pô-li từ chối.
Triển vọng gia tăng đáng
kể giá dầu, việc Li-bi hạn chế quyền hạn của các hãng dầu mỏ nước ngoài
trong việc khai thác các mỏ dầu của Li-bi, cũng như việc Nga ký các hợp
đồng xuất khẩu các loại vũ khí mới nhất sang Li-bi đã trở thành tiếng
chuông báo động đối với phương Tây. Như thể “đổ thêm dầu vào lửa”, mùa
hè năm 2009, Ap-đen Ba-xet An-mec-ra-khi, người duy nhất bị buộc tội về
vụ khủng bố máy bay trên trên bầu trời Lốc-cơ-bi, được trở về Tri-pô-li
trên một chiếc máy bay riêng của Tổng thống Ca-đa-phi và được người dân
Li-bi đón tiếp như một “anh hùng dân tộc”.
Cũng trong năm 2009, Tổng
thống Ca-đa-phi đã được phía I-ta-li-a chính thức xin lỗi về những tội
ác trong quá trình thực dân hóa 30 năm ở Li-bi và được đền bù với số
tiền 5 tỉ USD. Đến thời điểm đó, các hãng phương Tây cũng đã chuyển cho
Li-bi những khoản tiền không nhỏ để nhận được quyền hoạt động trên lãnh
thổ của Li-bi. Cùng lúc đó, xảy ra vụ con trai của Tổng thống Ca-đa-phi
bị bắt giữ ở Thụy Sỹ. Trong vụ này, Li-bi đã rút hơn 25 tỉ USD ra khỏi
các ngân hàng ở Thụy Sỹ, chấm dứt cung cấp dầu mỏ và khí đốt cho quốc
gia này và yếu cầu phía Thụy Sỹ chính thức xin lỗi.
Ngày 14-07-2010, một nhóm
các nghị sĩ Mỹ yêu cầu hãng “BP” của Anh chấm dứt hoạt động khoan thăm
dò trong vùng kinh tế của Li-bi chừng nào hãng này chưa làm rõ vai trò
của họ ra sao trong việc giải phóng Ap-đen Ba-xet An-mec-ra-khi ra khỏi
nhà tù. Áp lực từ phía Mỹ mạnh tới mức, ngày 10-08-2010, hãng “BP” đã
phải tuyên bố ngừng việc thực hiện kế hoạch thăm dò dầu mỏ ở bờ biển
Li-bi.
Tính đến tháng 1-2011,
Li-bi là nước xuất khẩu dầu mỏ quan trọng sang nhiều nước trên thế giới,
trong đó I-ta-li-a nhập khẩu trên 30% dầu mỏ của Li-bi; Đức chiếm
vị trí thứ 2 (13,4%); Pháp và Trung Quốc chiếm vị trí thứ 3 (10%). Còn
13% giành cho các nước châu Âu khác. Mỹ chỉ giành được 6%. Một chi tiết
rất đáng chú ý là trong những năm 1960, Mỹ và Anh chiếm phần lớn thị
phần dầu mỏ của Li-bi. Còn hiện nay, họ đang bị xếp cuối bảng. Vì thế,
nhiều chuyên gia phân tích cho rằng, sở dĩ Mỹ và Anh nóng lòng trong
việc sử dụng giải pháp quân sự là vì họ đang muốn lấy lại vị thế địa -
chính trị hoàng kim mà họ đã mất ở Li-bi./.
Nguồn Hương Ly, TCCS-Số 6 (222) năm 2011