TCCS - Chủ nghĩa tư
bản thực hiện được một bước phát triển thì cũng tạo ra những gì không
dung được với chính nó. Từ góc nhìn này, chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa
thực sự là "chủ nghĩa tư bản chống chủ nghĩa tư bản", là "chủ nghĩa tư
bản hướng tới hậu tư bản, phi tư bản".
Chủ nghĩa tư bản độc quyền quốc tế
Từ đầu thập niên 80 thế
kỷ XX đến nay, sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa
thúc đẩy chủ nghĩa tư bản hiện đại chuyển sang giai đoạn độc quyền quốc
tế (độc quyền xuyên quốc gia). Nó triệt để tận dụng ưu thế về thực lực
mọi mặt nhằm bành trướng thế lực trên quy mô toàn cầu với mục đích cố
hữu là thu lợi nhuận độc quyền cao. Thực tế cho thấy, bình quân tỷ suất
chiếm đoạt lợi nhuận trong các nước tư bản phát triển là 300%, cá biệt
có những nơi lên tới 700% - 800%. Do đó về thực chất, "nhà nước phúc
lợi", "chủ nghĩa tư bản nhân dân", "chủ nghĩa tư bản xã hội"... không
phải là biện pháp đổi mới triệt để chất lượng cuộc sống người lao động,
xóa bỏ nghèo khổ, mà là để duy trì sự nghèo khổ trong trật tự. Xã hội tư
bản hiện đại luôn có từ 15% - 20% dân cư nghèo khổ, cho dù chính phủ
luôn tuyên bố "tấn công" vào nghèo đói. Đây là một mô hình cơ cấu tự
nhiên của xã hội tư bản chứ không phải là điều nhất thời. Chương trình
phúc lợi không phải để giảm nghèo túng mà để chịu được cảnh nghèo túng(1).
Trào lưu chủ nghĩa tự do
mới ra đời (các đại diện tiêu biểu là R. Ri-gân và M. Thát-chơ), trở
thành căn cứ lý luận để chủ nghĩa tư bản (CNTB) lũng đoạn quốc tế bành
trướng ra toàn cầu. Sự bùng nổ mạng lưới các công ty xuyên quốc gia và
internet làm cho thị trường toàn cầu trở thành công xưởng toàn cầu, tạo
cơ sở vật chất to lớn để CNTB thực hiện tham vọng lũng đoạn, khống chế
toàn cầu. Chủ trương cơ bản của chủ nghĩa tự do mới là tư nhân hóa mạnh
mẽ tất cả những gì tư nhân làm có lợi hơn là chính phủ làm; giảm thuế,
tài trợ kích thích tư nhân đầu tư; giảm mạnh chi tiêu phúc lợi xã hội,
tạo điều kiện tăng lợi nhuận cho giới tư nhân kinh doanh. Qua đó, đẩy
nhanh việc ứng dụng công nghệ mới, tạo ra sự nhảy vọt của lực lượng sản
xuất, thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức ở các nước tư bản phát
triển. Sự bành trướng của CNTB độc quyền quốc tế ra phạm vi toàn cầu
càng được đẩy mạnh sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan vỡ. Khái niệm
chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa xuất hiện để chỉ sự phát triển CNTB trong
điều kiện toàn cầu hóa và nó được biểu hiện trên các mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, làn sóng tư bản hóa lan khắp toàn cầu, đẩy chủ nghĩa tư bản chuyển nhanh sang giai đoạn lũng đoạn quốc tế và toàn cầu.
Thứ hai,
kinh tế thị trường hóa lan ra toàn cầu, các nước phương Tây ra sức hoàn
thiện cơ chế kinh tế thị trường, các nước khác đua nhau xác lập nền kinh
tế thị trường.
