Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2011

34. Hai mươi năm sau chiến tranh Vùng Vịnh

TCCSĐT - Cách đây 20 năm, ngày 17-1-1991, do I-rắc mắc mưu của Oa-sinh-tơn tiến hành xâm lược Cô-oét, Mỹ đã phát động một cuộc chiến tranh lớn đầu tiên sau “chiến tranh lạnh”, gọi là cuộc chiến tranh Vùng Vịnh. Cuộc chiến tranh này có ý nghĩa lịch sử quan trọng vì nó vừa mở đầu kỷ nguyên cạnh tranh và xung đột địa - chính trị sau khi Liên Xô tan rã, vừa khởi phát cuộc “thập tự chinh” của Mỹ trên toàn thế giới, đưa Mỹ tới thất bại và suy giảm sức mạnh quân sự, đồng thời chứng tỏ một chân lý của thời đại là không ai có thể thể sử dụng sức mạnh quân sự, dù lớn đến mấy, để áp đặt “các giá trị” và “dân chủ” cho các dân tộc khác.
Sau cuộc chiến tranh Vùng Vịnh (năm 1991), Mỹ đã phát động nhiều cuộc chiến tranh khác, điển hình là cuộc chiến tranh Cô-xô-vô (năm 1999), chiến tranh Áp-ga-ni-xtan (năm 2001), chiến tranh I-rắc (năm 2003). Tất cả đều có chung một động cơ là tranh giành các lợi ích địa - chính trị trên phạm vi toàn cầu và đều được phát động dưới những nguyên cớ hoàn toàn do Mỹ dàn dựng.
Động cơ tranh giành các lợi ích địa - chính trị
Đầu những năm 1990, sau “chiến tranh lạnh”, sự đối đầu ý thức hệ giữa hai hệ thống chính trị thế giới phải nhường chỗ cho sự cạnh tranh địa - chính trị và kinh tế không kém phần quyết liệt hơn. Đồng thời, sự gia tăng các xu hướng ly tâm trong các nước thuộc liên minh chống lại hòa bình và tiến bộ do Mỹ cầm đầu không thể không làm cho bộ máy cầm quyền ở Oa-sinh-tơn lo ngại, hoặc đã đụng chạm đến nền tảng sức mạnh quân sự và tầm vóc to lớn của Mỹ trong kỷ nguyên kể từ sau Chiến tranh thế chiến lần thứ II, nghĩa là đụng chạm đến vị trí chiến lược mà các ngân hàng và các hãng công nghiệp của Mỹ đã từng có được trong nền kinh tế thế giới trong những thập kỷ cuối cùng thế kỷ XX. Do đó, một vấn đề nổi lên hàng đầu đối với các nhà hoạch định chiến lược ở Oa-sinh-tơn là làm thế nào tạo dựng đối thủ để ngăn chặn xu hướng li tâm trong hàng ngũ các đồng minh và tiếp tục duy trì họ tập hợp dưới ô sức mạnh của Mỹ trước nguy cơ liên minh chống cộng thời “chiến tranh lạnh” đang tan rã. Oa-sinh-tơn đã chọn I-rắc làm mục tiêu thực hiện chiến lược toàn cầu sau “chiến tranh lạnh”, bởi quốc gia này có vị trí địa - chính trị cực kỳ quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ.
Trong chiến lược chuyển dịch trục đối đầu quốc tế từ xung đột Đông - Tây sang bình diện xung đột Bắc - Nam, không phải ngẫu nhiên Mỹ đi tìm đối thủ mới là I-rắc, bởi đây là quốc gia đang theo đuổi tham vọng bá chủ ở Cận Đông, trước hết là trong khu vực Vùng Vịnh. Các nước ở đây đáp ứng tới 1/4 tổng nhu cầu dầu mỏ của thế giới và tập trung tới 66% nguồn dầu mỏ đã được thăm dò phát hiện. Do nhu cầu dầu mỏ ngày một tăng, một khi Mỹ kiểm soát được các khu vực dầu mỏ lớn nhất thế giới, trước hết là Vùng Vịnh, thì tất cả các nước đồng minh của Mỹ sẽ phải tiếp tục ủng hộ vị thế bá chủ chính trị - quân sự của Mỹ trên thế giới và sẽ phải tự nguyện tiếp tục đứng dưới ô bảo trợ của Oa-sinh-tơn.