Thứ ba,
trong tiến trình tự do hóa kinh tế thì tự do hóa tài chính được chú ý
nhất, trở thành đòn bẩy để tư bản lũng đoạn quốc tế khống chế kinh tế
toàn cầu. Tự do hóa về tài chính bao gồm những vấn đề như: thực hiện tự
do hóa hoàn toàn về lãi suất, đa nguyên hóa nghiệp vụ ngân hàng, mở cửa
thị trường tài chính đối ngoại, tự do hóa giao dịch ngoại hối...
Thứ tư, nhất
thể hóa toàn cầu nhằm thống nhất toàn cầu của tư bản về thể chế kinh
tế, chính trị và văn hóa, mà thực chất có người coi đó là Mỹ hóa và
phương Tây hóa.
Các chủ trương của chủ
nghĩa tự do mới được thực hiện mạnh mẽ đem lại một bước phát triển mới
trong CNTB, song những mâu thuẫn vốn có của nó lại bộc lộ trầm trọng
thêm. Chẳng hạn, chi phí của Chính phủ Mỹ không giảm mà tăng lên nhiều,
R. Ri-gân chưa lên cầm quyền thì Nhà nước Mỹ nợ mấy trăm tỉ USD, nhưng
kết thúc nhiệm kỳ thì nợ hơn 4 nghìn tỉ. Ngân sách quân sự từ 192 tỉ năm
1981 tăng lên 370 tỉ năm 1988, đến thời G.W Bu-sơ (con) tăng lên gần
600 tỉ USD năm 2008, cùng với việc Mỹ sa lầy trong cuộc chiến ở I-rắc,
Áp-ga-ni-xtan... Điều này đã làm "méo mó" nền kinh tế và đời sống xã hội
Mỹ. Giảm phúc lợi công cộng đi đôi với tăng đóng góp của người lao
động, gây ra bất bình lớn trong xã hội. Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài
chính trầm trọng bắt đầu từ nước Mỹ (từ tháng 8-2007) lan rộng ra toàn
cầu trong mấy năm qua làm nổi rõ những bất ổn trong cấu trúc kinh tế tư
bản và những nan giải mà các định chế kinh tế toàn cầu đang phải đối
mặt. Nó cho thấy sự phá sản của chủ nghĩa tự do mới, khi quá nhấn mạnh
"bàn tay vô hình, vạn năng" điều tiết của thị trường tự do, đồng thời
phản ánh sự bất cập không chỉ trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, mà cả
lĩnh vực sản xuất của CNTB. Hầu như tất cả các nước tư bản phát triển từ
năm 2008 đến nay đều quay trở lại nhấn mạnh vai trò điều tiết của nhà
nước, tung ra hàng loạt gói kích cầu rất lớn để giải cứu, vực dậy nền
kinh tế. Điều đó thực chất không thể nào khác là cứu nguy cho giới chủ tư bản, bằng cách chủ yếu dùng ngân sách từ nguồn thu thuế của người dân lao động. Đây là điểm thuộc bản chất không thay đổi của nhà nước trong CNTB nói chung, CNTB toàn cầu hóa nói riêng.