Trong cuộc chiến tranh Vùng Vịnh, lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, các hoạt động chiến sự được truyền hình trực tiếp để thế giới biết được thế nào là sức mạnh vượt trội, không có đối thủ cạnh tranh của Mỹ. Các tướng, tá Mỹ tuyên bố, chiến tranh Vùng Vịnh mở đầu kỷ nguyên chiến tranh công nghệ cao, hoặc “chiến tranh không tiếp xúc”, trong đó Mỹ có thể tiến công bất cứ đối thủ nào, ở bất kỳ đâu, vào bất kỳ thời gian nào mà không bị đánh trả. Chiến tranh Vùng Vịnh cũng là dấu mốc mở đầu kỷ nguyên “trật tự thế giới mới”, trong đó sức mạnh quân sự vượt trội là một trong những công cụ để Oa-sinh-tơn xây dựng trật tự thế giới đơn cực do Mỹ lãnh đạo.
Được khuyến khích bởi chiến thắng “ngoạn mục” trong chiến tranh Vùng Vịnh, Oa-sinh-tơn đã phát động các cuộc chiến tranh khác để chiếm giữ các khu vực địa - chính trị quan trọng đối với chiến lược toàn cầu của Mỹ. Đó là chiến tranh Cô-xô-vô (năm 1999), chiến tranh Áp-ga-ni-xtan (năm 2001) và chiến tranh I-rắc (năm 2003).
Mỹ và NATO phát động cuộc chiến tranh Cô-xô-vô xuất phát từ những tính toán chiến lược cho rằng, mảnh đất tuy nhỏ nhoi này là mắt xích quan trọng trong chiến lược của Oa-sinh-tơn nhằm Mỹ hóa toàn bộ khu vực Ban Căng trở thành bàn đạp để Mỹ và NATO tiếp tục bành trướng ảnh hưởng sang vùng Cáp-ca và Trung Á. Từ Ban Căng, Mỹ có thể nhanh chóng triển khai lực lượng sang toàn bộ châu Âu và Trung Đông một khi có biến.
Còn động cơ phát động “cuộc chiến tranh toàn cầu chống khủng bố” ở Áp-ga-ni-xtan xuất phát từ chiến lược hoạch định “bàn cờ lớn” trong thế kỷ XXI, bởi quốc gia này là trái tim của Trung Á, nơi sẽ diễn ra một trong những cuộc cạnh tranh địa - chính trị khốc liệt nhất trong thế kỷ XXI không chỉ nhằm chiếm đoạt quyền khai thác dầu mỏ và khí đốt ở khu vực này, mà còn nhằm hiện diện quân sự tại một khu vực then chốt để kiềm chế ảnh hưởng và hạn chế lợi ích của các nước lớn gồm Nga, Trung Quốc và Ấn Độ có thể thách thức vị thế lãnh đạo thế giới của Mỹ trong thế kỷ XXI. Chiến tranh Áp-ga-ni-xtan mở đầu quá trình “Mỹ hóa Trung Á” để hình thành vành đai địa - chính trị nằm dưới ảnh hưởng của Mỹ, khởi đầu từ các nước thành viên NATO ở châu Âu, qua Ban Căng tới vùng Cáp-ca và Trung Á, hình thành gọng kìm bao vây Nga và Trung Quốc - hai đối thủ lớn nhất đối với Mỹ trong cuộc tranh giành địa - chính trị thế kỷ XXI.
Nếu cuộc chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, còn được gọi là cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ 1, chỉ nhằm “diễu võ dương oai” và thể hiện sức mạnh quân sự không ai có thể cạnh tranh được, thì cuộc chiến tranh I-rắc năm 2003, hay là cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ 2, là nhằm tiêu diệt hoàn toàn nhà nước và chế độ chính trị ở quốc gia này, mở đầu quá trình “dân chủ hóa” hay “Mỹ hóa” toàn bộ khu vực Trung Đông Lớn, biến khu vực này trở thành “sân nhà” của Mỹ.
Như vậy, tất cả các cuộc chiến tranh do Mỹ phát động từ cuộc chiến tranh Vùng Vịnh cách đây vừa tròn 20 năm, đều nằm trong chuỗi mắt xích chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm tranh giành các lợi ích địa - chính trị trên phạm vi toàn cầu.