Chủ nghĩa tư bản toàn cầu
hóa được coi là giai đoạn mới của CNTB độc quyền quốc tế, nó có những
cách thức tồn tại và hình thức thống trị mới nhưng không thay đổi về bản
chất. Tính chất phức tạp và gay gắt của đấu tranh giai cấp trong xã hội
tư bản đương đại có nhiều nét mới, nhưng trọng tâm vẫn xoay quanh mối
quan hệ giữa lao động làm thuê và giới chủ tư bản. Đối diện với khối
nhân dân lao động trí óc và chân tay đông đảo là giai cấp các nhà tư
bản. Giai cấp này vẫn là giai cấp thống trị, là giới chủ trong xã hội,
có vai trò chi phối nhà nước, nhưng nó cũng có sự phân tầng theo một
cách mới, không hoàn toàn giống với nửa đầu thế kỷ XX. Mối quan hệ giữa
lao động và tư bản về bản chất mang tính chất đối kháng. Giai cấp tư sản
cầm quyền hiểu rất rõ điều này và luôn tìm cách điều chỉnh, hướng chủ
yếu là "xả van an toàn", ngăn chặn khả năng bùng nổ các đối kháng, tạo
ra một sự ổn định xã hội tương đối cho trật tự tư bản chủ nghĩa. Tận
dụng được cuộc cách mạng khoa học và công nghệ và do những nguyên nhân
khác nữa, CNTB toàn cầu hóa giải quyết được một số vấn đề nhất định về
việc làm và thu nhập cho người lao động. Thế nhưng, cuộc khủng hoảng
kinh tế- tài chính toàn cầu hiện nay cho thấy rõ: việc bảo đảm cho người
lao động có công ăn việc làm ổn định, yên tâm đối với cuộc sống tương
lai theo thân phận người lao động của mình thì CNTB toàn cầu hóa không
thể làm được. Nỗi lo lắng cho ngày mai trở thành nỗi lo lắng thường trực
hơn, không chỉ đối với người lao động chân tay, mà cả đối với người lao
động trí óc. Điều đó có liên quan đến đặc điểm của khủng hoảng kinh tế,
cái tất yếu kinh tế của CNTB.
Vẫn diễn ra các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ
Trong CNTB toàn cầu hóa,
các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ vẫn diễn ra tuy không kéo dài như
trước nhưng diễn biến lại phức tạp hơn, ranh giới giữa giai đoạn tiêu
điều và phục hồi không thật rõ rệt. Vật giá leo thang ngay cả trong giai
đoạn khủng hoảng tiêu điều, còn trong giai đoạn phục hồi thì mức tăng
của sản xuất cũng rất thấp, tình trạng ngưng trệ hầu như diễn ra dài
hơn... Với chu kỳ tái sản xuất ngắn hơn nên nạn thất nghiệp trở nên
thường xuyên hơn, sự bần cùng hóa tuyệt đối luôn diễn ra với một bộ phận
không nhỏ công nhân và lao động làm thuê. Ngoài khủng hoảng kinh tế chu
kỳ, trong CNTB hiện còn song hành khủng hoảng cơ cấu và khủng hoảng thể
chế quản trị - điều tiết kinh tế. Những hình thức của khủng hoảng cơ
cấu là sự mất cân đối nghiêm trọng nền kinh tế do các nhân tố không có
tính chất chu kỳ tạo ra như: khủng hoảng năng lượng, nguyên liệu (giá
tăng vọt), khủng hoảng tài chính - tiền tệ thế giới, khủng hoảng tín
dụng, nợ nần quốc tế, lạm phát mang tính thế giới... Trong hầu như tất
cả các nước tư bản hàng đầu hiện nay đều lâm vào tình trạng nợ và lạm
phát nghiêm trọng. Từ thực tế này, tạp chí BusinessWeek vừa đưa ra danh
sách những nước có tỷ lệ nợ so với GDP và thâm hụt ngân sách dự kiến ở
mức nguy hiểm trong năm 2010, trong đó, Nhật Bản có tỷ lệ nợ so với GDP
(năm 2009) là 227%, thâm hụt ngân sách 2010 (dự kiến): -10,2%; các tỷ lệ
tương ứng được dự kiến của Mỹ là: 93,6% và -9,9%, của Đức là: 84,5% và
-4,6%, của Pháp là: 82,6% và -7,1%, của I-ta-li-a là: 120,1% và -5,6%,
v.v...(2) Mặt khác, trong điều kiện cách mạng khoa học - công
nghệ và toàn cầu hóa, không chỉ những công nhân lớn tuổi mới bị đẩy vào
đội ngũ thất nghiệp thường xuyên, mà ngay cả những công nhân, những
người lao động trí óc trung niên, có bằng cấp, còn sức khỏe vẫn có nguy
cơ thất nghiệp hoặc khó kiếm việc làm mới. Đây là tình trạng lao động bị
tha hóa và cũng chính là một nguồn gốc lớn của mâu thuẫn trong xã hội
tư bản đương đại.
Cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu hiện nay thêm một lần nữa cho thấy rõ, khủng hoảng vẫn luôn là
bạn đồng hành của kinh tế tư bản chủ nghĩa với biên độ ngày càng dầy
hơn. Lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin về CNTB, chủ nghĩa đế quốc vẫn giữ
nguyên giá trị và là cơ sở khoa học để phân tích làm rõ nhiều vấn đề
mang tính bản chất của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính hiện nay.
Toàn cầu hóa ngày càng phát triển thì càng đẩy nó mâu thuẫn với các thể
chế quản trị - điều tiết kinh tế quốc gia hiện hành. Cuộc khủng hoảng
hiện nay đặt ra đòi hỏi phải có những luật chơi và thể chế quản trị toàn
cầu tương ứng, không bị trói buộc bởi những thể chế quản trị quốc gia
vốn rất khác biệt, thậm chí trái ngược và xung đột nhau. Khủng hoảng thể
chế quản trị nền kinh tế toàn cầu cũng có thể xem là một nguyên nhân
dẫn đến khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu(3).
CNTB toàn cầu hóa vì mục
đích lợi nhuận đã khách quan thúc đẩy, phát triển nền văn minh, song
đồng thời cũng đẩy tới sự tiêu dùng vật chất đến mức đe dọa ngay chính
sự tồn tại hợp lý của con người. Đã có những nhà tư tưởng phương Tây
nhận thức ra sự tha hóa lối sống trong xã hội tư bản đương đại và đề
xướng trào lưu "Hãy sống đơn giản hơn". CNTB trong kỷ nguyên toàn cầu
hóa cũng đang làm nảy sinh tâm trạng bi quan về khoa học ngày càng tăng,
bởi mỗi bước tiến của khoa học đều đặt các nhà khoa học trước trách
nhiệm đối với cuộc sống con người. Đó là sự tha hóa của khoa học, sự tha
hóa ấy không phải lỗi từ khoa học, mà từ việc sử dụng khoa học của CNTB
toàn cầu hóa.
Mối quan hệ với các nước đang phát triển
Khi xem xét CNTB toàn cầu
hóa, người ta quan tâm nhiều tới mối quan hệ của nó đối với các nước
đang phát triển. Ngày nay, hầu như không còn sự độc chiếm và bóc lột
siêu kinh tế ở thuộc địa kiểu như trước đây. Mặc dù CNTB toàn cầu hóa
không có hệ thống thuộc địa, nhưng vẫn có chủ nghĩa thực dân của nó.
Cuộc đấu tranh của các dân tộc đang phát triển chống lại ách áp bức bóc
lột ngoại bang trong điều kiện toàn cầu hóa đã không "tắt dần" để nhường
chỗ cho một quan hệ bình đẳng hợp tác và phát triển, mà vẫn tồn tại,
thậm chí có mặt còn sâu sắc hơn. Cuộc đấu tranh cho những lợi ích sống
còn của các dân tộc đang phát triển chỉ di chuyển nội dung, thay đổi
hình thức chứ không mất đi. Trước đây, nội dung chủ yếu của cuộc đấu
tranh là chính trị và quân sự để giành độc lập dân tộc, thì ngày nay là
kinh tế, chính trị, văn hóa để đi tới chấm dứt sự áp bức bóc lột về kinh
tế, để giữ vững nền độc lập trong xu thế toàn cầu hóa, đấu tranh vì một
sự bình đẳng, hợp tác phát triển lâu dài và bền vững, vì một toàn cầu
hóa nhân bản hơn và cho đại đa số nhân dân lao động. CNTB toàn cầu hóa
đem đến cho các nước đang phát triển nhiều thách thức. Khu vực Mỹ
La-tinh, cái "sân sau" của Mỹ, do thực hiện mô hình "chủ nghĩa tự do
mới" với việc tư nhân hóa tràn lan và tự do hóa kinh tế một cách thái
quá, nên có đến 44% dân số sống dưới mức nghèo khổ, số người thất nghiệp
tăng gấp hai lần trong thập niên 90 thế kỷ XX. Đây là một trong những
nguyên nhân cơ bản dẫn đến bùng nổ trào lưu cánh tả tại khu vực này
trong giai đoạn hiện nay.
Chủ nghĩa tư bản toàn cầu
hóa không cần đến những hình thức bóc lột siêu kinh tế như thời áp đặt
chế độ thuộc địa trước đây, mà bằng những hình thức mới, chỉ bằng những
quan hệ ràng buộc về kinh tế vẫn bảo đảm cho nó những lợi nhuận siêu
ngạch. Đó cũng chính là lý do làm xuất hiện một phong trào đấu tranh
rộng lớn trên thế giới đương đại chống lại mặt trái của toàn cầu hóa.
Nhưng không chỉ có vậy, trong quan hệ với các nước đang phát triển, khi
không đạt được lợi ích bằng con đường ràng buộc kinh tế và khi có điều
kiện, thì các thế lực đế quốc hiếu chiến không từ bỏ hình thức áp đặt
bằng bạo lực. Với cuộc chiến ở áp-ga-ni-xtan và I-rắc, chủ nghĩa đế quốc
đã làm tái hiện trở lại không chỉ những quan hệ của chủ nghĩa thực dân
mới, mà còn cả của chủ nghĩa thực dân cũ: đó là chiến tranh xâm lược, sự
chiếm đóng của quân đội viễn chinh, bình định lãnh thổ mới bị chiếm,
thiết lập bộ máy cai trị do viên toàn quyền nước ngoài đứng đầu, độc
chiếm và khai thác tài nguyên thuộc địa... Tình hình đó tất yếu sẽ làm
cho vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc và giải phóng dân tộc trong thế giới
hiện đại trở nên phức tạp, quyết liệt hơn.
Trong mối quan hệ giữa
các nước tư bản phát triển với nhau, những mâu thuẫn nổi lên cũng không
kém phần phức tạp, gay gắt sau khi trật tự thế giới hai cực chấm dứt.
Tuy nhiên, hình thức đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn đã có nhiều thay
đổi, chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, khoa học và công nghệ,
thương mại và đầu tư... Điều này làm xuất hiện ảo tưởng về một CNTB hòa
bình, có thể đem lại cho nhân loại ổn định, hợp tác và phát triển trong
bối cảnh toàn cầu hóa. Thế nhưng, liệu điều đó có thể xảy ra khi vẫn
hiện hữu, thậm chí gia tăng khuynh hướng cường quyền, áp đặt với nhiều
biến thái mới của các thế lực đế quốc, khi mâu thuẫn giữa các trung tâm
quyền lực của CNTB vẫn tiếp tục gay gắt, quyết liệt như hiện nay?
Bước vào thế kỷ XXI, bên
cạnh vấn đề chiến tranh và hòa bình, thì vấn đề môi trường cũng là vấn
đề toàn cầu bức xúc hàng đầu của sự sống trên hành tinh. Xoay quanh vấn
đề này diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt, mà nguyên nhân của nó cũng chủ
yếu liên quan đến CNTB toàn cầu hóa. Kết quả rất hạn chế của Hội nghị
thượng đỉnh Liên hợp quốc về biến đối khí hậu cuối năm 2009 vừa qua tại
Cô-pen-ha-ghen (Đan Mạch) cho thấy rõ các nước tư bản phát triển vẫn
chưa sẵn sàng gánh vác những trách nhiệm tương xứng trước vấn nạn khủng
hoảng môi trường, trước hết là sự biến đổi khí hậu toàn cầu đã trở nên
gay gắt nhất.