Nguyên cớ phát động chiến tranh đều do Mỹ dàn dựng
Để chuẩn bị phát động chiến tranh Vùng Vịnh, Oa-sinh-tơn đã sớm nhận thấy tham vọng của Tổng thống I-rắc Xát-đam Hút-xen muốn thôn tính Cô-oét, một quốc gia láng giềng mà nhà cầm quyền ở Bát-đa chỉ coi là một tỉnh của I-rắc. Để thúc đẩy Tổng thống I-rắc Xát-đam Hút-xen phát động chiến tranh nhằm vào Cô-oét, Oa-sinh-tơn đã thông qua Đại sứ Mỹ ở I-rắc Z.Gla-xpi thông báo cho Tổng thống I-rắc Xát-đam Hút-xen rằng, các yêu sách lãnh thổ của I-rắc đối với Cô-oét "chỉ là công việc nội bộ của I-rắc và Mỹ sẽ không can thiệp". Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Giôn Ke-li phụ trách khu vực Cận Đông đã tái khẳng định điều này vào ngày 30-7-1990, rằng Mỹ sẽ không gây bất kỳ khó khăn nào đối với I-rắc trong chuyện thôn tính Cô-oét.
Ở Bát-đa, Tổng thống Xát-đam Hút-xen coi tuyên bố đó của Mỹ là hành động "bật đèn Xanh" cho các kế hoạch ông trong quan hệ với Cô-oét. Đây là sai lầm chiến lược chết người của Xát-đam Hút-xen trong khi nhận định về Mỹ, đã dẫn ông tới quyết định phát động chiến tranh thôn tính Cô-oét. Do sai lầm này ông đã phải trả giá quá đắt.
Lấy cớ “I-rắc xâm lược Cô-oét”, Mỹ đã thành công trong việc đề nghị Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết trừng phạt I-rắc. Và ngày 17-1-1991, được Liên hợp quốc cho phép, lực lượng liên quân đa quốc gia do Mỹ chỉ huy đã mở đầu chiến dịch “Bão táp sa mạc” tiến công I-rắc. Bằng những vũ khí hiện đại nhất tích luỹ được trong thời kỳ “chiến tranh lạnh” chưa được đem ra thi thố như “tên lửa hành trình”, “máy bay tàng hình”, bom đạn “thông minh” được điều khiển bằng vệ tinh, Mỹ đã nhanh chóng tàn phá tất cả các mục tiêu hạ tầng cơ sở quân sự và kinh tế quan trọng nhất, các sở chỉ huy chiến lược, các trung tâm truyền hình và phát thành của I-rắc. Ngày 23-2-1991, Mỹ và liên quân mở chiến dịch trên bộ và chỉ trong 4 ngày đã đập tan sự kháng cự của quân đội I-rắc. Ngày 27-2-1991, Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ tuyên bố chấm dứt chiến sự, còn I-rắc chấp nhận Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Mỹ chỉ dừng lại ở đó mà không tiếp tục tiến công tiêu diệt Tổng thống Xát-đam Hút-xen bởi lúc đó Mỹ đang cần một I-rắc có tham vọng bá chủ khu vực tuy đã suy yếu những vẫn có thể kiềm chế ảnh hưởng của các quốc gia khác ở Cận Đông như I-ran, Gioóc-đa-vi và A-rập Xê-út.