Từ sự biến đổi về chính trị và kinh tế của CNTB toàn cầu hóa, có thể rút ra vài nhận xét sau:
Một là, CNTB
trong xu thế toàn cầu hóa còn khả năng phát triển kinh tế - xã hội,
nhất là chuyển sản xuất sang chiều sâu như hiện nay. Sở hữu tư nhân, lợi
ích tư nhân vẫn còn là động lực lâu dài của phát triển kinh tế nói
chung trong CNTB.
Hai là, sự
thích ứng của CNTB thông qua những điều chỉnh về nhiều mặt, không vượt
được giới hạn lợi ích tư sản. Kinh tế - xã hội phát triển được một bước
thì mâu thuẫn tư bản và lao động lại bộc lộ ra có quy mô rộng lớn hơn và
đi vào chiều sâu hơn, không thể có cách giải quyết triệt để trong khuôn
khổ CNTB.
Ba là, CNTB
toàn cầu hóa tạo ra được nền kinh tế tri thức, chuyển mạnh được sản xuất
ở trình độ cơ khí sang tin học hóa và từ đây quá trình toàn cầu hóa
kinh tế ngày càng phát triển. Nhưng toàn cầu hóa, bên cạnh mặt tích cực,
thì do sự gia tăng khống chế của CNTB lũng đoạn toàn cầu với mạng lưới
đồ sộ vươn rộng khắp hành tinh của các tổ chức tư bản độc quyền xuyên
quốc gia, thực sự là một quá trình đầy mâu thuẫn, hàm chứa sự bất bình
đẳng mà phần bất lợi đang thuộc về các nước đang phát triển với nguy cơ
tụt hậu ngày càng xa.
Bốn là, CNTB
thực hiện được một bước phát triển thì cũng tạo ra những gì không dung
được với chính nó. Từ góc nhìn này, CNTB toàn cầu hóa thực sự là "chủ
nghĩa tư bản chống chủ nghĩa tư bản", là "chủ nghĩa tư bản hướng tới hậu
tư bản, phi tư bản". Chiến tranh, môi sinh, bất bình đẳng, phát triển
vì con người... biết bao nhiêu vấn đề có tính sống còn phải khắc phục
trong các lĩnh vực trên, và sự khắc phục này về cơ bản là khắc phục
chính CNTB toàn cầu hóa.
Như vậy, những biện
pháp điều chỉnh của CNTB không làm thay đổi bản chất của nó. Tuy nhiên,
xu hướng vận động khách quan của CNTB trong xu thế toàn cầu hóa tiếp tục
chuẩn bị tiền đề không chỉ vật chất - kỹ thuật, mà cả những nhân tố hợp
lý trong thiết chế chính trị, nhà nước cho chủ nghĩa xã hội. Trên góc
nhìn này, xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng chính là sự hiện thực hóa cái
lô-gic phát triển của lực lượng sản xuất và nền văn minh mà nhân loại
đạt được trong CNTB. Toàn bộ tình hình như đã nêu làm cho việc thay thế
chế độ tư bản để mở đường cho sự phát triển xã hội trở thành vấn đề thời
sự của lịch sử đương đại. Bước đi tùy thuộc hoàn cảnh cụ thể, nhưng đó
là xu thế lịch sử không thể đảo ngược./.
_____________________________________________________________________________________________
(1) Xem: Edwad Greenberg: Chủ nghĩa tư bản và chính trị Mỹ, MF. Sharper Inc, New York, 1987, tr 48
(2) Mười quốc gia có nguy cơ chết chìm trong nợ, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, cập nhật 16-1-2010
(3) Xem: Đỗ Hoài Nam:
“Một số lý thuyết kinh tế và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu”, Tạp chí
Cộng sản điện tử, cập nhật ngày 06-10-2009
TCCS: số 8 (200) năm 2010