Trong cuộc chiến tranh Cô-xô-vô, Mỹ đã lấy cớ Nam Tư có các hành động “thảm sát nhân đạo” đối với người An-ba-ni ở vùng đất tự trị này. Trên thực tế, cái gọi là “người Xéc-bi tàn sát dã man” đối với người Cô-xô-vô gốc An-ba-ni chỉ là do Oa-sinh-tơn thổi phồng và làm to chuyện từ những vụ xung đột lẻ tẻ xảy ra tại đây. Lấy cớ “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, năm 1999, Mỹ và NATO đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược Nam Tư - một quốc gia có chủ quyền dưới danh nghĩa ngăn chặn cái gọi là “thảm họa nhân đạo”. Sau chiến tranh, tại Hội nghị thượng đỉnh của NATO tổ chức ở Mỹ tháng 5-1999 đã thông qua Chiến lược quân sự mới của liên minh này, trong đó đưa ra luận điểm mới về quyền của họ thực hiện các chiến dịch “can thiệp nhân đạo” trên toàn thế giới, mà không cần được phép của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
Để phát động cuộc chiến tranh Áp-ga-ni-xtan, Oa-sinh-tơn đã lợi dụng vụ khủng bố ngày 11-9-2001 nhằm vào tòa tháp đôi Trung tâm thương mại quốc tế ở Mỹ. Trong khi chưa thể điều tra xác định ai là thủ phạm đích thực gây ra cuộc khủng bố tàn khốc này, Tổng thống Mỹ G.W.Bu-sơ đã vội vàng chớp lấy thời cơ để tuyên bố phát động “cuộc chiến tranh toàn cầu chống khủng bố” trước hết nhằm vào Áp-ga-ni-xtan là nơi mà Oa-sinh-tơn cho rằng chính quyền Ta-li-ban đang “che dấu những kẻ gây ra vụ khủng bố nhằm vào nước Mỹ”. Trên thực tế, Mỹ đã viện cớ vụ 11-9 để khẳng định chủ nghĩa khủng bố là mối đe dọa an ninh toàn cầu đối với thế giới, do đó tất cả các nước nên đi theo Mỹ để “chống khủng bố”. Như vậy, “nguy cơ khủng bố trên quy mô toàn cầu” là cái cớ hợp lý nhất để Mỹ tập hợp thế giới dưới ngọn cờ của Mỹ, thực chất là xây dựng trật tự thế giới đơn cực do Mỹ lãnh đạo.
Để phát động cuộc chiến tranh I-rắc, Mỹ đã viện cớ quốc gia này “sở hữu vũ khí sát thương hàng loạt” và “có mối quan hệ với tổ chức khủng bố An Kê-đa”. Nhưng về sau, các cuộc điều tra do Mỹ tiến hành chứng tỏ nguyên cớ đó là hoàn toàn bịa đặt, ngụy tạo.
Tuy nhiên, Mỹ đã phạm sai lầm nghiêm trọng trong chiến lược sử dụng sức mạnh quân sự. Trong chiến tranh Cô-xô-vô, Mỹ đã thất bại về quân sự do sự chống trả quyết liệt, dũng cảm và đầy mưu trí của các lực lượng vũ trang và nhân dân Nam Tư. Thậm chí, Nam Tư đã bắn rơi máy bay “tàng hình” F-117A và hàng trăm tên lửa hành trình – con át chủ bài của Mỹ. Mỹ và NATO đã phải ký kết hiệp định đình chiến và chỉ có thể lật đổ được Tổng thống Nam Tư Mi-lô-xê-vích trong cuộc “cách mạng nhung” sau đó.
Trong cuộc chiến tranh I-rắc và chiến tranh Áp-ga-ni-xtan, đội quân mạnh nhất và được trang bị hiện đại nhất thế giới đã hoàn toàn bất lực trước một loại hình chiến tranh mới trong thế kỷ XXI. Đó là chiến tranh bạo loạn. Mỹ đã sa lầy trong cuộc chiến tranh I-rắc, đã phải rút quân chiến đấu vào cuối năm 2010 và sẽ rút hết toàn bộ lực lượng quân sự vào cuối năm 2011. Còn thất bại trong cuộc chiến tranh Áp-ga-ni-xtan đang đưa Mỹ và NATO rơi vào bế tắc về chiến lược, và khủng hoảng về học thuyết. Chiến tranh Áp-ga-ni-xtan sẽ là câu trả lời về tương lai của NATO - liên minh quân sự lớn nhất thế giới sau “chiến tranh lạnh”.
Vậy là 20 năm sau cuộc chiến tranh Vùng Vịnh, các chuyên gia quân sự cho rằng, sức mạnh quân sự của Mỹ mặc dù là rất lớn, không có đối thủ cạnh tranh, nhưng hoàn toàn không thích hợp trong việc đối phó với những thách thức và nguy cơ trong thế kỷ XXI. Trong bối cảnh đó, Tổng thống Mỹ Ba-rắc Ô-ba-ma đã phải điều chỉnh chiến lược, trong đó Mỹ sẽ chú ý kết hợp “sức mạnh cứng” với “sức mạnh mềm” như các thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, ngoại giao, kinh tế, văn hóa v.v./
Hương Ly-TCCS:Số 2 (218) năm 2011